Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tập mờ và logic mờ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.01 KB, 6 trang )

Tập mờ và logic mờ
TS.Vũ Minh Lộc
Niklaus Writh thuộc trường Đại học kỹ thuật Zurich, Thụy Sỹ, người sáng lập ngôn ngữ lập
trinh Pascal đã đưa ra công thức nổi tiếng:
Chương trình = Cấu trúc dữ liệu + Giải thuật (Program = Database + Algorithm)
Trong đó giải thuật là phương pháp giải quyết vấn đề (bài toán) như các thuật giải về sắp xếp,
tìm kiếm, thuật giải di truyền, nội suy, lập luận xấp xỉ, các phương pháp xử lý tín hiệu số...
Nhưng cái khác so với phép giải bài toán là giải quyết vấn đề bằng phương pháp lập trình
quyết định bởi Cấu trúc dữ liệu. Nếu chọn được cấu trúc dữ liệu tốt thì giải thuật sẽ đơn giản và
tối ưu. Người ta thường nói một cách đơn giản Cấu trúc dữ liệu là cách tổ chức dữ liệu nhưng
thực chất là tìm mô hình toán học để mô phỏng dữ liệu. Như vậy “nói đi, nói lại” công nghệ
thông tin lại trở về toán học! Sau này nghiên cứu, làm việc ở những lĩnh vực cao hơn như:
Nhận dạng, Hệ chuyên gia, Hệ trợ giúp quyết định, Điều khiển tự động..chúng ta càng thấy hết
ý nghĩa của việc “tổ chức dữ liệu” hay là tìm một mô hình toán học để mô phỏng đầy đủ đặc
trưng hiện tượng khách quan cần nghiên cứu.
Đến đây lại có điều thú vị là ta đã biết tập hợp số dùng để biểu diễn mô tả những đại lượng
trong đó tập số thực bao gồm tập số hữu tỷ và vô tỷ. Tập số hữu tỷ vô hạn nhưng đếm được,
tập số vô tỷ cũng là vô hạn nhưng là “vô hạn bậc cao hơn” -không đếm được- tức tập số vô tỷ
nhiều hơn tập số vô tỷ. Nhưng trong thực tế chúng ta lại thường gặp nhiều số hữu tỷ hơn là số
vô tỷ! Cũng vậy trong hệ trục tọa độ tập số thực chỉ lấp đầy hai hai trục tọa độ nhưng tập tập số
ảo thì lấp đầy cả mặt phẳng tọa độ. Tuy nhiên trong đời sống thì số thực thì lại gần gũi chúng ta
hơn tập số ảo.
Bây giờ chúng ta nói đến khái niệm tập hợp là một khái niệm nền tảng (fundamental) và quan
trọng của toán học hiện đại mà Nhà toán học Georg Cantor được coi là ông tổ của lý thuyết
tập hợp. Để xác xác định một tập hợp có nhiều phương pháp trong đó người ta dùng hàm đặc
trưng -Indicator function) như sau
Nếu tập A

U là không gian tham chiếu, hàm đặc trưng M
A
(x) để xác định mỗi phần tử x


của U có thuộc tập A hay không bởi ánh xạ
M
A
(x ): U được xác định M
A
(x)=
{
1.....
0.....
x A
x A


Nhưng trong cuộc sống không phải lúc nào cũng rõ ràng như vậy, chẳng hạn chúng ta xét
một ví dụ sau đây. Khi hỏi một người đang ngồi trên ô tô hiện cách nhà bao xa thường thì
chúng ta không thể nhận được câu trả lời “ còn cách nhà đúng 12Km” … mà thay vào đó là các
câu trả lời “gần về tới nhà” hay “ còn cách nhà khoảng 10Km” . Như vậy các khái niệm “gần”
hay “khoảng” là biểu thị cái gì đó không chính xác, không chắc chắn, cảm thấy “lơ mơ, không
rõ rang” và do đó không thể dùng một con số chính xác nào để thể hiện và mô phỏng các khái
1
niệm đó. Để giải quyết vấn đề, người ta đã sáng tạo khái niệm mới trong toán học là “Tập mờ”.
Định nghĩa tập mờ như sau.
Cho không gian tham chiếu U và hàm thuộc µ
A
: U

[0;1]

x


U µ
A
(x) chỉ độ thuộc của x đối
với A
Khi đó tập
A
:
được gọi là tập mờ khi mỗi phần tử của
A
:
là cặp (x,µ
A
(x) ).
Và Kí hiệu tập mờ
A
:
=
( )
|
A
x
x U
x
µ
 

 
 
Cụ thể nếu U={x
1

,…x
n
} khi đó
A
:
={μ
A
(x
1
)/x
1
;……;μ
A
(x
n
)/x
n
}
Hoặc kí hiệu như sau
A
:
=
1 2
1 2
( ) ( ) ( )
.....
A A A n
n
x x x
x x x

µ µ µ
+ + +
Trong trường hợp hàm µ
A
(x) là liên tục trong không gian tham chiếu U là vô hạn thì kí hiệu
tập mờ như sau
A
:
=
( )
A
U
x
x
µ


Ta có thể cho ví dụ về tập mờ như sau
Xét Khái niệm “gần tới” ở đây không giant ham chiếu là U={5; 6; 7;8;10} (vì đi Ôtô nên khoảng
cách gần tới được xem như các giá trị trên tức là 5km,….,10km)
Ký hiệu “gần tới” là và độ thuộc của của các của các phần tử lần lượt là
µ
A
(5)=0.4; µ
A
(6)=0.7; µ
A
(7)=0.8;µ
A
(8)=0.95;µ

A
(10)=0.9 thì
A
:
=
0.4 0.7 0.8 0.95 0.9
5 6 7 8 10
+ + + +
Lotfi Asker Zadeh là nhà toán học, nhà khoa học máy tính Mỹ, Giáo sư đại học
Berkeley tại California đã phát minh Lý thuyết tập mờ vào năm 1965
Các tập mờ hay tập hợp mờ (tiếng Anh: Fuzzy set) là một mở rộng của lý thuyết tập
hợp cổ điển và được dùng trong lôgic mờ. Trong lý thuyết tập hợp cổ điển, quan hệ thành viên
của các phần tử trong một tập hợp được đánh giá theo kiểu nhị phân theo một điều kiện rõ ràng
- một phần tử hoặc thuộc hoặc không thuộc về tập hợp. Ngược lại, lý thuyết tập mờ cho phép
đánh giá từ từ về quan hệ thành viên giữa một phần tử và một tập hợp; quan hệ này được mô
tả bằng một hàm liên thuộc (membership function) . Các tập mờ được coi là một
mở rộng của lý thuyết tập hợp cổ điển là vì, với một universe (Không giant ham chiếu hay
không gian nền) nhất định, một hàm liên thuộc có thể giữ vai trò của một hàm đặc
2
trưng (indicator function) ánh xạ mỗi phần tử tới một giá trị 0 hoặc 1 như trong khái niệm cổ
điển.
Như vậy về phương diện giải tích mỗi tập mờ ứng với một hàm số và hàm số có đồ thị của
nó. Những tập mờ thường gặp đồ thị của hàm độ thuộc (membership function ) có hình dạng là
hình tam giác hoặc hình thang mà người ta thường gọi vắn tắt là “tập mờ hình thang” hoặc “tập
mờ hình tam giác” như hình vẽ dưới đây:

h
1
Hình 1. Ba tập mờ chỉ các trạng thái nhiệt độ Cold (lạnh), Warm (ấm) và
Hot(nóng) đều có dạng hình thang.

Theo hình vẽ này tại điểm h
1
trên trục nhiệt độ ( temperature) chiếu lên đầu tiên ta thấy cắt
tập mờ warm tại điểm mà ta có thể thấy được là “hơi ấm” (little warm), đồng thời cắt tập mờ
cold tại điểm mà ta thấy là “tương đối lạnh” (possible cold). Tóm lại ở nhiệt độ h
1
có thể xem
là “hơi ấm” hoặc “tương đối lạnh”
Ngày nay tập mờ và logic mờ được ứng dụng nhiều trong khoa học kỹ thuật đặc biệt trong điều
khiển tự động trong hệ trợ giúp quyết định trong tính toán hiệu năng cao… Ví dụ trong máy giặt
có ghi Fuzzy logic Controler như chúng ta đã gặp, máy có thể đo được độ bẩn, chất liệu và
trong lượng đồ cần giặt từ đó ấn định mức độ bột giặt, số nước cần dùng và các chức năng cần
vận hành để giặt sạch.
Tương tự như tập hợp, ta cũng có các phép toán trong tập mờ đó là phép hợp , phép giao,
phép lấy phần bù được định nghĩa như sau:
-Cho hai tập hợp mờ
A
:
= { (x,µ
A
(x))|x

U } và
B
:
= {(x,µ
B
(x))|x

U } cùng không gian tham

chiếu
là U tập mờ
C
:
={(x,µ
C
(x))|x

U } là hợp của
A
:

B
:
ký hiệu là
C
:
=
A
:

B
:
Trong đó
µ
C
(x) = Max{ µ
A
(x), µ
B

(x) }
-Cho hai tập hợp mờ
A
:
= { (x,µ
A
(x))|x

U } và
B
:
= {(x,µ
B
(x))|x

U } cùng không gian tham
chiếu
là U tập mờ
D
:
={(x,µ
D
(x))|x

U } là giao của
A
:

B
:

ký hiệu là
D
:
=
A
:

B
:
Trong đó
µ
D
(x) = Min{ µ
A
(x), µ
B
(x) }
3
-Phần bù của tập mờ
A
:
= { (x,µ
A
(x))|x

U } là tập mờ kí hiệu là
A
;
được xác định như sau


A
;
={ (x, 1-µ
A
(x))|x

U }
Ví dụ
Trong không gian tham chiếu U= {x
1
, x
2
…,x
9
, x
10
} cho hai tập mờ

A
:
=
1
0.4
x
+
2
0.3
x
+
3

0.6
x
+
4
0.9
x
+
7
1.0
x
+
9
0.9
x
+_
10
0.8
x

B
:
=
1
0.5
x
+
2
0.8
x
+

3
0.6
x
+
5
0.7
x
+
6
1.0
x
+
7
0.4
x
+
8
0.65
x
Thực hiện các phép tính hai tập mờ trên ta có

C
:
=
A
:

B
:
=

1
0.5
x
+
2
0.8
x
+
3
0.6
x
+
4
0.9
x
+
5
0.7
x
+
6
0.85
x
+
7
1.0
x
+
8
0.65

x
+
9
0.9
x
+_
10
0.8
x

D
:
=
A
:

B
:
=
1
0.4
x
+
2
0.3
x
+
3
0.6
x

+
7
0.4
x


A
;
=
1
0.6
x
+
2
0.7
x
+
3
0.4
x
+
4
0.1
x
+
5
1.0
x
+
6

1.0
x
+
8
1.0
x
+
9
0.1
x
+
10
0.2
x

Với chú ý rằng một điểm x
i
không có mặt tập mờ nào đó thì độ thuộc của nó trong tập
mờ đó bằng 0. Ngược lại nếu tại điểm x
j
mà độ thuộc đối với một tập mờ nào đó bằng 0
thì trong biểu thức biểu diễn tập mờ đó không có x
j
Để có hình ảnh cụ thể của các phép toán nói trên chúng ta hãy quan sát các hình
dạng của các tập mờ liên quan đến các phép tính

μ
1

A

:

B
:

A
:

B
:
U
4
Hình 2. Giao của hai tập mờ
A
:

B
:
là tập mờ

A
:

B
:
dạng hình tam giác cạnh màu
xanh đậm


μ

1 -

A
:

B
:
A
:

B
:
U
Hình 3. Phép hợp hai tập mờ, trong đó tập mờ
A
:
có dạng hình tam giác, tập mờ
B
:

dạng hình thang, tập mờ
A
:

B
:
có hình dạng mà đồ thị của nó tạo bởi đường biên bao ngoài
hai tập mờ trên (phần biên màu đậm)

µ

1-
A
:

A
:
U
Hình 4. Tập mờ
A
:
hình tam giác, sau khi thực hiện phép lấy phần bù ta có tập mờ
A
;
mà hình dạng của nó là đường gấp khúc nét đậm,màu xanh
Lý thuyết tập mờ ngày càng phong phú và hoàn chỉnh, đã tạo nền vững chắc để phát triển
logic mờ. Có thể nói logic mờ (Fuzzy logic) là nền tảng để xây dựng các hệ mờ thực tiển, ví dụ
trong công nghiệp sản xuất xi măng, sản xuất điện năng, các hệ chuyên gia trong y học giúp
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×