Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tài liệu Tiểu luận: Gía trị thặng dư sử dụng vào việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.89 KB, 20 trang )

Tiểu luận
Gía trị thặng dư sử dụng
vào việc công nghiệp hoá -
hiện đại hoá
1
MỤC LỤC(ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT)
1. L I M U. Ờ Ở ĐẦ ..............................................................................................3
2. N I DUNG.Ộ .....................................................................................................4
2.1.C s lý lu n c a giá tr th ng d , ph ng pháp s n xu t giá tr ơ ở ậ ủ ị ặ ư ươ ả ấ ị
th ng d tuy t i v giá tr th ng d t ng i, m i quan h gi a hai ặ ư ệ đố à ị ặ ư ươ đố ố ệ ữ
ph ng pháp n y.ươ à ...........................................................................................4
2.2. Ý ngh a c a vi c nghiên c u các ph ng pháp s n xu t giá tr th ng ĩ ủ ệ ứ ươ ả ấ ị ặ
d : ư .................................................................................................................12
2.3. Ph ng pháp s n xu t giá tr th ng d tuy t i v t ng i ươ ả ấ ị ặ ư ệ đố à ươ đố
c v n d ng v o trong công cu c công nghi p hoá hi n i hoá c a đượ ậ ụ à ộ ệ ệ đạ ủ
n c ta hi n nay.ướ ệ ..........................................................................................13
3. K T LU N.Ế Ậ ...................................................................................................23
2
1. LỜI MỞ ĐẦU.
Lấy cơ sở nghiên cứu là trường phái kinh tế chính trị cổ điển, mà đại
biểu chính là David Ricardo, Karx Marx và Engels đã xây dựng nên trường
phái kinh tế chính trị Macxít và sau này được lênin củng cố thành kinh tế
chính trị Mac - Lênin. Kinh tế chính trị Mac - Lênin đã đưa ra những luận
chứng có tính chất quá độ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và tất yếu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Quyển I của bộ tư
bản có tựa đề là “Về tư bản” được K.Marx cho xuất bản năm 1867, trong tác
phẩm này K.Marx đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh
tế chính trị tư bản mà trước đó, chưa ai có thể làm được, nó được đánh giá
như “tiếng sét nổ giữa bầu trời quang đãng của chủ nghĩa tư bản”, một trong
số các học thuyết được nêu ra là thuyết giá trị thặng dư, nhờ có học thuyết này
mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương


thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác, mà trong đó
hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp giá trị thặng dư tương đối và
phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo
ra tư bản để tích luỹ và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng
phát triển. Hai phương pháp này đã được đưa vào ứng dụng ở nhiều quốc gia
trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sau ngày đất nước dành được độc lập,
đảng và nhà nước ta đã nhận định rằng để đưa đất nước phát triển thì con
đường duy nhất để đưa nước ta phát triển là đưa nước ta trở thành một nước
có nền kinh tế hiện đại, để làm được điều đó trước hết chúng ta phải tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới từng bước đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Do vận dụng không hợp lý những nguyên tắc
trong từng thời kì khác nhau của đất nước nên chúng ta đã gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình xây dựng đất nước, đạt được ít thành quả trong quá trình
xây đựng đất nước. Nhưng từ khi bước vào thời kì đổi mới năm 1986, từ
3
những kinh nghiệm thu được sau nhiều năm và kinh nghiệm của thế giới,
đảng ta đã có quan điểm hết sức rõ ràng (tại đại hộigiữa nhiệm khoá VII):
“Những tiến bộ về kinh tế, xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác
phát triển với các nước, các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một
bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, từng
bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ
trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là con đường thoát khỏi tụt hậu xa hơn so với các nước xung
quanh, giữ được ổn định chính trị và xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền
và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”.
2. NỘI DUNG.
2.1.Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối, mối quan hệ giữa hai
phương pháp này.

Đã có nhiều người đưa ra các phạm trù giá trị thặng dư, nhưng họ không
chỉ ra được sự đúng đắn của phạm trù này, K.Marx là người đầu tiên xây
dựng hoàn chỉnh học thuyết giá trị thặng dư.Và theo K.Marx thì “giá trị thặng
dư là giá trị do sức lao động của công nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động và
bị nhà tư bản chiếm đoạt”, nó là kêt quả lao động không công của người công
nhân làm thuê. Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư
liệu sản xuất, nhưng không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng
hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy, cũng dễ hiểu khi mục đích của
giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước
4
hết nhà tư bản phải sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng
là nội dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây
cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản
xuất để sản xuất giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được
kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm
thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng
lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động,
phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư. Ví dụ sau sẽ minh hoạ rõ về giá trị thặng
dư:
Giả sử để chế tạo 1kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 20.000 đơn vị tiền
tệ mua 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức
lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 10 giờ. Tổng cộng số tiền
ứng ra là 28.000 đơn vị tiền tệ. Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể
công nhân sử dụng máy móc để chuyển 1kg bông thành 1kg sợi, Theo đó giá
trị của bông và hao mòn của máy móc được chuyển vào sợi, bằng lao động
trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới nhập vào sợi. Trong 5 giờ công nhân
đã chuyển được 1kg bông thành 1kg sợi thì giá trị của 1kg sợi là:

+ Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị
+ Giá trị mới tạo ra (bằng giá trị sức lao động): 5.000 đơn vị
Tổng cộng: 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không thu được ít giá trị
thặng dư nào. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 10 giờ nên 5 giờ
tiếp theo nhà tư bản không phải trả công nữa mà chỉ cần phải chi thêm 2.000
đơn vị tiền tệ để mua 1kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc nhưng sẽ
có thêm 1kg sợi.
5
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra để có 2kg sợi:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 20 = 40.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc trong 10 tiếng 3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
+ Tiền lương cả ngày 10 tiếng: = 5.000 đơn vị
Tổng cộng: = 51.000 đơn vị
Giá trị sợi nhà tư bản thu được 28.000*2 = 56.000 đơn vị
Như vậy nhà tư bản thu được giá trị thặng dư = 56.000 - 51.000 = 5.000 đơn
vị
Từ ví dụ trên đây có thể thấy đích xác được giá trị thặng dư từ đâu mà có, cái
mà nhà tư bản thu được là cái gì, nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là cơ sở của sự
giàu có của giai cấp tư sản, cho nên K.Marx đã viết “Bí quyết của sự tăng
thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao
động không công nhất định của người khác”. Nhà tư bản làm được điều đó vì
họ có trong tay tư liệu sản xuất, còn người lao động không có tư liệu sản xuất
chỉ có sức khoẻ, điều duy nhất người công nhân có thể làm là bán sức lao
động của mình để lấy tiền luôi sống bản thân và gia đình của họ. Khi đó sức
lao động trở thành hàng hoá, giá trị sức lao động là điều kiện quan trọng để
sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy, theo K.Marx giá trị sản phẩm được khái
quát theo công thức sau:
c + v + m

Trong đó:
c: giá trị tư liệu sản xuất
v: giá trị của sức lao động
m: giá trị thặng dư
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử
dụng vào những mục đich khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư
liệu sản xuất, để tái mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư
hơn.
6
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng
hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt
đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho
một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao
động thủ công, hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường
thủ công. Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư. Bởi phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu
được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi
năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không
thay đổi. Có nghĩa là khi nhà tư bản muốn tăng giá trị thặng dư, thì nhà tư bản
sẽ mua thêm máy móc mua, thêm tư liệu sản xuât, thuê thêm công nhân để
sản xuất ra hàng hóa; nhưng móc, chỉ mua thêm nguyên liệu sản xuất, và bắt
công nhân hiện có phải cung cấp thêm một lượng lao động, đồng thời tận
dụng triệt để công suất của máy móc hiện có. Cái lợi ở đây là nhà tư bản
không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm công nhân, mua thêm máy móc thiết
bị, đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh hơn, hao mòn và chi phí bảo
quản giảm đi rất nhiều, thời gian thu lợi nhuận sẽ dài hơn. VD: Một ngày
người công nhân lao động 8 giờ, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4 giờ,

thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới
là 10.000 đơn vị tiền tệ, thì trong một ngày người công nhân tạo ra một lượng
giá trị mới là 80.000, bao gồm 40.000 là chi phí sản phẩm và 40.000 là giá trị
thặng dư tuyệt đối, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi kéo dài thời
gian lao động ra thêm 2 giờ với điều kiện các yếu tố khác không đổi thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên là 60.000, nhà tư bản được lợi thêm 20.000 đơn vị
7
so với trước đó, tỷ suất thặng dư là 150%.(Tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện
của trình độ bóc lột giá trị thặng dư).
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của người công
nhân làm thuê, nhưng thực tế thì không cho phép họ làm như vậy trong một
thời gian quá dài. Vì những việc làm đó là vượt quá giớ hạn sinh lí của người
công nhân, một người có thể duy trì mãi một cường độ lao động với năng suất
cao trong một thời gian dài là điều không thể có được, họ cần phải có thời
gian ăn ngủ, nghỉ ngơi giải trí nhằm hồi phục sức khoẻ. Thật dễ hiểu khi giai
cấp tư bản gặp phải sự kháng cự của giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản muốn
kéo dài thời gian lao động trong ngày, còn giai cấp công nhân muốn rút ngắn
thời gian lao động, do đó độ dài ngày lao động có thể co giãn và việc xác định
độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh giữa hai
giai cấp đó. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở đó lợi ích kinh
tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện theo
một thoả hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản sẽ tìm mọi cách
để tăng cường độ lao động của người công nhân. Tăng cường độ lao động có
nghĩa là chi phí nhiều sức lao động trong một khoảng thời gian nhất định, nên
về thực chất cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày. Nhà tư
bản có thể tăng thêm tư liệu lao động, yêu cầu hay thoả thuận người lao động
lao động với cường độ cao mức bình thường, yêu cầu khi người lao động là
họ phải tập trung làm việc hơn, các thao tác làm việc phải nhanh hơn… những
việc đó sẽ tốn nhiều sức lao động hơn so với bình thường, và cũng tạo ra

nhiều sản phẩm hơn. Nhưng việc tăng cường độ lao động khó hơn việc tăng
thời gian lao động của người công nhân. vì việc này muốn thực hiện đựoc thì
nhà tư bản phải thay đổi máy móc.
8

×