Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

(Tiểu luận) bài tập lớn học phần triết học mác lênin đề bài 3 triết học mác – lênin là gì nêu đối tượng và chức năng cơ bản của triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề bài 3 : Triết học Mác – Lênin là gì? Nêu đối tượng và chức năng cơ bản
của Triết học Mác -Lênin.
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Đồng Thị Tuyền
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Lớp học phần Triết học Mác - Lê-nin_1_2(15.1FS).4_LT

HÀ NỘI, THÁNG 9/11/2021

h


h


I. MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về nguồn gốc hình thành triết học và triết học Mác Lênin
1.1. Nguồn gốc của triết học:
Triết học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về thế giới của con người.
Triết học chỉ xuất hiện khi những kho tàng tri thức của lồi người đã hình thành
được một vốn hiểu biết nhất định. Trên cơ sở đó, những tri thức riêng lẻ về thế
giới phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm,
phạm trù, quan điểm, quy luật, học thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế
giới.
Triết học chỉ ra đời khi xã hội lồi người đã đạt đến một trình độ tương đối
cao của sản xuất ra hội, phân công lao động xã hội hình thành, có của cải dư
thừa, tư hữu hóa về tư liệu sản xuất, sự phân hóa giai cấp lao động, nhà nước ra


đời. Tầng lớp trí thức xuất hiện, có điều kiện và nhu cầu và nghiên cứu, có năng
lực hệ thống hóa các quan niệm, quan điểm hình thành học thuyết, lý luận.
Những người xuất sắc trong tầng lớp này được xã hội công nhận là các nhà
thông thái, các triết gia. ( Hình ảnh minh họa những nhà triết gia nổi tiếng lúc
bấy giờ )
1.2. Nguồn gốc hình thành của triết học Mác – Lênin
Sự xuất hiện của triết học Mác là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư
tưởng triết học và khoa học nhân loại, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện
kinh tế - xã hội, mà thực tiễn là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản và là kết quả của sự thống nhất những điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Trong hoàn cảnh chủ nghĩa tư bản chuyến biến thành chủ nghĩa đế quốc, giai
cấp tư sản bộc lộ rõ tính chất phản động của mình khi điên cuồng sử dụng bạo
lực trên tất cả đời sống xã hội; trung tâm của cách mạng thế giới dần chuyển
sang nước Nga, sự phát triển của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở những
nước thuộc địa; sự tấn công của những người theo chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa đế quốc lên học thuyết Mác… đã đòi hỏi cần thiết phải nghiên cứu để bảo

h


vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. V.I.Lênin
trở thành người kế tục trung thành và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại
mới. Và nhờ những đóng góp to lớn của Người, triết học Mác-Lênin ra đời như
một tên gọi chung cho cả hai giai đoạn.
2. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản
thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học Mác - Lenin là
triết học duy vật biện chứng triệt để, là một trong những thành tựu vĩ đại nhất
của tư tưởng triết học nhân loại và đang là hình thức phát triển cao nhất của các

hình thức triết học trong lịch sử. Hiểu được điều đó, nhóm chúng em nghiên cứu
về định nghĩa, đối tượng và các chức năng của triết học Mác – Lênin từ đó có cái
nhìn tổng quát và hiểu sâu hơn về triết học Mác-Lênin và vận dụng vào việc học
tập, nghiên cứu, làm việc sau này
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp logic, phân tích, đối
chiếu.

II. NỘI DUNG
1. Triết học Mác – Lênin là gì?
Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự
nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến
bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ
thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới
xã hội đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự

h


nhiên, xã hội và tư duy; đem lại cho con người thế giới quan và phương pháp
luận đúng đắn, khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Khi nghiên cứu, C.Mác và P.Ăngghen không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật
của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và
duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc phục những thiếu
sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước phát triển mới bằng cách tiếp thu một cách
có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng
trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là
phép biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó,

đặt nó trên lập trường duy vật. Chính trong q trình cải tạo phép biện chứng
duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái
quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ
19, Mác và Ăngghen đã tạo ra triết học của mình.
Triết học ấy sau này đã được Lênin phát triển thêm phù hợp với yêu cầu xã
hội và trở thành Triết học Mác – Lênin. Triết học Mác - Lenin là triết học duy vật
biện chứng triệt để, là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng triết
học nhân loại và đang là hình thức phát triển cao nhất của các hình thức triết học
trong lịch sử. Triết học Mác – Lê nin là học thuyết về sự phát triển của thế giới
và vẫn đang được phát triển, hoàn thiện và bổ sung giữa dòng chảy văn minh
nhân loại.

2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Theo quan điểm mácxít, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết
về những quan điểm chung nhất về tồn tại và nhận thức, cũng như thái độ của
con người đối với thế giới, Triết học phát triển đến một trình độ cao thì nó là
khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thuật ngữ “triết học” ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khi ấy triết học
đang trong sự hợp nhất với toàn thể tri thức của con người về thế giới khách
quan và về bản thân con người. Quá trình phát triển của sản xuất vật chất, đời

h


sống tinh thần xã hội, sự tích lũy hệ thống tri thức khoa học đã làm cho các khoa
học tách khỏi triết học và khi đó triết học trở thành tri thức lý luận độc lập.

Đối tượng của triết học là một vấn đề vẫn đang tranh luận trong lịch sử triết
học từ trước đến nay. Thời cổ đại, do khoa học chưa phát triển, nhà triết học
chính là nhà khoa học, nhà bách khoa, thông thái trên các lĩnh vực, triết học bao

hàm toàn bộ tri thức khoa học của nhân loại. Do vậy, triết học là khoa học của
mọi khoa học. Mặc dù các học thuyết triết học đều có các khách thể nghiên cứu
riêng, nhưng thực chất đối tượng của triết học chưa phân biệt được với đối tượng
của khoa học cụ thể. Thời trung cổ, ở châu Âu tôn giáo ngự trị, thế giới quan duy
tâm tôn giáo thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội, kìm hãm sự phát triển
của các khoa học. Triết học phát triển trong môi trường hết sức chật hẹp, trở
thành bộ phận của thần học, thành “nô bộc” của thần học, có nhiệm vụ giải thích
kinh thánh. Thế kỷ XV – XVI, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, đã tạo ra
thời kỳ Phục hưng văn hóa, trong đó có triết học, triết học dần dần tách khỏi các
khoa học cụ thể và phát triển thành các bộ mơn riêng biệt, đó là bản thể luận,
nhận thức luận, logic học, triết học lịch sử, mỹ học, đạo đức học, tâm lý học…
Thế kỷ XVII – XVIII và đầu thế kỷ XIX, là thời kỳ cả triết học duy vật và triết
học duy tâm đều phát triển mạnh. Triết học duy vật đã phát triển nhanh chóng
trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và đạt tới những thành tựu
mới trong triết học tự nhiên, triết học xã hội và đỉnh cao là triết học nhân bản của
Phoiơbắc nửa đầu thế kỷ XIX. Tư duy triết học cũng được phát triển trong các
học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc
của triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các khoa học cụ thể đã từng bước làm mất đi vai trò của triết
học là “khoa học của các khoa học” mà triết học Hêghen là hệ thống triết học
cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem triết học của ông là một hệ thống
phổ biến của sự nhận thức, trong đó các ngành khoa học riêng biệt chỉ là những
mắt khâu phụ thuộc vào triết học. Hoàn cảnh kinh tế – xã hội và sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của một hệ
thống triết học hoàn toàn mới – triết học Mác – Lênin – đỉnh cao của tư duy triết
học nhân loại, một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị và triệt để, vũ khí tư tưởng

h



sắc bén của giai câp vô sản. Đoạn tuyệt triệt để với tham vọng trở thành ‘’khoa
học của mọi khoa học”, triết học Mác – Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của
mình là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật
biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.

Đối tượng của triết học Mác – Lênin và đối tượng của các khoa học cụ thể là
thống nhất nhưng không đồng nhất, chúng khác nhau nhưng lại quan hệ mật thiết
với nhau, sở dĩ như vậy là vì, những quy luật chung nhất mà triết học Mác –
Lênin nghiên cứu và những quy luật đặc thù của mỗi khoa học cụ thể không loại
trừ nhau, mà trái lại, liên quan chặt chẽ, tác động đồng thời trong từng hiện
tượng, từng quá trình cụ thể của thế giới vật chất. Những quy luật chung nhất
luôn được biểu hiện thông qua các quy luật đặc thù, hay nói cách khác, những
quy luật đặc thù là biểu hiện của các quy luật chung nhất trong một lĩnh vực cụ
thể của thế giới

3. Chức năng cơ bản của Triết học Mác – Lênin
Cũng như mọi khoa học triết học có thể cùng một lúc có thể thực hiện nhiều
chức năng khác nhau. Đó là các chức năng thế giới quan và phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng phê phán… Tuy nhiên, chức năng
thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết
học nói chung, đặc biệt là triết học Mác – Lênin nói riêng.

3.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con
người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học
Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan
cộng sản.
* Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:


h


- Nó có vai trị đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng
đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức
bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống.
- Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hình thành quan điểm khoa
học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả
cách thức hoạt động của mình.
- Nâng cao vai trị tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn
chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế
giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng
đồng xã hội nhất định.
- Nó là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo,
phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện
chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến
bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách
mạng, phản khoa học.

3.2. Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là
lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
* Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp chung của toàn bộ nhận
thức khoa học trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.

- Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa
học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.

h


Tuy nhiên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn khơng được xem
thường hoặc tuyệt đối hố phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương
pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu
chủ động, sáng tạo trong công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hố vai trị của
phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất
bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được
những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.

IV. KẾT LUẬN

Tóm lại, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, bản thân cần phải học tập
nghiên cứu nghiêm túc, có hệ thống, tìm hiểu đúng đắn, nắm vững những nội
dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.Vì vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta phải nâng cao
tư tưởng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích
một cách đúng đắn đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần
dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những
đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng chủ nghĩa xã hội thích
hợp với tình hình của đất nước.

V. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


h


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Triết học, 3 quyển, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Triết học (Dùng trong đào tạo
Thạc sỹ, Tiến sỹ các ngành KHXH và NV không chuyên ngành Triết học) NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
4. Phạm Văn Đức (2019), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia Sự thật

VI. DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
Nội dung
việc
Nội Dung

công

Họ Và Tên

Mã Sinh Viên

Nguyễn Thị Thùy Ngân

21010950

Nguyễn Thị Nga
Lê Thị Phương Nga

Nguyễn Đức Ngân
Đỗ Thị Nguyễn

Word

Đào Thị Ngân
Đỗ Hồng Minh

PowerPoint

Phạm Quỳnh Nga
Nguyễn Thị Ngà

Thuyết Trình

Phạm Quang Minh

h

Điểm


h



×