Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tiểu luận: Quản trị rủi ro trước, trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 - 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.31 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





QUẢN TRỊ RỦI RO TRƯỚC, TRONG VÀ SAU CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008-09



GVHD: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
NHÓM 18:

HUỲNH THỊ TƯỜNG VI – NHÓM TRƯỞNG
BÙI NGỌC ĐOAN TRINH
HOÀNG TRUNG KIÊN
LỚP: TCDN NGÀY 2
KHÓA 21


TP. HỒ CHÍNH MINH 03/2013
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 1
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 – QUẢN TRỊ RỦI RO 3


1. Chiến lược phân bổ nguồn vốn 3
2. Khả năng nhìn nhận, tổng hợp rủi ro 4
3. Cơ cấu quản trị rủi ro 4
II. MÔ HÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO TỐI ƯU TRƯỚC, TRONG VÀ SAU CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 5
1. Dữ liệu nghiên cứu 6
2. Phương pháp nghiên cứu 7
3. Nội dụng nghiên cứu 8
4. Kết luận 13
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ QUẢN TRỊ RỦI RO HIỆU QUẢ 14
1. Ý kiến của Gabriele Sabato 14
2. Ứng dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro 19
3. Những hướng dẫn của Kenneth A.Froot, David S. Scharfstein và Jeremy C. Stein. 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





QUẢN TRỊ RỦI RO TRƯỚC, TRONG VÀ SAU CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008-09



GVHD: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
NHÓM 18:


HUỲNH THỊ TƯỜNG VI – NHÓM TRƯỞNG
BÙI NGỌC ĐOAN TRINH
HOÀNG TRUNG KIÊN
LỚP: TCDN NGÀY 2
KHÓA 21


TP. HỒ CHÍNH MINH 03/2013
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 2
LỜI MỞ ĐẦU

uộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-09 đã để lại một dấu ấn không thể phai
mờ đối với các tổ chức kinh tế và tài chính trên toàn thế giới, và câu hỏi mà các nhà đầu
tư đặt ra là, tại sao cuộc khủng hoảng tài chính lại xảy ra và lại tồi tệ đến như vậy? Khi
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, thì ai cũng cho rằng đó là do bong bóng nhà
đất, và việc cho vay dưới chuẩn của các định chế tài chính Mỹ gây ra. Tuy nhiên, đó có
phải là nguyên nhân thực sự gây ra cuộc khủng hoảng? Theo tác giả Gabriele Sabato của
bài nghiên cứu “Financial Crisis: Where did the risk management Fail” thì nguyên nhân
sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-09 là do sự quản trị rủi ro yếu kém của
các định chế tài chính. Nếu đúng như nhận định của Gabriele Sabato thì câu hỏi được đặt
ra là vai trò của CRO ở đâu và họ đã làm gì để giúp công ty vượt qua được cuộc khủng
hoảng. Bài nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về vai trò, vị trí của CRO trong
doanh nghiệp, cũng như việc lựa chọn mô hình quản trị rủi ro tối ưu cho từng thời kỳ như
thế nào? Và cuối cùng là những kim chi nam (framework) cho các nhà quản trị trong việc
quản trị rủi ro như thế nào? Bài nghiên cứu cũng đưa ra một số phương pháp để quản trị
rủi ro như sử dụng thị trường phái sinh để phòng ngừa rủi ro như thế nào?













C

Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 3
I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 – QUẢN TRỊ RỦI RO
Khi xem xét những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính 2008, hầu hết
mọi người đều bắt đầu từ thị trường bất động sản, bong bóng bất động sản bị vỡ từ
năm 2006, và tập trung vào các khoản cho vay dưới chuẩn. Trong khi đó, sự thật
hoàn toàn không phải như vậy. Theo Gabriele Sabato: “Finanacial Crisis: Where did
risk management fail?” nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng tài chính 2008 là do
hệ thống quản trị rủi ro yếu kém dựa trên niềm tin là các ngân hàng có khả năng tự
điều tiết, các cơ quan quản lý trên thế giới đã không giám sát hiệu quả chức năng
quản trị rủi ro ở các ngân hàng.
Trong khi đó, quản trị rủi ro tại hầu hết các ngân hàng đều thất bại trong việc tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cho sự an toàn của ngân hàng trước những
biến cố lớn và tối thiếu hóa biến động lợi nhuận.
Tại sao quản trị rủi ro của các ngân hàng đều thất bại? Gabriele Sabato đã đưa ra ba

nguyên nhân gây ra sự thất bại của quản trị rủi ro đó là: (1) chiến lược phân bổ
nguồn vốn ; (2) Khả năng nhìn nhận rủi ro; (3) Cơ cấu quản trị rủi ro .
1. Chiến lược phân bổ nguồn vốn
Các ngân hàng không có chiến lược phân bổ nguồn vốn hợp lý, phát triển danh mục
cho vay của mình theo xu hướng đáp ứng tất cả nhu cầu về vốn của thị trường mà
không tính đến mức độ rủi ro.
Khả năng huy động vốn dễ dàng, nguồn vốn dồi dào và chi phí sử dụng vốn rất rẻ đã
tạo cho ngân hàng niềm tin rằng mọi hợp đồng cho vay đều có thể được thực hiện và
mang lại lợi nhuận mà không cần thẩm định để đánh giá mức độ rủi ro của mỗi hợp
đồng.
Ngoài các chức năng vốn có của một tổ chức kinh tế, ngân hàng cũng có chức năng
xã hội là cung cấp vốn cho các công ty trong giai đoạn bắt đầu hay tăng trưởng và
cung cấp vốn cho người tiêu dùng để mua nhà hay hàng hóa. Chức năng xã hội này
đã chiếm vị trí quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phân bổ nguồn vốn. Tuy
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 4
nhiên, trong 20 năm qua, dưới áp lực của các cổ đông cho rằng ngân hàng là các
định chế tài chính chỉ tạo ra lợi nhuận, các CEO của ngân hàng đã tích cực đầu tư
vào những tài sản phức hợp mà kết hợp giữa những sản phẩm cho vay truyền thống
với việc đầu cơ vào cổ phiếu.
Mô hình hoạt động của các ngân hàng chuyển từ hoạt động cho vay truyền thống
sang tập trung vào đầu cơ cổ phiếu “tăng trưởng nóng”, những tài sản có tương quan
cao và cung cấp những khoản vay để đầu tư vào cổ phiếu mà bỏ qua khía cạnh đánh
giá rủi ro. Nhờ đó, ngân hàng đã tăng được lợi nhuận, sử dụng hiệu quả nguồn vốn
nhưng lại vi phạm quy định của Basel II.
2. Khả năng nhìn nhận, tổng hợp rủi ro
Hệ thống quản trị rủi ro doanh nghiệp (ERM) là một phương pháp cung cấp một cái
nhìn toàn diện và chặt chẽ về các rủi ro mà một tổ chức đang đối mắt. Nhưng có rất

ít ngân hàng cố gắng thực hiện ERM và thậm chí ít thành công trong việc đưa quản
trị rủi ro trở thành văn hóa của ngân hàng.
Hầu hết các ngân hàng chỉ mới nhìn nhận được từng rủi ro riêng biệt, chưa áp dụng
một hệ thống để tổng hợp các loại rủi ro lại với nhau. Do đó, với mỗi loại rủi ro ngân
hàng có một cách đo lường và xử lý khác nhau. Rủi ro có tính chất khác nhau nên
cộng tất cả các rủi ro lại với nhau thì không bằng tổng các rủi ro. Sự kết hợp các loại
rủi ro khác nhau là thách thức mà các tổ chức tài chính đang đối mặt.
Ngoài ra, ở hầu hết các ngân hàng, hệ thống IT vẫn chưa thể tương tác các rủi ro với
nhau và các phương pháp sử dụng để đánh giá rủi ro cũng rất khác nhau nên không
thể tổng hợp tất cả vào một con số
3. Cơ cấu quản trị rủi ro
Thiếu cơ cấu quản trị rủi ro rõ ràng sẽ làm mất đi lợi ích được tạo ra bởi một đội ngũ
quản trị rủi ro. Lập luận này được sử dụng nhiều trong suốt cuộc khủng hoảng tài
chính, bởi các nhà quản trị rủi ro như là cái cớ để biện minh cho sự thất bại của quản
trị rủi ro.
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 5
Sự thật là ở hầu hết các tổ chức vai trò của quản trị rủi ro rất bị hạn chế. Sự ảnh
hưởng của các nhà quản trị rủi ro đến các quyết định kinh doanh là dựa vào khả năng
thuyết phục chứ không phải dựa vào quyền lực của họ.
Tuy nhiên, công việc của hầu hết các nhà quản trị rủi ro đều dựa trên những dự báo
không chắc chắn và những kịch bản mang tính giả thuyết, do đó, rất dễ dàng để
không thừa nhận những giả định đằng sau các đề xuất quản trị rủi ro.
Ở hầu hết các ngân hàng, giám đốc quản trị rủi ro (CRO) không thuộc Ban điều hành,
rõ ràng cơ cấu này không thích hợp để dự đoán rủi ro và lên tiếng khi cấn thiết.
Qua nghiên cứu “Finanacial Crisis: Where did risk management fail?”, Gabriele
Sabato đã phân tích ba vấn đề quan trọng liên quan đến sự thất bại của quản trị
rủi ro tại các ngân hàng: (1) chiến lược phân bổ nguồn vốn không hợp lý; (2)

không có cái nhìn tổng thể về rủi ro; (3) Cơ cấu quản trị rủi ro chưa phù hợp.
Những vấn đề này chưa bao giờ được nhìn nhận rõ ràng ở các ngân hàng và
trong giai đoạn khủng hoảng tài chính hiện nay nó trở nên rõ ràng hơn.
II. MÔ HÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO TỐI ƯU TRƯỚC, TRONG VÀ SAU CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008
Quản trị rủi ro là rất quan trọng đối với các cơ quan quản lý và các định chế tài chính,
những cơ quản quản lý tài chính muốn các định chế tài chính có tính thanh khoản và
khả năng thanh toán đầy đủ. Trong khi các định chế tài chính thì muốn tối đa hóa lợi
nhuận từ những khoản đầu tư vào tài sản tài chính và duy trì được mức độ tín nhiệm
đối với cơ quan quản lý.
Quản trị rủi ro tối ưu là sự lựa chọn mô hình đánh giá rủi ro tối ưu từ những mô hình
đánh giá rủi ro khác nhau, và cân nhắc việc kết hợp những mô hình đánh giá rủi ro
khác nhau. Mô hình đánh giá rủi ro có thể thay đổi theo thời gian, thậm chí hằng
ngày.
Để biết được mô hình quản trị rủi ro tối ưu được sử dụng trước, trong và sau cuộc
khủng hoảng tài chính 2008-09 là những mô hình nào? Và những mô hình này có
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 6
thay đổi theo thời gian không? Nghiên cứu của Michael McAleer, Juan-Angel
Jimenez-Martin và Teodosio Perez-Amaral (2009), Optimal Risk Management
Before, During and After the 2008-2009 Financial Crisis, sẽ trả lời những câu hỏi
này. Chi tiết của nghiên cứu được trình bày sau đây
1. Dữ liệu nghiên cứu
Với mục đích minh họa cho nội dung chính của bài nghiên cứu, nhóm tác giả chọn
các chỉ số chứng khoán như sau: Down Joins Industrial Average (DJIA), Financial
Times Stock Exchange 100 Index (FTSE), Hang Seng Index (HSI), Nikkei Index
(NK) và Standard and Poor’s 500 (S&P500), với dữ liệu được lấy từ ngày 3/1/2000
đến 15/7/2009. Những chỉ số này được chọn vì có thể so sánh với các nghiên cứu

trước kia và cũng vì những chỉ số này thể hiện được những biến động kinh tế quan
trọng.
Thời gian xảy ra khủng hoảng tài chính cho từng chỉ số chứng khoán (Bảng 1)

Mô hình đánh giá rủi ro: gồm 7 mô hình đơn: GARCH, GARCh-t, EGARCH,
EGARCH-t, GJR, GJR-t và Riskmetrics và 2 mô hình kết hợp: SUP, INF. Chiến
lược SUP là chiến lược tính độ biến động của từng mô hình đơn lẻ, chiến lược này
được gọi là chiến lược quản trị rủi ro linh hoạt là bởi vì nó sẽ lựa chọn được giá trị
VaR lớn nhất của từng mô hình đơn (là giá trị nhỏ nhất do giá trị này là những giá trị
âm, khi lấy giá trị tuyệt đối). Chiến lược INF ngược lại với chiến lược SUP.


Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 7
2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa theo những quy định, yêu cầu của Công ước Basel II về tối thiểu hóa mức vốn
trung bình hằng ngày. Basel II được đưa ra để giám sát và khuyết khích duy trì mức
rủi ro hợp lý bằng cách sử dụng những mô hình đánh giá rủi ro thích hợp để tính giá
trị VaR (Value-at-Risk là thước đo xác suất và mức độ thiệt hại tài chính) và chi phí
vốn thực tế hằng ngày (DCC)
Ước lượng VaR:
t
tt
zYVaR
^^
.




Ước lượng DCC:

-
t
VaR
: VaR tại ngày t
-
t
VaR
: là giá trị trung bình của VaR trong 60 ngày làm việc
- 0<=k<=1 : là mức phạt của vi phạm theo Basel II. Hệ số nhân k phụ thuộc và đánh giá
của cơ quan giám sát trung ương về những qui trình quản trị rủi ro và kết quả của
back-test.






Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 8
Bảng 2: Phạt vi phạm theo Công ước Basel II

Số lần vi phạm được tính trong 250 ngày làm việc, số lần vi phạm được đo bằng
phương pháp back-test là so sánh tổn thất thực tế với VaR được ước lượng, nếu tổn
thất thực tế lớn hơn VaR được ược lượng thì được xem là một lần vi phạm
- Số nhân tối thiểu là 3 (k=0) là khoản bù cho những lỗi khác nhau có thể xảy ra khi

thực hiện mô hình
3. Nội dụng nghiên cứu
3.1 Đo lường mức độ biến động và hệ số tương quan giữa các chỉ số chứng khoán
Hình 1, thể hiện mức điểm hằng ngày của 5 chỉ số chứng khóan. Rõ ràng chúng biến
động tương tự nhau qua thời gian. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ hơn các hệ số tương
quan chúng ta sẽ thấy rằng, trong khi S&P500 có hệ số tương quan cao đối với DJIA,
FTSE và Nikkei, thì hệ số tương quan của Nikkei và HS cũng như FTSE và HS lại
tương đối thấp lần lượt là 0.634 và 0.698




Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 9
Hình 1: Điểm số hằng ngày của DJIA, FTSE, HIS, NK và S&P500
từ 03/01/2000 đến 15/7/2009

Bảng 3: Hệ số tương quan giữa các chỉ số

Hình 2, thể hiện mức độ biến động hằng ngày của những chỉ số chứng khoán, chúng
ta sẽ thấy có sự tương quan cao giữa DJIA và S&P500 (0.966), vì đều ở USA. Tuy
nhiên, sự tương quan giữa các chỉ số chứng khoán còn lại không cao, tương đối thấp.
Điều này có thể giải thích rằng, có sự khác nhau trong mức độ biến động hằng ngày
của những chỉ số chứng khoán ở USA, UK, Hong Kong và Japan.



Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo



Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 10
Hình 2: Mức độ biến động hằng ngày của DJIA, FTSE, HIS, NK và S&P500
từ 03/01/2000 đến 15/7/2009

Bảng 4: Hệ số tương quan

Hình 3, cho thấy độ biến thiên của chỉ số chứng khoán, được tính bằng độ lệch
chuẩn. Mối tương quan của độ biến thiên giữa DJIA và S&P500 là cao (0.948), điều
này thực sự không ngạc nhiên bởi vì DJIA và S&P500 có thị trường giống nhau là
đều ở USA. Tuy nhiên, tương quan về độ biến thiên của các chỉ số khác thì nhỏ hơn,
lớn nhất là 0.493 giữa DJIA và FTSE và nhỏ nhất là DJIA và Nikkei, 0.195




Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 11
Hình 3: Mức độ biến thiên hằng ngày của DJIA, FTSE, HIS, NK và S&P500
từ 03/01/2000 đến 15/7/2009

Bảng 5: Hệ số tương quan

Từ những kết quả trên, chúng ta có thể kết luận rằng, có sự khác biệt tương đối lớn
về tính đồng nhất giữa các loại chứng khoán
3.2 Xác định mô hình đánh giá rủi ro tối ưu cho mỗi chỉ số chứng khoán trước,
trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09

Mô hình đánh giá rủi ro tối ưu là mô hình VaR mà có nhiều ngày tối thiểu hóa chi
phí vốn nhất trong một giai đoạn cho trước, theo qui định của Công ước Basel II và
mô hình này cũng cho ra DCC nhỏ nhất.
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 12
Để đạt được kết quả như mong muốn, nhóm tác giả giả định rằng các định chế tài
chính theo đuổi chiến lược đầu tư vào chỉ số chứng khoán một cách thụ động. Sau đó
tính VaR và DCC cho từng mô hình đánh giá rủi ro và từng chỉ số chứng khoán
trong ba giai đoạn trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09. Kết quả thực
nghiệm được tóm tắt như sau
- Khi xem xét từng chiến lược đơn
Bảng 6: Những mô hình đánh giá rủi ro đơn tốt nhất để ước tính VaR cho mỗi chỉ số
chứng khoán

%: Biểu thị cho tỷ lệ % số ngày mà mô hình VaR có chi phí vốn tối thiểu cho giai
đoạn phân tích
Avg: Biểu thị cho giá trị trung bình của DCC trong khoản thời gian phân tích
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, mô hình GARCH, EGARCH và EGARCH-t
là những mô hình tốt nhất. Sau khủng hoảng tài chính xảy ra thì EGARCH là mô
hình đánh giá rủi ro tốt nhất trong tất cả các chỉ số. Vì vậy, có thể thấy rằng, mô hình
tốt nhất đã thay đổi đối với các chỉ số vào giai đoạn khủng hoảng tài chính và sau
khủng hoảng tài chính.




Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo



Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 13
- Khi xem xét cả chiến lược đơn và chiến lược kết hợp
Bảng 7: Những mô hình đánh giá rủi ro đơn và kết hợp tốt nhất để ước tính VaR cho
mỗi chỉ số chứng khoán

%: Biểu thị cho tỷ lệ % số ngày mà mô hình VaR có chi phí vốn tối thiểu cho giai
đoạn phân tích
Avg: Biểu thị cho giá trị trung bình của DCC trong khoản thời gian phân tích
Mô hình SUP tối ưu cho 11/15 trường hợp, trong khi mô hình đơn chỉ tối ưu đối với
4/15 trường hợp. Cũng có thể nhận thấy rằng, giá trị trung bình DCC về mặt tổng
quát là nhỏ hơn khi so sánh với bảng 6.
Những kết quả thực nghiệm này cho thấy rằng việc sử dụng kết hợp các mô hình rủi
ro khác nhau sẽ cho ta mức yêu cầu vốn trung bình ngày thấp hơn so với việc sử
dụng mô hình đơn, mà vẫn đảm bảo được qui định của Basel II.
4. Kết luận
- Mô hình quản trị rủi ro tối ưu thì khác nhau trong 3 giai đoạn trước, trong và sau
khủng hoảng tài chính 2008-09
- Mô hình quản trị rủi ro kết hợp theo yêu cầu của Công ước Basel II được xem là
hiệu quả hơn những mô hình đơn lẻ



Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 14
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ QUẢN TRỊ RỦI RO HIỆU QUẢ
1. Ý kiến của Gabriele Sabato
Trong nghiên cứu: “Finanacial Crisis: Where did risk management fail?”, Gabriele

Sabato chứng minh được quản trị rủi ro yếu kém đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 và cũng chỉ ra được nguyên nhân tại sao hoạt động quản trị rủi ro
trong giai đoạn này lại yếu kém như vậy?. Để giải quyết và cải thiện hệ thống quản
trị rủi ro trong tương lai hiệu quả, Gabriele Sabato đã đưa ra một số ý kiến sau:
1.1 Phân bổ nguồn vốn
Gabriele Sabato đề cập đến Lý thuyết lựa chọn danh mục đầu tư Markowitz (1952).
Trong nghiên cứu này, Markowitz giải thích làm thế nào để xây dựng danh mục đầu
tư hiệu quả nhất trong việc tìm kiếm sự cân bằng giữa lợi nhuận kỳ vọng và thiệt hại.
Ông chứng minh rằng đa dạng hóa là công cụ tốt nhất để giảm rủi ro cho toàn bộ
danh mục đầu tư.
Khi rủi ro và hoạt động kinh doanh kết hợp với nhau, doanh nghiệp mới có được mô
hình chấp nhận rủi ro hiệu quả và bền vững. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần sử
dụng phương pháp tiếp cận từ trên xuống dưới. Cuối cùng, Ban diều hành, đại diện
cho cổ đông, sẽ tìm cách hướng đến việc chấp nhận rủi ro và đạt lợi nhuận kỳ vọng.
Theo những hướng dẫn trên, rủi ro và hoạt động kinh doanh sẽ xác định mức độ
chấp nhận rủi lại các mức độ khác nhau.
Xây dựng một mô hình chấp nhận rủi ro tốt sẽ bao gồm hai bước:
Bước thứ nhất: nên trình bày về tình hình hiện tại. Phần này sẽ cung cấp một cách
rõ ràng làm thế nào để phân bổ nguồn vốn cho các danh mục đầu tư, tập trung chính
vào những danh mục nào và những danh mục đầu tư nào có lợi nhuận nhỏ hơn kỳ
vọng. Đề làm được điều này, trước tiên chúng ta cần xác định số liệu được sử dụng.
Theo Markowitz (1952), tác giả sử dụng độ lệch chuẩn của thiệt hại (Ϭ) và lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho mỗi danh mục đầu tư. Nếu chúng ta tưởng tượng
một ngân hàng có ba sản phẩm (vay thế chấp (P1), thẻ tín dụng (P2) và các khoản
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 15
vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ (P3)), chúng ta có thể sử dụng các bong bóng với
các kích cỡ khác nhau để trình bày nguồn vốn được phân bổ bao nhiêu cho mỗi danh

mục (xem hình 4). Cuối cùng, ngân hàng cần sử dụng ít nhất là ba biểu đồ (theo
nhóm, theo bộ phận và theo danh mục đầu tư) để có được một cái nhìn toàn diện.
Hình 4: Lựa chọn danh mục đầu tư của ngân hàng

Hình vẽ này cho thấy sự phân bổ trong ba danh mục đầu tư (vay thế chấp, thẻ tín
dụng và các khoản vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ) trong bức tranh rủi ro của
ngân hàng. Kích thước của các bong bóng cho thấy số lượng vốn được phân bổ cho
các danh mục đầu tư.
Khi vẽ xong biểu đồ, chúng ta có thể tập trung vào xây dựng mô hình. Dựa trên mục
tiêu của Ban điều hành về lơi nhuận kỳ vọng và thiệt hại, chúng ta sẽ vẽ bốn đường
thẳng để phân chia khu vực trong hình. Hai đường thẳng thể hiện lợi nhuận kỳ vọng
tối thiểu và rủi ro tối đa có thể chấp nhận được để xác định khả năng chịu đựng rủi
ro của ngân hàng. Hai đường thẳng còn lại thể hiện lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro chấp
nhận được để xác định khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng.
Phân biệt khả năng chịu đựng rủi ro và sự chấp nhận rủi ro là rất quan trọng. Trước
hết, hai khái niệm này rất khác nhau và rất khó hiểu, chúng tạo ra sự không chắc
chắn về cái có thể và cái mong đợi. Thứ hai, khả năng chịu đựng rủi ro được xét
trong dài hạn, còn sự chấp nhận rủi ro thay đổi thường xuyên theo tình hình thị
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 16
trường và nền kinh tế. Cuối cùng, những đường thẳng trong biểu đồ cho phép chúng
ta sử dụng phương pháp RAG để phân loại danh mục đầu tư của ngân hàng trong các
khu vực khác nhau và dựa vào đó xác định chiến lược cụ thể (xem hình 5).
Như tác giả đã đề cập trước đó, kích cỡ của bong bóng đại diện cho sự tập trung
trong từng sản phẩm, danh mục đầu tư, ngành hay quốc gia cụ thể phụ thuộc vào
mức độ chấp nhận rủi ro và trên các loại tài sản xem xét. Một vài số liệu có thể được
dùng để xác định kích thước bong bóng: sự cân bằng, tài sản phân theo cấp độ rủi ro
(RWA), vốn kinh tế (EC). Sự lựa chọn phụ thuộc vào mức độ phức tạp mà ngân

hàng có được để đo lường sự phân bổ nguồn vốn.
Hình 5: Xác định mô hình chấp nhận rủi ro

Số liệu này cho thấy làm thế nào để xác định mô hình chấp nhận rủi ro. Danh mục
đầu tư có thể được phân loại thành vàng/đỏ/xanh lá cây.
Bước thức 2: bao gồm việc đưa danh mục đầu tư về với mức lợi nhuận kỳ vọng và
mức biến thiên dự kiến.
Mô hình chấp nhận rủi ro sẽ mô tả cách chiến lược phân bổ nguồn vốn nên thay đổi
khi danh mục đầu tư nằm trong khu vực màu đỏ hay vàng, nhưng không nên thiết
lập các giới hạn riêng cho mỗi sản phẩm, danh mục đầu tư, quốc gia hay lĩnh vực.
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 17
Chúng ta nên sử dụng phương pháp tiếp cận từ trên xuống dưới để thiết lập giới hạn
cho mô hình. Trong trường hợp này, Ban diều hành nên cung cấp các báo cáo
chuyên sâu để giải thích sự phân chia và mức độ danh danh mục đầu tư giữa rủi ro
và hoạt động kinh doanh.
Khi mô hình chấp nhận rủi ro hoàn tất, nó đảm bảo rằng rủi ro đã được làm rõ. Để
thay đổi hành vi liên quan đến rủi ro, sự can thiệp thông qua huấn luyện bổ sung hay
thay đổi nhân sự là cần thiết. Nhưng trong hầu hết các doanh nghiệp, định hướng của
các nhà quản lý cấp cao có tác động lớn. Chấp nhận rủi ro không chỉ là một mô hình
mà nó còn thay đổi sâu sắc văn hóa để đảm bảo các doanh nghiệp phát triển vững
chắc trong tương lai.
1.2 Áp dụng hệ thống quản trị rủi ro doanh nghiệp (ERM)
ERM là một hệ thống nghiêm ngặt được dùng để đánh giá và giải quyết rủi ro từ tất
cả các nguồn đe dọa đến việc đạt được mục tiêu chiến lược của tổ chức. ERM được
thực hiện tốt sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện và chặt chẽ về rủi ro mà tổ chức
đang đối mặt.
Theo các tài liệu có liên quan, chúng ta có thể chia rủi ro thành rủi ro thuần túy và

rủi ro đầu cơ. Quản trị rủi ro truyền thống đã từng tập trung vào rủi ro thuần túy cho
đến khi quản trị rủi ro tài chính chiếm ưu thế trong nhưng năm 80 về việc phát triển
các công cụ, kỹ thuật và các quy định chuyên biệt. Trong môi trường hiện nay, sự
kết hợp của hai loại rủi ro khác nhau chắc chắn là thách thức chính mà các tổ chức
tài chính sẵn lòng thực hiện phương pháp ERM. Tuy nhiên, ERM chỉ tập trung vào
rủi ro tài chính. Do đó, nó sẽ bỏ qua một số nguồn gây ra tổn thất hay hủy hoại giá
trị.
Bước đầu tiên trong thực hiện ERM là xác định rủi ro đã xuất hiện trong công ty.
Một cách tiếp cận phổ biến là xác định loại rủi ro sẽ được đo lường. Ban đầu, tổ
chức tập trung vào rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. Cuối cùng mới thêm vào rủi
ro hoạt động. Đối với phương pháp tiếp cận để nắm bắt tất cả rủi ro của công ty, rủi
ro hoạt động bao gồm tất cả những rủi ro không phải là rủi ro thị trưởng và rủi ro tín
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 18
dụng. Về phía ngân hàng, theo Hiệp ước Basel, định nghĩa rủi ro hoạt động bỏ qua
các rủi ro danh tiếng. Do đó, có sự khác nhau giữa đo lường rủi ro hoạt động cho
mục đích quản lý và đo lường rủi ro hoạt động theo quan điểm ERM. Nhiều công ty
đã đi xa trong việc đo lường rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, các công ty đã thử đo lường rủi ro thanh khoản,
rủi ro danh tiếng, rủi ro thuế, rủi ro trợ cấp và rủi ro chiến lược.
Nếu một doanh nghiệp phân loại rủi ro thành rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro
hoạt động hay sử dụng một phương pháp khác thích hợp hơn cho doanh nghiệp thì
sau đó họ xác định và đo lường những rủi ro này như thế nào. Các công ty sử dụng
các phương pháp phổ biến nhất để xác định và đo lường lường những rủi ro này. Đối
với rủi ro hàng tồn kho của doah nghiệp, doanh nghiệp nên thu thập, cập nhật và so
sánh tất cả các thông tin.
Các công ty cần có khả năng tập hợp những rủi ro phổ biến trên tất cả các hoạt động
kinh doanh của công ty để phân tích và quản lý hiệu quả các rủi ro này. Mục đích là

để nắm bắt tất cả rủi ro, sử dụng phương pháp phù hợp để định lượng rủi ro và sau
đó tổng hợp toàn bộ rủi ro riêng lẻ của công ty cũng như phân tích các rủi ro tổng
hợp này để xem xét sự tương quan giữa các rủi ro.
Một cách lý tưởng, một mô hình quản trị rủi ro tốt cần phải tổng hợp được tất cả các
rủi ro vào trong một con số chẳng hạn như mức độ tối ưu của nguồn vốn có sẵn.
Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống IT để tương tác các rủi ro với nhau và các phương
pháp sử dụng để đánh giá rủi ro cũng rất khác nhau.
1.3 Cơ cấu quản trị rủi ro
Các tổ chức phải đảm bảo sự độc lập trong chức năng quản trị rủi ro và các cơ quan
giám sát phải theo dõi liên tục việc này.
Mặt khác, việc trao quyền và tạo sự độc lập cho bộ phận quản trị rủi ro không hẳn sẽ
giải quyết được mọi vấn đề nếu như chất lượng của chức năng này không được cải
thiện cho phù hợp. Các nhà quản lý cấp cao cần phải hướng đến việc cải thiện vai trò
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 19
của CRO hiệu quả hơn, gia tăng sự liên quan của CRO với các quyết định kinh
doanh hằng ngày và đảm bảo sự ổn định, hợp lý của tất cả quy trình. Nói chung, Ban
điều hành cần chú ý nhiều hơn đến CRO, phê duyệt và giám sát mô hình chấp nhận
rủi ro thông qua báo cáo quản trị rủi ro.
Các CRO sẽ tạo thuận lợi cho thay đổi văn hóa trong Ban điều hành và trong cả tổ
chức với sự giúp đõ của nhân viên quản lý rủi ro. Có thể đây không phải là một quá
trình dễ dàng và nhanh chóng nhưng đây là cách duy nhất để đảm bảo sự tôn trọng
và tính độc lập của chức năng quản trị rủi ro trong tương lai.
2. Ứng dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro
Trong bài viết “A framework for risk management”, Kenneth A.Froot, David S.
Scharfstein và Jeremy C. Stein đã hướng dẫn những nhà lãnh đạo cấp cao trong việc
phát triển một chiến lược quản trị rủi ro chặt chẽ. Cụ thể là, hướng dẫn quản trị rủi ro
thông qua các công cụ tài chính phái sinh. Theo nhóm tác giả một chiến lược quản

trị rủi ro cần phải được lồng ghép với chiến lược chung của doanh nghiệp và chiến
lược quản trị rủi ro phải dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:
- Chìa khóa để tạo ra giá trị của doanh nghiệp là thực hiện đầu tư tốt.
Chìa khóa để thực hiện đầu tư tốt là tạo ra đủ lượng tiền mặt nội bộ để tài trợ cho các
khoản đầu tư, khi doanh nghiệp không tạo ra đủ lượng tiền mặt, họ có xu hướng cắt
giảm đầu tư mạnh hơn so với các đối thủ.
Dòng ngân lưu, là rất quan trọng đối với quá trình đầu tư, có thể bị gián đoạn bởi các
biến động bên ngoài như tỷ giá, giá cả hàng hóa, lãi suất, do đó, có khả năng ảnh
hưởng đến khả năng đầu tư của doanh nghiệp.
- Vì thế, một chiến lược quản trị rủi ro nên có một mục tiêu bao quát để bảo đảm rằng
doanh nghiệp có sẵn tiền mặt
- Bằng cách nhận biết và chấp nhận mục tiêu này, những nhà quản lý sẽ được trang bị
tốt hơn để trả lời những câu hỏi cơ bản nhất của quản trị rủi ro: Những rủi ro nào nên
được phòng ngừa và những rủi ro nào không cần phải phòng ngừa? Những công cụ
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 20
và chiến lược nào là phù hợp? Chiến lược quản trị rủi ro của một công ty bị ảnh
hưởng bởi chiến lược của những công ty đối thủ như thế nào?
2.1 Tại sao thực hiện giao dịch phái sinh?
Xét một ví dụ minh họa về một công ty dược phẩm đa quốc gia Omega có trụ sở và
nhà máy sản xuất tại Mỹ, nhưng 1/2 doanh thu là từ thị trường Nhật và Đức. Một vài
sản phẩm của Omega có bằng sáng chế độc quyền. Bất ổn chủ yếu của Omega là
doanh thu từ nước ngoài, do công ty không dự đoán được sự biến động của tỷ giá.
Omega dự đoán doanh thu của công ty như sau:
Bảng 8: Doanh thu dự kiến của Omega theo biến động tỷ giá
Biến động tỷ giá Doanh thu dự kiến (triệu USD)
Đồng USD tăng giá 100


Đồng USD ổn định 200

Đồng USD giảm giá 300

Omega có một chiến lược đầu tư trong năm tới đó là đầu tư cho chương trình R&D,
vì R&D là chìa khóa thành công có các doanh nghiệp dược phẩm. Dự kiến kinh phí
đầu tư là 200 triệu USD, vì qua tính ước tính Omega thấy với khoảng đầu tư 200
triệu USD sẽ tạo ra NPV lớn nhất
Bảng 9: Dự kiến NVP đạt được từ đầu từ vào R&D







Payoff
s

f
r
o
m

Omega

Drug’s
R&D
Investment



Net
Present
V
alue*


60

90

60

Discounted
Cash

Flows*

160

290

360

R&D Level*

100

200


300

*In millons of dollas
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 21
Do Omega đã sử dụng đòn bẫy tài chính cao nên không thể vay nợ để tài trợ chương
trình R&D, Omega chỉ có thể sử dụng nguồn tài trợ nội bộ từ doanh thu. Với những
khoản doanh thu được dự kiến theo biến động của tỷ giá (Bảng 8), để đảm bảo có
được 200 triệu USD cho chương trình R&D Omega tin rằng thực hiện giao dịch phái
sinh sẽ bảo vệ được công ty tránh được rủi ro tỷ giá.
Bảng 10: Dự kiến kết quả đạt được khi giao dịch phái sinh
Biến động tỷ giá Lợi nhuận dự kiến (triệu USD)
Đồng USD tăng giá 100

Đồng USD ổn định 0

Đồng USD giảm giá -100

Khi thực hiện giao dịch phát sinh, dù tỷ giá thay đổi thế nào Omega vẫn nhận được
200 triệu USD cho R&D.
Nếu không thực hiện giao dịch phái sinh, trường hợp USD tăng giá Omega chỉ có
100 triệu USD cho R&D, bằng giao dịch phái sinh Omega sẽ có thêm 100 triệu USD
nữa cho R&D làm cho dòng tiền chiết khấu tăng thêm 130 triệu USD (từ 160 triệu
USD lên 290 triệu USD). Trường hợp USD giảm giá, Omega sẽ mất 100 triệu USD
cho giao dịch phái sinh. Khoảng lời 130 triệu USD lớn hơn khoảng lỗ 100 triệu USD,
vậy về tổng thể, Omega sẽ tốt hơn khi thực hiện giao dịch phái sinh.
Bảng 11: Hiệu quả của giao dịch phái sinh


Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 22
Hình 6: Phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho khoản đầu tư R&D cố định

2.2 Khi nào thực hiện, không thực hiện giao dịch phái sinh?
Xét ví dụ về công ty dầu Beta, rủi ro chính của Beta là sự thay đổi giá dầu như rủi ro
của công ty dược Omega là tỷ giá. Tuy nhiên, giá trị đầu tư cho R&D của Omega
không bị ảnh hưởng bởi tỷ giá, trong khi đó giá trị đầu tư của Beta thay đổi theo sự
biến động của giá dầu (giá dầu giảm thì doanh thu giảm và giá trị đầu tư giảm vì khi
giá dầu giảm không thu hút sự thăm dò và khai thác, ngược lại, khi giá dầu tăng
doanh thu tăng và giá trị đầu tư lại tăng). Vì vậy, Beta không có lý do gì phải thực
hiện giao dịch phái sinh như Omega.
Doanh thu và đầu dự kiến của Beta theo biến động của giá dầu:
Bảng 12: Doanh thu và đầu tư dự kiến của Beta
Biến động giá dầu

Doanh thu dự kiến
(triệu USD)
Giá trị đầu tư tối ưu dự kiến
(triệu USD)
Thấp 100

150

Trung bình 200

200


Cao 300

250

Như vậy, giá dầu càng cao doanh thu càng cao và càng thu hút đầu tư thăm dò và
khai thác, trong ví dụ này khả năng nguồn vốn nội tại không quá chênh lệch so với
Tiểu luận: Quản trị rủi ro Nhóm 7 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Quản trị rủi ro trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-09 Trang 23
nhu cầu đầu tư khi Beta không giao dịch phái sinh. Đối với Beta nguồn vốn nội tại
chỉ chênh lệch so với nhu cầu đầu tư là 50 triệu USD, còn Omega là 100 triệu USD.
Do vậy, Beta không cần giao dịch phái sinh để phòng rủi ro giá dầu như Omega, nói
cách khác, sự tối ưu của giao dịch phái sinh cho Beta chỉ bằng 1/2 Omega.
Từ ví dụ này có thể rút ra một điểm quan trọng: chiến lược quản trị rủi ro thích hợp
đảm bảo rằng công ty có dòng tiền mặt khi họ cần đầu tư, nhưng nó không tìm kiếm
cách thức bảo vệ hoàn toàn khỏi các loại rủi ro.
Trong thực tế, sự cố gắng để bảo vệ nhà đầu tư hoàn toàn khỏi các rủi ro giá dầu
thậm chí có thể phá hủy giá trị. Ví dụ, nếu Beta giao dịch phái sinh hoàn toàn, thực
tế nó sẽ có nguồn vốn nội tại vượt quá khi giá dầu giảm: dòng tiền của nó ổn định ở
mức 200 triệu đô trong khi đầu tư chỉ cần 150 triệu đô. Nhưng khi giá dầu cao: công
ty sẽ mất rất nhiều tiền cho vị thế phòng ngừa dẫn đến thiếu hụt đầu tư. Dòng tiền
ròng của nó chỉ có 200 triệu đô, nhưng đầu tư tăng lên 250 triệu đô. Trong trường
hợp này, phòng ngừa hoàn toàn sẽ cản ngăn công ty khỏi những đầu tư làm tăng giá
trị.
Hình 7: Phòng ngừa rủi ro giá dầu









×