Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật bản trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.43 KB, 194 trang )

TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU NHẬT BẢN
TS. VŨ VĂN HÀ (Chủ biên)
ĐIỀU CHỈNH
CƠ CẤU KINH TẾ NHẬT BẢN
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
Hà Nội - 2003
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I ......................................................................................................................... 7
ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU NGÀNH .................................................................................... 7
I. CƠ CẤU NGÀNH VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH CƠ
CẤU NGÀNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY ...................................................................... 7
1. Cơ cấu ngành và các giai đoạn điều chỉnh cơ cấu từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai đến nay ...................................................................................................................... 7
2. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế từ đầu thập niên
90 đến nay ..................................................................................................................... 14
II. NHỮNG THAY ĐỔI CHỦ YẾU VỀ CƠ CẤU NGÀNH XÉT TRÊN PHƯƠNG
DIỆN VĨ MÔ .................................................................................................................... 24
1. Sự thay đổi về tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế .................................... 25
2. Sự thay đổi về cơ cấu giá trị sản lượng của các ngành ....................................... 30
3. Sự thay đổi về cơ cấu lao động của các ngành .................................................... 35
III. NHỮNG THAY ĐỔI CƠ CẤU TRONG NỘI BỘ MỘT SỐ NGÀNH KINH TẾ
CỤ THỂ ............................................................................................................................ 41
1. Sự ra đời và phát triển của các ngành kinh doanh mới ....................................... 41
2. Điều chỉnh quy mô và nâng cao hiệu quả của các ngành hiện có ....................... 56
CHƯƠNG 2 ...................................................................................................................... 69
ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ VÙNG ..................................................................... 69
I. NHỮNG YẾU TỐ CHỦ YẾU THÚC ĐẨY SỰ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ
VÙNG ............................................................................................................................... 69


1. Toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển vùng ........................................................ 69
2. Những hạn chế trong cơ cấu vùng lãnh thổ của Nhật Bản .................................. 71
3. Sự chuyển biến trong nhận thức về tạo lập cuộc sống hài hoà gắn với thiên nhiên
....................................................................................................................................... 74
4. Sự giảm sút dân số và xã hội người cao tuổi ....................................................... 75
II. SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VÙNG ................................................ 76
1. Các giai đoạn của sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế vùng ......................................... 76
2. Sự biến động và đặc trưng chủ yếu của cơ cấu kinh tế các vùng riêng biệt. ...... 81
3. Những đặc trưng chung của sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ của Nhật
Bản. ............................................................................................................................... 98
CHƯƠNG 3 .................................................................................................................... 109
TƯ NHÂN HÓA KHU VỰC KINH TẾ CÔNG CỘNG VÀ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU
KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN ................................................................................. 109
I. KHU VỰC KINH TẾ CÔNG CỘNG ....................................................................... 109
1. Quan niệm về khu vực kinh tế công cộng ......................................................... 112
2. Bối cảnh của quá trình tư nhân hoá ................................................................... 113
2
3. Mục đích của tư nhân hoá .................................................................................. 114
4. Quá trình tư nhân hoá ......................................................................................... 115
II. KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN ............................................................................ 121
1. Nguyên nhân của cải cách và điều chỉnh cơ cấu của các công ty tư nhân ................ 122
2. Các giai đoạn và hình thức ................................................................................. 125
3. Cải cách trong quản lý ........................................................................................ 130
4. Cải cách về tuyển dụng, thuê mướn ................................................................... 132
5. Di chuyển vốn .................................................................................................... 139
6. Công ty xuyên quốc gia ...................................................................................... 142
CHƯƠNG 4 .................................................................................................................... 145
DỰ BÁO ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ .............................................................. 145
NHẬT BẢN THỜI GIAN TỚI ...................................................................................... 145
I. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG

NHỮNG NĂM TỚI ....................................................................................................... 145
1. Nhân tố bên ngoài .............................................................................................. 145
2. Nhân tố bên trong ............................................................................................... 152
3. Điều chỉnh cơ cấu là nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh lớn hơn của nền kinh tế
..................................................................................................................................... 155
II. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI .... 156
1. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành ........................................................................ 157
2. Xu hướng điều chỉnh cơ cấu vùng ..................................................................... 163
3. Điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp ........................................................................ 174
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 183
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 190
3
LỜI NÓI ĐẦU
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin, từ cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, quá trình toàn
cầu hoá kinh tế gia tăng mạnh mẽ đã ảnh hưởng đến chiều hướng phát
triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong bối cảnh này các quốc gia đều có sự
điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm tranh thủ cơ hội đồng thời cố gắng vượt
qua những thách thức do toàn cầu hoá đặt ra. Trong suốt hơn một thập kỷ
vừa qua, nền kinh tế Nhật Bản cũng đã có những điều chỉnh cơ cấu theo
hướng tự do hoá, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Có thể thấy từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai tới nay, nền kinh
tế Nhật Bản trải qua không dưới bốn lần điều chỉnh cơ cấu, lần đầu là thời
kỳ ngay sau chiến tranh, thực hiện điều chỉnh cơ cấu từ thời chiến sang
thời bình với việc thúc đẩy mạnh tiến trình khôi phục các ngành công
nghiệp bị sa sút trong chiến tranh. Lần thứ hai là thời kỳ tăng trường cao,
tập trung phát triển công nghiệp nặng và hoá chất ở một số vùng kinh tế
trọng điểm. Tiếp đó là thời kỳ sau các cuộc khủng hoảng dầu mỏ, chú
trọng phát triển những ngành ít tiêu hao nguyên, nhiên liệu theo hướng
tạo ra các sản phẩm nhỏ và nhẹ. Và hiện nay đang trong quá trình điều

chỉnh nhằm xây dựng nền kinh tế phát triển hài hoà giữa các vùng dựa
trên công nghệ thông tin và sinh học. Các cơ sở sản xuất, chế biến hiện
đại trước đây chủ yếu tập trung ở khu vực ven Thái Bình Dương, trong
những năm 90 tại đây đã có sự phân bố lan rộng ra các vùng khác, hình
thành các trục phát triển trên cơ sở liên kết 10 vùng kinh tế trên cả nước.
Nhằm tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu, Nhật Bản đã thúc
đẩy các giải pháp xoá bỏ quy chế và thực hiện tư nhân hoá. Trong những
năm qua quá trình xoá bỏ quy chế nhằm mở rộng hơn thị trường nội địa
được gia tăng đã góp phần thu hút nguồn vốn nước ngoài đổ vào thị
4
trường Nhật Bản. Các công ty nước ngoài kinh doanh trên thị trường
Nhật Bản ngày một gia tăng đã thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu các công ty
Nhật Bản nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Trong quá trình cạnh
tranh, các công ty Nhật Bản một mặt đẩy mạnh áp dụng công nghệ mới,
thay đổi cơ chế quản lý... Mặt khác đẩy mạnh việc di chuyển năng lực
kinh doanh sang các quốc gia trong vùng nhằm tận dụng lợi thế công
nghệ của mình và sử dụng sức lao động cùng nguồn tài nguyên của các
nước bản địa, qua đó lại tránh được các xung đột thương mại.
Việt Nam, cũng đang trong quá trình thực hiện sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình này hiện
đang đặt ra không ít vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải quyết như việc lựa
chọn những ngành ưu tiên, vấn đề phát triển vùng và nhất là vấn để xây
dựng có hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước,v.v... Để giải quyết những
vấn đề này đương nhiên phải dựa trên cơ sở thực tiễn Việt Nam và cần
tranh thủ tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài. Hơn nữa, Nhật Bản là một
cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới lại cùng nằm trong khu vực Đông
Á và là đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, cho nên những chuyển
đổi của Nhật Bản tất yếu có tác động lớn đến kinh tế Việt Nam. Do vậy,
việc tiến hành nghiên cứu tiến trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế của Nhật
Bản trong những năm qua, đặc biệt giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.

Với lý do đó, nhóm cán bộ của Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản đã
tiến hành nghiên cứu vấn đề “Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật bản trong
bối cảnh toàn cầu hóa”, nhằm làm rõ xu hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Nhật Bản hiện nay cùng những yếu tố chi phối quá trình này, từ đó đưa ra
những dự báo và đánh giá tác động của chính sự điều chỉnh kinh tế Nhật
tới Việt Nam.
Việc tiếp cận phân tích cơ cấu kinh tế của một quốc gia có nhiều
cách khác nhau, có thể nhìn dưới góc độ cung - cầu, có thể xem xét trong
5
quan hệ nhà nước - thị trường, v.v… Ở đây các tác giả nhìn dưới góc độ
ngành và khu vực, một nền kinh tế bao gồm những phân ngành và khu
vực, với tỷ lệ ra sao, động hướng của chúng thế nào v.v...
Kết cấu cuốn sách gồm 4 chương. Chương 1 đề cập đến điều chỉnh
cơ cấu ngành; chương 2 - điều chỉnh cơ cấu vùng; chương 3 - điều chỉnh
cơ cấu công ty ở cả khu vực công và tư; và cuối cùng là chương 4 - dự
báo xu hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong thời gian tới. Nội dung các
vấn đề được đề cập chủ yếu từ đầu những năm 90 lại đây, tuy nhiên khi
phân tích, đánh giá chúng tôi có đề cập ở mức độ nhất định đến các giai
đoạn trước. Trong khi trình bày chúng tôi không tách một chương riêng
về các yếu tố quy định sự điều chỉnh cơ cấu, mà trình bày gắn với từng
chương, như vậy cho phép làm rõ hơn sự tác động của các yếu tố đến
từng khu vực cụ thể.
Có thể nói đây là vấn đề rộng lớn, bao quát thời gian khá dài, do
vậy trong khi phân tích sẽ khó tránh khỏi những hạn chế nhất định, chúng
tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng.
Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2002
Tập thể tác giả
6
CHƯƠNG I
ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU NGÀNH

I. CƠ CẤU NGÀNH VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
SỰ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU NGÀNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY
1. Cơ cấu ngành và các giai đoạn điều chỉnh cơ cấu từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay
Khi xem xét cơ cấu ngành của một nền kinh tế, người ta có thể chia
nền kinh tế thành 3 khu vực lớn là: Khu vực I bao gồm các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp và khai khoáng; Khu vực II bao gồm toàn bộ các ngành
công nghiệp chế tạo; và Khu vực III bao gồm các ngành dịch vụ, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm... Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng với sự ra
đời và phát triển của “kinh tế tri thức”, một khu vực lớn mới của nền kinh
tế đã được hình thành và người ta gọi đó là Khu vực IV bao gồm các
ngành thông tin, ngành sản xuất tri thức và ngành sản xuất lý luận... Tuy
nhiên, cách chia này vẫn chưa được áp dụng một cách phổ biến. Để cụ
thể hoá hơn nữa, tuỳ theo mức độ và phạm vi nghiên cứu, người ta còn
chia nền kinh tế thành các khu vực nhỏ hơn có thể chi tiết tới từng nhánh
nhỏ của các ngành kinh tế. Ví dụ, ngành công nghiệp chế tạo có thể được
chia thành các phân ngành như: cơ khí, chế tạo máy, hoá chất, thiết bị vận
tải...; Hay chỉ riêng trong ngành chế tạo máy, cũng có thể chia thành các
ngành như máy phát lực, máy quyền lực, máy công tác... Vì thế, để
nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế Nhật Bản, trước
hết chúng ta hãy xem nền kinh tế này bao gồm những ngành gì và chúng
được phân nhóm như thế nào.
Theo thống kê kinh tế của Nhật Bản, các ngành của nền kinh tế
Nhật Bản có thể được chia thành 3, 13, 32, thậm chí 98 hoặc nhiều hơn
nữa các khu vực hoặc ngành sản xuất cụ thể. Tuy nhiên, trong công trình
7
này chúng tôi sẽ chỉ tập trung nghiên cứu sự chuyển dịch của cơ cấu
ngành của nền kinh tế Nhật Bản ở cấp vĩ mô dựa trên cơ sở các số liệu
thống kê về các khu vực lớn của nền kinh tế. Bảng 1 phác họa một bức
tranh tổng thể về cơ cấu các ngành của nền kinh tế Nhật Bản được phân

nhóm theo 3 khu vực, 13 khu vực, và 32 khu vực theo thống kê chính
thức của Nhật Bản.
Bảng 1: Cơ cấu ngành của nền kinh tế phân nhóm theo khu vực
1
PHÂN LOẠI THEO 3
KHU VỰC
PHÂN LOẠI THEO 13 KHU VỰC PHÂN LOẠI THEO 32 KHU VỰC
1. Khu vực I
1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp
2. Khai khoáng
1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp
2. Khai khoáng
2. Khu vực II
3. Công nghiệp chế tạo
3. Chế biến lương thực
4. Các ngành dệt
5. Các ngành sản xuất bột giấy, giấy, và gỗ
6. Các ngành hóa chất
7. Các ngành sản xuất dầu mỏ và than
8. Các ngành sản xuất gốm, đá và đất sét
9. Các ngành sản xuất sắt và thép
10. Các ngành sản xuất kim loại màu
11. Các ngành chế tạo sản phẩm kim loại
12. Các ngành chế tạo máy móc chung
13. Các ngành chế tạo điện máy
14. Các ngành sản xuất thiết bị vận tải
15. Các ngành sản xuất công cụ chính xác
16. Các ngành sản xuất sản phẩm khác
4. Xây dựng 17. Xây dựng
8

Khu vực III
5. Cung cấp điện, khí đốt và nước
18. Cung cấp điện, khí đốt và sưởi ấm
19. Cung cấp nước và xử lý nước thải
6. Thương mại 20. Thương mại
7. Tài chính và bảo hiểm 21. Tài chính và bảo hiểm
8. Bất động sản 22. Bất động sản
9. Vận tải 23. Vận tải
10. Các phương tiện thông tin đại chúng 24. Các phương tiện thông tin đại chúng
11. Quản lý công cộng 25. Quản lý công cộng
12. Dịch vụ
26. Giáo dục và nghiên cứu
27. Y tế, sức khỏe và an toàn xã hội
28. Các dịch vụ công cộng khác
29. Dịch vụ kinh doanh
30. Dịch vụ cá nhân
31. Cung cấp văn phòng
13. Các hoạt động khác 32. Các hoạt động khác
1
1995 Input - Output Tables for Japan, Management and Coordination
Agency, 3/2000, tr. 10.
Qua bảng 1 chúng ta có thể thấy cơ cấu các ngành của nền kinh tế
Nhật Bản hiện nay đã được phát triển rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh
các ngành công nghiệp hiện đại, trong đó có những ngành mới được xây
dựng và phát triển trong những năm gần đây, còn có các ngành nghề
truyền thống vốn đã từng tồn tại từ rất lâu đời như nông nghiệp, khai
khoáng, dệt,.v.v…
Trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ kể từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay, nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều lần điều
chỉnh cơ cấu. Những mốc quan trọng nhất đánh dấu các giai đoạn chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành của Nhật Bản có thể kể đến là: Sự phục hồi
kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1955); Việc hoàn thành kế hoạch
10 năm tăng gấp đôi thu nhập quốc dân (1960 - 1970); Các cuộc khủng
hoảng tiền tệ thế giới (1971), khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất (1973 -
9
1975) và thứ hai (1979 - 1980); Sự lên giá mạnh của đồng Yên sau Hiệp
ước Plaza (1985) và đặc biệt là trong những năm 1990 với sự sụp đổ của
nền kinh tế bong bóng đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình
trạng suy thoái nghiêm trọng và kéo dài. Sau đây, chúng tôi xin điểm lại
một số nội dung chủ yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của
Nhật Bản.
Thứ nhất, ở giai đoạn phục hồi kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ
hai (1945 - 1955), nhiệm vụ hàng đầu của chính phủ Nhật Bản lúc đó là
phải khôi phục lại nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm đầu sau chiến
tranh, mọi hoạt động của Chính phủ Nhật Bản đều bị đặt dưới sự kiểm
soát của quân Đồng minh, mà chủ yếu là của Mỹ. Chỉ đến khi cuộc chiến
tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô diễn ra ngày càng gay gắt, và tiếp sau đó
là sự bùng nổ của cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), các chính
sách của Mỹ đối với Nhật Bản mới thực sự thay đổi. Từ chỗ kiềm chế
Nhật Bản, Mỹ đã ngày càng nỗ lực trong việc giúp đỡ Nhật Bản khôi
phục kinh tế (kể cả việc gánh vác mọi chi phí quân sự cho Nhật Bản) với
mong muốn biến Nhật Bản trở thành một đồng minh của Mỹ, một đầu
cầu chiến lược quan trọng của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong điều kiện vô cùng thuận lợi đó, Chính phủ Nhật Bản đã tích cực
đẩy mạnh công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Chính sách thay thế
nhập khẩu là một trong những chính sách chủ yếu đã được thực hiện ở
Nhật Bản trong giai đoạn này.
Chính sách thay thế nhập khẩu trước hết được bắt đầu bằng việc
lựa chọn các ngành có khả năng tạo ra lợi thế so sánh mới để khuyến
khích phát triển ở trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu. Chính phủ

Nhật Bản trong những năm ngay sau chiến tranh đã thực hiện chính sách
sản xuất ưu tiên (1947 - 1950) nhằm khôi phục lại các ngành công nghiệp
than, sắt và thép, và công nghiệp điện. Chính phủ đã nắm quyền kiểm
10
soát một cách trực tiếp để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công
nghiệp này. Những phác thảo của chiến lược phát triển sau chiến tranh
của Nhật Bản với việc chuyển trọng tâm của nền kinh tế từ công nghiệp
nhẹ sang các ngành công nghiệp nặng và hoá chất có thể nhận thấy rõ
trong giai đoạn phục hồi kinh tế sau chiến tranh. Đến năm 1955, quy mô
sản xuất của nền kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi, tốc độ tăng GDP đã
đạt được mức cao nhất của giai đoạn trước chiến tranh (1935 - 1936).
Thứ hai, sau khi nền kinh tế được phục hồi, Chính phủ Nhật Bản đã
ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
khuyến khích các phát minh sáng chế. Nói một cách vắn tắt, các chính
sách chuyển đổi cơ cấu này bao gồm việc phân bố lại lực lượng lao động
để đạt được năng suất cao hơn, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu
bằng cách phát triển các thị trường nước ngoài, thực thi các chiến lược để
đối phó với tình trạng thiếu tài nguyên thiên nhiên,.v.v... Và điều quan
trọng hơn cả là tập trung vào việc đạt được hiệu quả của các ngành công
nghiệp và tăng cường sức cạnh tranh quốc tế. Chính phủ đã thực hiện
chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp có khả năng xuất khẩu
mạnh và tạo ra sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế như sắt thép, chế tạo
máy (bao gồm máy móc công cụ và các loại máy móc khác) và hóa chất.
Chính sách phát triển các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu, còn
được gọi là chính sách “chọn ra những người chiến thắng” (Picking - the
- winers), đã được thực hiện rất thành công ở Nhật Bản. Và chính các
ngành công nghiệp này đã dẫn dắt nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn
tăng trưởng cao (1955 - 1973).
Thứ ba, trong những năm 1970 các chính sách công nghiệp và
thương mại của Nhật Bản được tập trung trước hết vào việc khắc phục

những hậu quả do các cuộc khủng hoảng tiền tệ và năng lượng thế giới
gây ra nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự thua thiệt của các ngành công
11
nghiệp suy thoái đã bị mất lợi thế cạnh tranh do giá cả của đầu vào gia
tăng đồng thời hướng, nền kinh tế đi vào khai thác những lĩnh vực có khả
năng tạo ra lợi thế so sánh mới.
Sau cú sốc Nixon và những cú sốc dầu mỏ, các ngành công nghiệp
xuất khẩu hàng đầu của Nhật Bản trong những năm 60 đã mất lợi thế do
giá thành sản xuất tăng và lâm vào tình trạng suy thoái. Để thúc đẩy việc
cải tổ cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực và tạo điều kiện cho các
công ty tư nhân có thể tiếp tục phát huy được các khả năng của chúng,
Chính phủ Nhật Bản đã ban hành hàng loạt các điều luật và chính sách để
chỉ đạo và khuyến khích chúng giảm công suất sản xuất và chuyển sang
những hoạt động kinh doanh khác. Sự chỉ đạo chuyển hướng cơ cấu công
nghiệp của Nhật Bản trong thời kỳ này về cơ bản là chuyển dịch từ các
ngành đã mất lợi thế so sánh (có đặc trưng là nặng và lớn (Heavy & Big -
H&B) như sắt thép, đóng tàu, v.v.) sang các ngành có thể tạo ra những lợi
thế so sánh mới (có đặc trưng là nhẹ và nhỏ (Light & Small - L&S) như
chế tạo máy, ô tô, điện tử, v.v.).
Các chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở trên đã có tác động
quan trọng đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế của Nhật Bản, đặc biệt là những
thay đổi diễn ra trong nội bộ các ngành công nghiệp và các công ty. Sự
thay đổi cơ cấu này thường được miêu tả như những thay đổi từ “nặng,
dầy, dài, và to” sang “nhẹ, mỏng, ngắn và nhỏ”. Điều này cho thấy sự
chuyển dịch mạnh mẽ trong sản xuất từ các ngành H&B như kim loại cơ
bản sang các ngành L&S như các thiết bị văn phòng, đồ dùng gia đình và
dịch vụ.
Việc chuyển dịch theo hướng L&S thể hiện rõ ràng nhất trong sự
mở rộng của các ngành công nghiệp chế tạo máy và các ngành dịch vụ.
Do không phải chịu những ảnh hưởng bất lợi khi giá năng lượng tăng như

trong các ngành H&B, các ngành L&S có khả năng kỹ thuật to lớn trong
12
việc đáp ứng các loại nhu cầu đa dạng và trong sự thay đổi thị hiếu của
người tiêu dùng đối với các thiết bị tinh vi hơn. Thay vào việc sản xuất
quy mô lớn một số ít các mặt hàng, các ngành L&S lại sản xuất quy mô
nhỏ nhưng với một số lượng lớn các mặt hàng. Quy định sản xuất được
thực hiện với giá thành sản phẩm thấp và tiêu tốn ít thời gian hơn. Có thể
nói rằng sợ điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này là rất thành
công.
Vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980, với sự thành công
trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở trên, tác động của cuộc khủng hoảng
dầu mỏ lần thứ hai đến nền kinh tế Nhật Bản chỉ ở mức độ nhỏ, và nền
kinh tế đã nhanh chóng đi vào quỹ đạo phát triển ổn định trên một mức
độ nào đó. Cùng với tác động của hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt và sự
tự do hoá của thị trường vốn (1980), quan hệ giữa nền kinh tế Nhật Bản
và nền kinh tế thế giới đã trở nên chặt chẽ hơn trước. Mâu thuẫn thương
mại giữa Nhật Bản với các nước bạn hàng chủ yếu, đặc biệt là với Mỹ,
nổi lên; Tokyo trở thành trung tâm tài chính của thế giới, và các thị
trường tài chính trong nước cũng được phát triển.
Sự tiếp tục của cán cân mậu dịch thặng dư và đồng Yên yếu so với
đồng đôla là đặc trưng của nền kinh tế Nhật Bản trong những năm đầu
thập kỷ 1980. Tuy nhiên, Hiệp ước Plaza với việc định giá lại đồng Yên
vào tháng 9 - 1985 đã làm thay đổi hẳn tình hình này. Sự lên giá mạnh
của đồng Yên sau năm 1985 đã tác động mạnh tới nền kinh tế Nhật Bản.
Hiệp ước Plaza có thể được coi là một ranh giới kinh tế phân chia một
cách rạch ròi các hoạt động kinh tế trước và sau năm 1985. Đồng Yên đã
lên giá rất nhanh trong thời kỳ giữa mùa Thu năm 1985 và mùa Hè năm
1986. Mối hoài nghi về triển vọng của nền kinh tế Nhật - tương tự như
bầu không khí sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất - đã mở đường
cho những tín hiệu của một cuộc suy thoái. Tuy nhiên, từ quý IV - 1986

13
đến quý I - 1991, sự thịnh vượng kinh tế lại tiếp tục, đánh dấu một giai
đoạn tăng trưởng dài nhất và cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần
thứ nhất. Cùng với điều này đã xuất hiện cái gọi là nền kinh tế “bong
bóng” mà đặc trưng cơ bản là sự tăng giá đất đai và bất động sản.
Sau sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng vào đầu những năm 1990,
Nhật Bản đã trải qua một thời kỳ suy thoái dài nhất và nghiêm trọng nhất
kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự trì trệ đáng lo ngại của nền kinh
tế trong thời kỳ này đã buộc chính phủ cũng như các công ty Nhật Bản
phải tiến hành điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh tế.
2. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự điều chỉnh cơ cấu
kinh tế từ đầu thập niên 90 đến nay
a. Bối cảnh quốc tế và khu vực:
Bước vào thập niên 90, sau khi Liên Xô bị tan rã, xu thế hoà bình
và phát triển đã trở thành chủ đề chính của thời đại. Hình thức chủ yếu
của cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ chạy đua vũ trang thời kỳ chiến tranh
lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói rằng dưới tác động của toàn cầu
hoá kinh tế và cách mạng khoa học công nghệ không ngừng phát triển,
tính dựa dẫm vào nhau, bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nước vốn
đã khá phát hiện lại càng gia tăng mạnh mẽ. Và chính quá trình toàn cầu
hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ đã
làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như
giữa các công ty trên thế giới ngày càng phức tạp và đa dạng. Đặc biệt là
xu hướng tự do hoá về thương mại và đầu tư đã trở thành đặc trưng của
sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, làm cho
các hoạt động thương mại và đầu tư của các quốc gia và các công ty trong
khu vực cũng ngày càng mang tính quy định, bổ sung cho nhau như một
chỉnh thể thống nhất. Quá trình này đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến sự phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia, trong đó có Nhật Bản.
14

Thứ nhất; có thể nói xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế
là nhân tố đầu tiên tác động đến việc thiết lập chiến lược phát triển kinh tế
của các nước. Dù biện minh dưới hình thức nào và thay đổi hoạt động
theo cách thức gì thì mục tiêu cuối cùng của các hoạt động kinh tế cũng là
lợi nhuận, thị phần, và gia tăng ảnh hưởng quốc tế. Và để đạt được những
mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng, và thậm chí phải đón
đầu được với những triển vọng phát triển mới của nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung,
đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tin học trong những năm gần
đây đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi
bật giúp cho việc điều hành một cách dễ dàng các hoạt động kinh tế phân
tán ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới bằng cách sử dụng rộng rãi các
thiết bị tin học. Nhờ đó, các quốc gia phát triển và các nhà kinh doanh
không những có thể mở rộng các hoạt động kinh tế về quy mô ra nước
ngoài, mà còn có thể tăng cường các hoạt động về chiều sâu, đổi mới về
phương thức tổ chức và quản lý... Theo sự phát triển của mạng lưới thông
tin hiện đại, sự trao đổi và thông tin lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng
trở nên dễ dàng và thuận tiện. Chính vì thế, hoạt động thương mại và đầu
tư không những đã có thể phát triển rộng khắp đến những khu vực và các
nền kinh tế trên khắp thế giới mà còn có thể tiến sâu hơn vào những vùng
sâu, vùng xa và những nơi héo lánh mà trước đây không thể có điều kiện
vươn tới được.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, các
quá trình liên kết khu vực và toàn cầu cũng đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi
các quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả
vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ
làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại
15
với đầu tư và viện trợ, đẩy mạnh tự do hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ

các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các quốc gia... Các nước
phát triển có điều kiện thực hiện các chiến lược đầu tư và thương mại mà
trước kia luôn bị các hàng rào bảo hộ phong toả thông qua việc đặt các
chi nhánh ở nước ngoài và cho phép các chi nhánh đó thực hiện đầu tư
trực tiếp và mở rộng buôn bán sang các nước thứ ba.
Ngoài những tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế như đã đề
cập đến ở trên, có thể kể ra một số biến động khác đáng chú ý đã và đang
có tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi nước, trong đó có Nhật Bản.
như:
(1) Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997 - 1998) đã
đẩy nhiều nước trong khu vực lâm vào tình trạng khó khăn hơn bao giờ
hết. Hầu hết các quốc gia trong khu vực này, kể cả Nhật Bản, đã phải đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ ngăn chặn suy thoái kinh tế, và nhiều nước đã phải
thực hiện các giải pháp tình thế hoặc thay đổi các kế hoạch ngắn hạn và
dài hạn. Chính vì thế mà quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu và khu
vực đã gặp không ít trở ngại do mỗi quốc gia phải lui vào thế thủ, thị
trường thế giới trở nên khó dự đoán và độ nhạy cảm cao hơn. Hơn nữa,
cuộc khủng hoảng này không phải là một cuộc khủng hoảng đơn thuần
hay có tính chu kỳ, mà nó chính là sự bộc lộ cụ thể của những hạn chế và
bất cập của mô hình kinh tế Đông Á vốn đem lại thành công cho các quốc
gia trong khu vực này trong nhiều thập kỷ vừa qua. Theo các nhà phân
tích kinh tế, một mặt, đó chính là những yếu kém thực sự, tiềm ẩn trong
mô hình kinh tế vốn có; mặt khác, đó là sự không tương ứng của mô hình
này với hoàn cảnh quốc tế đang thay đổi nhanh chóng. Trong bối cảnh
đó, việc xác định lại mô hình phát triển, hay ít nhất là xem xét lại những
chiến lược phát triển dài hạn đã được vạch ra trước đây là việc làm hết
sức cần thiết cho các nước trong khu vực.
16
(2) Nhờ những cải cách và điều chỉnh mạnh mẽ vào cuối thập kỷ
80, nền kinh tế Mỹ trong thập kỷ 90 đã phát triển khá ngoạn mục tạo ra

một thách thức mới cho các nước lớn, trong đó có Nhật Bản. Với sự
thành công kinh tế này, ở Mỹ đã xuất hiện lý luận về “kinh tế mới” và Mỹ
muốn các nước áp dụng lý luận này. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á, Mỹ đã yêu cầu các nước trong đó có Nhật Bản phải
cải cách mạnh mẽ hơn nữa thể chế kinh tế, đẩy mạnh tự do hoá, giảm sự
can thiệp của chính phủ và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực
tư nhân,.v.v…
b. Những khó khăn kinh tế của Nhật Bản:
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, khi nền kinh tế thế giới bước
vào một thời kỳ mới, thì cũng đồng thời là lúc nền kinh tế Nhật Bản phải
đứng trước một loạt những khó khăn và thách thức mới, đặc biệt là nhiều
lợi thế mà Nhật Bản có được trong thời kỳ tăng trưởng cao đã mất đi.
Sự đổ vỡ của nền kinh tế “bong bóng” vào đầu những năm 1990 đã
đẩy nền kinh tế Nhật Bản vào một thời kỳ có thể nói là hết sức ảm đạm
trong suốt hơn một thập kỷ qua. Những ngành kinh tế bị tác động nghiêm
trọng nhất là ngân hàng, tài chính và bất động sản. Sự yếu kém của các
ngành này đã ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế và gây ra sự trì
trệ của hầu hết các ngành khác. Ở Nhật Bản, bất động sản luôn là tài sản
thế chấp của các công ty lớn nhỏ dùng để vay tiền của các ngân hàng.
Vào cuối nhưng năm 1980, cùng với việc đồng Yên lên giá mạnh sau
Hiệp ước Plaza năm 1985, giá bất động sản ở Nhật Bản cũng tăng vọt.
Việc kinh doanh bất động sản đã trở thành một ngành đem lại những món
lợi lớn một cách nhanh chóng. Chính vì vậy, các công ty đã đổ xô vào
vay vốn để kinh doanh bất động sản, và các ngân hàng cũng sẵn sàng
nhận thế chấp để cho các công ty vay. Việc vay mượn và thế chấp này đã
trở thành một hoạt động kinh tế hết sức sôi nổi ở Nhật Bản vào cuối
17
những năm 1980. Tuy nhiên, khi giá bất động sản giảm đi đột ngột vào
đầu những năm 1990, hàng loạt công ty kinh doanh bất động sản đã bị
phá sản, và do đó không còn khả năng thanh toán các khoản nợ đã vay.

Chẳng hạn, theo thống kê trên sổ sách của Bộ tài chính, vào giữa những
năm 1990, tổng số nợ khó đòi của các ngân hàng Nhật Bản đã lên tới 400
tỷ đôla
1
. Trong khi đó những tài sản mà các công ty này đã thế chấp để
vay vốn ngân hàng cũng ngày càng bị mất giá nghiêm trọng.
Tình trạng nói trên một mặt khiến cho các ngân hàng và công ty tài
chính Nhật Bản hết sức lao đao, hàng loạt tổ chức tín dụng đã bị đổ vỡ.
Thậm chí 11 ngân hàng mạnh nhất của Nhật Bản lần đầu tiên sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, đã phải giảm khả năng hoạt động còn 90% vào các
năm 1994 - 1995. Riêng ngân hàng Sumitomo, lớn nhất thế giới, tuyên bố
lỗ tới 3 tỷ đôla vào đầu năm 1995. Mặt khác, tình trạng này còn làm tăng
độ rủi ro của các ngân hàng Nhật Bản và làm suy sụp lòng tin của giới
đầu tư vốn trong nước và ngoài nước vào thị trường tài chính Nhật Bản.
Nhiều tổ chức tiền tệ nước ngoài đã rút vốn khỏi Nhật Bản và chuyển
sang các khu vực khác ít chịu sự rủi ro hơn. Nỗi lo lắng lớn nhất đối với
thị trường tài chính Nhật Bản là số lượng cổ phiếu giao dịch không tăng.
Trong thời kỳ cực thịnh của nền kinh tế “bong bóng”, người ta đã ước
đoán số lượng cổ phiếu giao dịch tại Thị trường chứng khoán Tokyo lên
tới 3 tỷ một ngày, song trong những năm 1990 con số thực tế chỉ đạt từ
200 đến 300 triệu tức là bằng 10%. Điều này đã khiến cho các công ty
chứng khoán, mà việc kinh doanh chủ yếu là dựa vào thu phí giao dịch,
lâm vào tình trạng hết sức khó khăn. Hậu quả nan giải nhất là trong khi
nền kinh tế Nhật Bản rất cần vốn để đầu tư phục hồi sản xuất thì các ngân
hàng lại không muốn và không thể cho các công ty vay được do số nợ
khó đòi quá lớn đã làm cho các ngân hàng giảm hẳn lòng tin vào các nhà
kinh doanh sản xuất.
1
Trịnh ngọc. Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ, Nghiên cứu Nhật Bản, số 1 (5), 3/1996, tr. 8 .
18

Tất cả những khó khăn chồng chất kể trên đã đẩy nền kinh tế Nhật
Bản vào một thời kỳ suy thoái nghiêm trọng và kéo dài chưa từng có kể
từ sau miến tranh thế giới thứ hai đến nay. Hiện tượng “Không tăng
trưởng kinh tế” thể hiện ở tốc độ tăng trưởng rất thấp, thậm chí dưới số
không đã đè nặng lên nước Nhật trong suốt những năm này. Sức cạnh
tranh của các ngành công nghiệp Nhật Bản đã suy giảm một cách rõ rệt
và nhanh chóng. Theo đánh giá về năng lực cạnh tranh của các nước do
Diễn đàn kinh tế thế giới công bố, sức cạnh tranh của Nhật Bản từ chỗ
dẫn đầu thế giới đã tụt xuống đứng thứ ba sau Mỹ và Xingapo vào năm
1994, lùi xuống vị trí thứ tư vào năm 1995, và lại tụt xuống một cách
thảm hại xếp vị trí thứ 13 vào năm 1996
2
. Và theo cuộc điều tra của Viện
Phát triển quản lý quốc tế (International Institute of Management
Development (IMD)) tại Lausanne về các hoạt động kinh tế toàn cầu, vị
trí của Nhật Bản hiện nay đã tụt xuống thứ 18. Người Nhật Bản đã tỏ ra
hết sức bi quan, và rất nhiều câu hỏi liên quan đến tiềm năng tăng trưởng
của nước này đã được đặt ra.
Cùng với sự suy thoái nghiêm trọng của nền kinh tế, đồng Yên
Nhật Bản cũng trở nên không ổn định, đặc biệt là sự tăng giá đột ngột của
đồng Yên tới 20% so với đồng đôla, từ 105 Yên ăn một đôla lên tới mức
79 Yên ăn một đôla vào giữa năm 1995, đã làm cho tình trạng đầu tư
trong nước càng trở nên tồi tệ hơn sự lên giá mạnh của đồng Yên đã làm
xói mòn khả năng cạnh tranh của hàng hoá Nhật Bản không chỉ ở các thị
trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước do các mặt hàng
nhập khẩu rẻ hơn từ các nước khác đổ vào. Đồng Yên tăng giá đã nâng
cao rất nhiều sức mua của Nhật Bản trên thị trường thế giới, đến mức có
người đã hoảng hốt nghĩ rằng Nhật Bản có thể mua được cả nước Mỹ khi
giá hàng nhập khẩu đã trở nên “rất rẻ” đối với Nhật Bản. Điều này làm
2

Xem: Trương Thục Anh; Vòng điều chỉnh mới về kết cấu kinh tế ngành sản xuất của Nhật Bản. Tạp
chí kinh tế thế giới (Trung Quốc), số 11/1998.
19
cho người tiêu dùng Nhật Bản được lợi trên thực tế, song giới sản xuất
kinh doanh đã bị thua lỗ nghiêm trọng, đặc biệt là bộ phận các xí nghiệp
chế tạo kể cả cho nhu cầu trong nước lẫn xuất khẩu. Họ thực sự phải đối
mặt với những thách thức nghiệt ngã do chênh lệch giá trong và ngoài
nước quá lớn. Hàng nhập khẩu tăng nhanh trong khi đó hàng loạt công ty
sản xuất không bán được hàng trong nước hoặc không xuất khẩu được
bởi vì sự lên giá của đồng Yên đã làm triệt tiêu rất nhiều lợi thế trước đây
của họ. Sự mất lợi thế của Nhật Bản được biểu hiện cụ thể trên một số
khía cạnh chủ yếu như sau:
Thứ nhất, giá thành sản xuất trong nước tăng lên một cách khủng
khiếp. Những năm 1990 đã trở thành những năm mà kết cấu giá thành các
mặt hàng sản xuất ở Nhật Bản trở nên cao đến mức chưa từng có. Cụ thể
là: giá đất xây dựng cao nhất thế giới, giá nông phẩm cao nhất thế giới,
giá sức lao động cao nhất thế giới, thu phí các phương tiện công cộng cao
nhất thế giới. Giá thành sản xuất cao đã làm giảm mạnh khả năng cạnh
tranh của các công ty và xí nghiệp Nhật Bản, đồng thời cũng tạo điều
kiện cho hàng hoá nước ngoài dễ thâm nhập hơn vào thị trường Nhật
Bản.
Thứ hai, nhu cầu trong nước giảm mạnh do cả đầu tư tư nhân lẫn
tiêu dùng cá nhân đều giảm. Về đầu tư tư nhân, có thể nói đây là một
trong những cấu thành quan trọng của nhu cầu trong nước. Biểu hiện rõ
nhất của nhu cầu đầu tư tư nhân là sự tiến triển của đơn vị đặt hàng máy
móc và tình hình xây dựng nhà xưởng. Trong suất thập kỷ 90, nhu cầu về
máy móc của các công ty Nhật Bản đã giảm đi đáng kể so với thời kỳ
trước đó. Tình hình xây dựng nhà xưởng lại còn tồi tệ hơn nữa, gần như
giảm liên tục trong suốt các năm không trừ năm nào. Nhu cầu tái thiết
mạnh khu vực Kansai sau trận Đại động đất Hanshin cũng không bù đắp

được sự giảm sút nhu cầu xây dựng nhà xưởng nói chung trong toàn quốc
20
vào nửa sau của những năm1990. Đầu tư tư nhân giảm là do: nhiều công
ty đã thu hẹp đầu tư trong nước và mở rộng đầu tư ra nước ngoài để đối
phó với việc đồng Yên lên giá; các ngân hàng và các tổ chức tài chính
không muốn cho các công ty vay thêm tiền để đầu tư do họ còn quá nhiều
nợ khó đòi mà chưa có cách gì giải quyết được; lợi nhuận của các công ty
giảm mạnh đối với những vụ đầu tư trong nước; đồng Yên tăng giá đã
làm cho năng lực cạnh tranh trong nước giảm sút, kinh doanh trì trệ kéo
dài. Về tiêu dùng cá nhân, do kinh tế trì trệ, thu nhập bị cắt giảm nên chi
tiêu cho tiêu dùng cá nhân của người Nhật Bản trong suất những năm
1990 cũng ở trong một tình trạng hết sức tồi tệ. Người dân Nhật Bản
trong những năm này luôn ở trong tình trạng lo sợ về kinh tế bấp bênh
không ổn định. Do vậy, họ đã phải hạn chế tiêu dùng nhằm dành tiền để
đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra cả về việc làm lẫn thu nhập. Chính
vì vậy mà doanh số bán ra của các cửa hàng ở Nhật Bản trong những năm
này cũng giảm đi đáng kể. Điều này không chỉ có tác động tiêu cực đến
các ngành sản xuất cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn ảnh hưởng
đến cả các nguồn hàng nhập khẩu, đặc biệt là những sản phẩm nhập khẩu
có liên quan đến nhu cầu thiết yếu hàng ngày như rau quả, thực phẩm, cà
phê, chè...
Theo một công bố ngày 21 - 4 - 1995 của cơ quan điều phối thuộc
Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản, nhìn chung người tiêu dùng Nhật Bản
trước tình trạng kinh tế suy thoái và sự tăng giá của đồng Yên đều đã phải
thắt chặt hơn nữa tiêu dùng của họ. Trong một cuộc thăm dò được tiến
hành trên một số lượng lớn các hộ tiêu dùng với tất cả các loại hàng hoá
thông thường, người ta đã thấy rằng, trong phần đông các gia đình có thu
nhập bằng tiền lương và tiền công do làm thuê theo thời vụ thì khuynh
hướng tiêu dùng đã giảm đi 77%. Tâm lý của người tiêu dùng trong
những năm này đều cho rằng tình hình giá cả hàng hoá là quá đắt đỏ tại

21
thị trường trong nước. Điều này đã khiến họ tự cắt giảm chi tiêu và tăng
cường tiết kiệm. Chính vì thế mà tỷ lệ tiết kiệm có lúc đã lên tới 77%
3
.
Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” sụp đổ, các chính phủ Nhật Bản
kế tiếp nhau đã thực hiện rất nhiều biện pháp cả gói và các chương trình
cải cách kinh tế với tổng chi phí lên tới hàng trăm nghìn tỷ Yên. Ngân
hàng trung ương Nhật Bản đã duy trì một tỷ lệ lãi suất thấp tới mức chưa
từng có trong lịch sử Nhật Bản (0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục và
thậm chí hiện nay đã xuống tới mức xấp xỉ con số không nhằm phục hồi
và lấy lại sinh khí cho nền kinh tế. Đây chính là những biện pháp can
thiệp của chính phủ mà theo lý thuyết của Keynes thì, có thể tạo ra những
đòn bẩy cho nền kinh tế. Nhưng những biện pháp này đã tỏ ra không mấy
hiệu quả trước một nền kinh tế đã trở nên quá yếu đuối như nền kinh tế
Nhật Bản hiện nay. Cùng với các biện pháp kích cầu của chính phủ, để
đối phó với tình trạng sản xuất trì trệ, các công ty Nhật Bản đã và đang
thực hiện các giải pháp như:
(1) Cắt giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí lao động. Trong
suốt những năm 1990, các công ty Nhật Bản đã hết sức hạn chế việc
tuyển thêm công nhân mới, giảm công nhân hợp đồng, khuyến khích
những người cao tuổi về hưu sớm, và ép các xí nghiệp vừa và nhỏ làm
thầu khoán phải giảm tối đa các chi phí sản xuất phụ tùng. Kết quả là thất
nghiệp gia tăng và các công nhân thường xuyên còn được tuyển mộ phải
làm thêm giờ song tiền lương lại không được tăng một cách tương ứng.
Chính vì thế, trong suốt những năm 1990, những cơ hội tìm kiếm công ăn
việc làm tại các công sở nhà nước lẫn khu vực tư nhân cho những người
dân Nhật Bản ở độ tuổi lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang
chuẩn bị tốt nghiệp ra trường, đã trở nên rất khó khăn. Đối với những ai
3

Phạm Quý Long. Tác động của đồng Yên tăng giá tới nền kinh tế Nhật Bản và các giải pháp vĩ mô,
Nghiên cứu Nhật Bản, số 3, 11/1995, tr. 22.
22
lần đầu tiên đi tìm kiếm công ăn việc làm thì quả thật là hy vọng rất mỏng
manh.
Bởi vì phần đông các công ty Nhật Bản trong những năm này luôn
ở trong tình trạng suy thoái, họ phải thu nhỏ quy mô hoạt động kinh
doanh để tránh tổn thất và sa thải công nhân. Một bộ phận các công nhân
được thuyên chuyển tới các xí nghiệp vừa và nhỏ với những công việc
mang tính chất tạm thời.
(2) Tiến hành thu hẹp và giảm đầu tư vào nhiều khâu sản xuất cần
nhiều lao động, không còn cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đồng
thời chuyển chúng sang các nước Đông Á. Đó là các ngành sản xuất phụ
tùng ô tô; lắp ráp đồ điện; điện tử, dệt... Hướng thích ứng này đã dẫn tới
nguy cơ của sự “trống rỗng” nền công nghiệp trong nước mà các sách báo
đã đề cập đến rất nhiều. Theo các số liệu thống kê của 14 ngành công
nghiệp, tỷ lệ đầu tư ra nước ngoài trong những năm giữa thập kỷ 90 bình
quân đều đạt trên 27%, vượt xa mức 1,8% vào năm 1986. Trong đó công
nghiệp chế tạo tăng mạnh nhất. Ví dụ, đầu tư ra nước ngoài trong ngành
chế tạo ô tô đã tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995
4
. Tỷ trọng
sản xuất ở nước ngoài (chỉ mối quan hệ giữa tổng mức tiêu thụ của các xí
nghiệp ở nước ngoài thuộc ngành chế tạo với tổng mức tiêu thụ của
ngành chế tạo trong nước) đã tăng từ 3% năm 1985 lên 6,4% năm 1990
và 7,4% năm 1993, trong đó ngành sản xuất máy điện tăng lên 12,6%,
máy móc vận tải tăng lên 17,3%
5
.
(3) Tăng cường nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành

phẩm và linh kiện, đặc biệt là những sản phẩm được sản xuất từ những cơ
sở chế tạo của Nhật Bản ở nước ngoài và nâng cao hơn nữa giá cả hàng
xuất khẩu để bù lại những thiệt hại do sự tăng giá của đồng Yên gây ra.
Ví dụ trong năm 1995, nhiều công ty xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng giá
4
Tạp chí “Kinh tế” (Nhật Bản) số tháng 7/1996, tr. 20.
5
“Sách trắng đầu tư”, Hội Chấn hưng mậu dịch Nhật Bản, năm 1995, tr. 42.
23
hàng xuất khẩu từ 10 - 15%. Điều này đã khiến cho hàng nhập khẩu dễ có
điều kiện thâm nhập hơn vào thị trường Nhật Bản trong khi đó hàng xuất
khẩu từ Nhật Bản lại khó được chấp nhận hơn đối với người tiêu dùng
nước ngoài. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Nhật Bản trong năm
1995 chỉ tăng có 2,6% so với 5,1 % vào năm 1994, trong khi đó, nhập
khẩu tăng tới 9,2% so với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và
nhập khẩu tăng, cán cân mậu dịch thặng dư của Nhật Bản đã giảm đi
đáng kể. Song điều đáng nói là trong khi thặng dự mậu dịch với Mỹ và
EU giảm đi thì thặng dư mậu dịch của Nhật Bản với châu Á vẫn liếp tục
tăng nhanh, chứng tỏ châu Á ngày càng trở thành một thị trường xuất
khẩu quan trọng của Nhật. Ví dụ, xuất khẩu của Nhật Bản sang châu Á
trong 6 tháng đầu năm 1995 đã lên tới 99,8 tỷ đôla, cao hơn cả xuất khẩu
của Nhật Bản sang Mỹ và EU cộng lại (97,3 tỷ đôla)
6
.
(4) Tăng cường liên doanh, liên kết với nước ngoài trong việc
nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới. Đồng thời tiến hành đào tạo
lại lao động, hợp nhất các cơ sở sản xuất không có hiệu quả, hoặc bán lại
cho các nhà đầu tư nước ngoài.v.v…
Tất cả những biện pháp của chính phủ cũng như của giới kinh
doanh kể trên, mặc dù chưa tạo ra một sự phục hồi thực sự cho nền kinh

tế song đã có những tác động rất lớn làm thay đổi một cách sâu sắc cơ cấu
các ngành của nền kinh tế Nhật Bản. Các phần tiếp theo sẽ đề cập đến
những thay đổi này.
II. NHỮNG THAY ĐỔI CHỦ YẾU VỀ CƠ CẤU NGÀNH XÉT
TRÊN PHƯƠNG DIỆN VĨ MÔ
Xét trên phương diện vĩ mô, qua các số liệu thống kê, chúng ta có
thể nhận thấy rất rõ cơ cấu các ngành của nền kinh tế Nhật Bản trong hơn
một thập kỷ qua đã có những thay đổi chủ yếu như sau:
6
Trịnh ngọc, Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ, Nghiên cứu Nhật Bản, số 1(5), 3/1996, tr. 9.
24
1. Sự thay đổi về tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế
Kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay, vị trí và vai trò của các ngành trong
nền kinh tế Nhật Bản đã có những thay đổi rất đáng kể. Điều này được
thể hiện rất rõ qua các số liệu thống kê về tỷ trọng (hay đóng góp) của các
ngành vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản. Sự thay đổi về
tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế Nhật Bản được thể hiện trên
những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tỷ trọng trong GDP của các ngành thuộc khu vực I và
khu vực II giảm mạnh, trái lại tỷ trọng của các ngành thuộc khu vực III
lại tăng nhanh. Điều này được thể hiện rõ trong bảng 2.
Bảng 2: Sự thay đổi tỷ trọng trong GDP của các khu vực lớn của nền
kinh tế Nhật Bản (Tỷ lệ % tính theo giá trị hiện hành)
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Khu vực I (nông,
lâm, ngư nghiệpvà
khai khoáng
2,8 2,5 2,4 2,2 2,3 2,1 2,0 1,8 1,7 1,6 1,5
Khu vực II (các
ngành chế tạo và

xây dựng)
36,3 36,1 34,9 33,3 31,9 31,2 30,9 30,8 29,7 29,2 29,0
Khu vực III (ngân
hàng, vận tải, thông
tin, dịch vụ…)
60,9 61,4 62,7 64,5 65,8 66,7 67,1 67,4 68,6 69,2 69,5
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Nguồn: METI, tính toán từ các số liệu thống kê về các ngành kinh tế Nhật Bản, 2000.
Qua bảng 2 chúng ta có thể thấy sự giảm đi một cách rõ rệt tỷ trọng
của các ngành thuộc khu vực I và khu vực II, và sự tăng lên một cách
vững chắc tỷ trọng của các ngành thuộc khu vực III trong GDP của Nhật
Bản. Trong vòng một thập kỷ từ 1990 đến 2000, tỷ trọng của các ngành
thuộc khu vực I trong GDP đã giảm từ 2,8% (1990) xuống còn l,5%
25

×