Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Giáo trình kinh tế học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.3 KB, 112 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Alfred Marshall, nhà kinh tế vĩ đại của thế kỷ XIX đã viết: “Kinh tế học là môn
học nghiên cứu xã hội loài người trong cuộc sống thường nhật của họ”. Môn học này sẽ
đề cập đến các vấn đề:
- Các quyết định kinh tế trong đời sống mỗi người, của các doanh nghiệp và hoạt
động của nền kinh tế.
- Các quyết định để tối ưu hóa tiêu dùng, tối ưu hóa sản xuất và xã hội đạt hiệu
quả và công bằng nhất
- Những vấn đề về lạm phát, tăng trưởng, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, cán cân
thương mại, bình ổn giá cả, tiền lương của các ngành nghề…
- Giúp hiểu rõ hơn khả năng và giới hạn của chính sách kinh tế, khi phân bổ
nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế.
Tác giả soạn giáo trình “KINH TẾ HỌC” nhằm cung cấp cho sinh vên cao
đẳng khối Kinh tế những kiến thức cơ bản nhất về môn học ở bậc cao đẳng bao
gồm các chương:
Chương 1: Đại cương về kinh tế học
Chương 2: Những vấn đề cơ bản về cung - cầu
Chương 3: Lý thuyết người tiêu dùng và hành vi của doanh nghiệp
Chương 4: Cạnh tranh, độc quyền và thị trường các yếu tố sản xuất
Chương 5: Tổng sản phẩm, tổng cầu và chính sách tài khóa
Chương 6: Tiền tệ và chính sách tiền tệ
Mặc dù tác giả đã nỗ lực diễn giải sao cho dễ hiểu và gần gũi nhất có thể, song khoa
học kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, nên một số thuật ngữ còn mới và lạ, do vậy
giáo trình không thể tránh những thiếu sót. Rất mong sự nhận xét, góp ý của các Thầy
Cô và các bạn sinh viên để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.
Tác giả xin gởi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo nhà trường, Hội đồng khoa học trường
Đại học Xây dựng Miền Trung, Hội đồng khoa học Khoa Kinh tế, đồng nghiệp đã có
những gợi ý, nhận xét và động viên trong quá trình biên soạn.

Tác giả











2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH TẾ HỌC 5
1.1 Khái quát và phương pháp nghiên cứu KTH 5
1.1.1 Khái niệm 5
1.1.2 Mười nguyên lý cơ bản của kinh tế học 6
1.2 Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học 9
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CUNG - CẦU 13
2.1 Cầu 13
2.1.1 Khái niệm: 13
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng cầu: 13
2.1.3 Sự vận động theo đường cầu và sự dịch chuyển của đường cầu 16
2.2 Cung 17
2.2.1. Khái niệm: 17
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cung: 18
2.2.3 Cân bằng thị trường: 21
2.2.4 Kiểm soát giá: 24
2.3 Độ co dãn 26
2.3.1 Độ co dãn của cầu theo giá: 26

Co dãn 28
2.3.2. Độ co dãn của cầu theo thu nhập: 28
2.3.3 Độ co dãn của cầu theo giá cả hàng hóa khác: 29
CHƯƠNG 3: LÝ THUYẾT VỀ LỢI ÍCH NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ HÀNH
VI DOANH NGHIỆP 35
3.1 Lý thuyết về lợi ích người tiêu dùng 35
3.1.1 Lợi ích và lợi ích cận biên 35
3.1.2 Phân tích đường bàng quan: 37
3.1.3 Tiêu dùng tối ưu 39
3.2 Lý thuyết về hành vi của doanh nghiệp 44
3.2.1 Lựa chọn kinh tế tối ưu của doanh nghiệp 44


3

3.2.1.1 Những vấn đề cơ bản của lý thuyết lựa chọn 44
3.2.1.2 Ảnh hưởng của qui luật khan hiếm, lợi suất giảm dần và hiệu quả của sự
lựa chọn kinh tế tối ưu 45
3.2.2 Lý thuyết về sản xuất và chi phí 46
3.2.3 Lý thuyết về chi phí sản xuất 52
3.2.3.1 Chi phí ngắn hạn 52
3.2.3.2 Các chi phí dài hạn 53
3.2.4 Nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận 56
CHƯƠNG 4: THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 60
4.1 Các loại thị trường 60
4.1.1 Khái niệm thị trường: 60
4.1.2 Phân loại 60
4.2 Cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền 61
4.2.1 Cạnh tranh hoàn hảo 61

4.2.2 Độc quyền 67
4.2.3 Cạnh tranh không hoàn hảo 72
a. Cạnh tranh độc quyền 72
4.3 Thị trường các yếu tố sản xuất 74
4.3.1 Thị trường lao động 74
4.3.1.1. Giá và thu nhập của các yếu tố sản xuất 74
4.3.1.2. Nguyên tắc thuê các yếu tố sản xuất: 74
4.3.1.3 Thị trường yếu tố cạnh tranh hoàn hảo: 75
4.3.2 Cung và cầu về vốn 76
4.3.3 Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường 79
CHƯƠNG 5: TỔNG SẢN PHẨM - TỔNG CẦU – CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA 84
5.1 Tổng sản phẩm trong nước 84
5.1.1 Khái quát tổng sản phẩm trong nước 84
5.1.1.1 Khái niệm: 84


4

5.1.1.2 Các thành tố của GDP 84
5.1.1.3 Chỉ số điều chỉnh GDP 86
5.1.1.4 Các chỉ tiêu khác về thu nhập 88
5.1.2 Phương pháp xác định GDP 88
5.1.3 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 89
5.2 Tổng cầu và chính sách tài khóa 91
5.2.1 Đường tổng cầu 91
5.2.2 Chính sách tài khóa 95
CHƯƠNG 6: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 99
6.1 Chức năng tiền tệ 99
6.1.1 Khái niệm 99

6.1.2 Chức năng của tiền 99
6.2 Hệ thống Ngân hàng và cung ứng tiền tệ 100
6.2.1 Sự tạo ra “tiền ngân hàng” từ tiền gửi 100
6.2.2 Hoạt động của hệ thống ngân hàng 103
6.3 Mức cầu tiền, cung tiền và trạng thái cân bằng tiền tệ 106
6.3.1 Cung tiền 106
6.3.2 Đường IS và đường LM 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
















5

CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH TẾ HỌC
1.1 Khái quát và phương pháp nghiên cứu KTH.
1.1.1 Khái niệm
Quản lý nguồn lực có tính quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm. Sự khan

hiếm thể hiện xã hội luôn vấp phải giới hạn về nguồn lực và vì thế họ không thể sản
xuất mọi thứ hàng hóa mà xã hội mong muốn, con người cần, giống như hộ gia đình
không thể đáp ứng tất cả các nhu cầu của mọi thành viên, xã hội cũng không thể làm hài
lòng và thỏa mãn các cá nhân đạt mức sống cao nhất như họ mong muốn được.
Nhu cầu của mọi người là vô hạn, mọi người đều muốn sử dụng tất cả mọi thứ để
thỏa mãn nhu cầu, và luôn muốn sử dụng những sản phẩm mới nhất, đảm bảo chất
lượng, thẩm mỹ cao nhất, sản phẩm có chứa nhiều yếu tố công nghệ nhất…Tuy nhiên
chúng ta biết rằng khó có thể đạt được điều này vì khả năng thanh toán bị hạn chế.
Hộ gia đình phải đối mặt với nhiều quyết định. Nó sẽ quyết định sự phân công
xem mọi người sẽ làm gì và ai sẽ nhận được những gì? Tóm lại, hộ gia đình phân bổ
nguồn lực khan hiếm của mình giữa các thành viên sao phù hợp với năng lực, nỗ lực và
mong muốn của mọi người.
Cũng giống như gia đình, xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một xã hội
phải phân công xem mọi người sẽ làm những công việc gì và mọi người hưởng thành
quả lao động ấy như thế nào? Một số người sẽ phục vụ ngành công nghiệp, một số
người sẽ phục vụ lĩnh vực dịch vụ, một số người sẽ phục vụ ngành nông nghiệp…Qua
đó mọi người sẽ được phân bổ tất cả sản lượng mà xã hội tạo ra, tất nhiên nó sẽ quyết
định ai sẽ ăn gì? Mặc gì? Đi phương tiện gì?
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý các nguồn
lực khan hiếm của mình. Nó được đặt trên cơ sở một số ý tưởng cơ bản chi phối hành vi
cá nhân, sự tương tác giữa các cá nhân và nền kinh tế. Trong xã hội các nguồn lực đó
không thể phân bổ bởi một nhà hoạch định duy nhất nào đó mà thông qua các hoạt động
liên hệ qua lại giữa hàng triệu triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Chính vì thế các nhà
nghiên cứu kinh tế luôn phải xem mọi người ra quyết định như thế nào: họ mua cái gì,
mua bao nhiêu, tiết kiệm bao nhiêu và đầu tư các khoản tiết kiệm này như thế nào? Các
nguồn lực được phân bổ thông qua các hoạt động liên hệ qua lại cho các thành viên
trong xã hội.
Ví dụ: Các thành viên trong gia đình phải quyết định xem kênh truyền hình nào
trong khi chỉ có 1 chiếc ti vi (Ti vi là nguồn lực khan hiếm).
Nói một cách tổng quát kinh tế học nghiên cứu hoạt động của con người trong

sản xuất và tiêu thụ hàng hóa dịch vụ.
Kinh tế học gồm có kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, trong đó:


6

Kinh tế vi mô: là môn học nghiên cứu cách thức ra quyết định của hộ gia đình và
các doanh nghiệp, cũng như sự tương tác giữa họ trên các thị trường cụ thể.
Kinh tế vĩ mô: là môn học nghiên cứu các hiện tượng của toàn bộ các hoạt động
của nền kinh tế, nghĩa là các hoạt động khác nhau của nền kinh tế với tư cách là một
tổng thể, một hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống con hay thị trường cụ thể. Nó giúp
chúng ta lý giải những câu hỏi quan trọng có liên quan đến đời sống kinh tế của một
quốc gia như điều gì quyết định mức sống và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia, tại sao nền kinh tế thường xuyên biến động, chính phủ có vai trò gì trong thúc đẩy
tăng trưởng kiềm chế lạm phát và ổn định thất nghiệp ở mức hợp lý, những thay đổi
trong môi trường quốc tế có ảnh hưởng như thế nào đối với thành tựu kinh tế vĩ mô của
một nước?
Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, vì những
thay đổi xảy ra trong nền kinh tế nói chung phát sinh từ các quyết định của hàng triệu
triệu cá nhân, do đó không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu không đề cập
đến các quyết định kinh tế vi mô có liên quan. Mặc dù có mối liên hệ gắn bó giữa kinh
tế vi mô và kinh tế vĩ mô nhưng khi nghiên cứu hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau
chính vì thế cách xử lý vấn đề hay phương pháp tiếp cận cũng sẽ khác nhau.
1.1.2 Mười nguyên lý cơ bản của kinh tế học
1. Con người ra quyết định như thế nào?
- Con người phải luôn đối mặt với sự đánh đổi.
Nguyên lý này cho chúng ta thấy tất cả mọi thành viên trong xã hội đều phải đối
mặt với sự đánh đổi, việc lựa chọn cái này và từ bỏ cái khác trong cùng một thời điểm.
Tại sao lại như vậy? Tại sao không đưa ra quyết định chọn hết tất cả mọi thứ? Hãy xem
một sinh viên sử dụng thời gian của mình cho các môn học, nếu dành một giờ học cho

môn Anh văn thì sẽ từ bỏ một giờ học để nghiên cứu môn toán hay doanh nghiệp dành
phần lớn nguồn lực vào nghiên cứu sản phẩm mới thì sẽ hạn chế mở rộng thị phần hay
một quốc gia nếu ưu tiên tăng cường khả năng phòng thủ sẽ tăng chi tiêu cho quốc
phòng khi đó sẽ mất cơ hội để tăng mức sống cho nhân dân Tại một thời điểm có hai
kênh truyền hình đều truyền trực tiếp những sự kiện mà mình yêu thích, thì người xem
sẽ chọn một trong hai kênh ấy để thưởng thức, nếu chọn kênh này sẽ từ bỏ kênh kia vì
không thể cùng một lúc xem cả hai kênh truyền hình yêu thích nếu chỉ có một chiếc tivi,
một sinh viên không thể vừa muốn đi học mà cũng muốn đi chơi tại cùng một thời
điểm. Doanh nghiệp cũng không thể sản xuất nhiều sản phẩm như họ mong muốn…Đó
là do sự khan hiếm về nguồn lực.



7

- Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó
Vì con người luôn đối mặt với sự đánh đổi nên luôn so sánh giữa chi phí và lợi ích
trong quá trình ra quyết định. Ví dụ đưa ra quyết định đi học đại học hay đi làm sau khi
tốt nghiệp PTTH, nếu đi học thì bạn phải chi cho các khoản như học phí, sách vở và các
chi phí sinh hoạt hằng ngày, nếu đi làm thì bạn sẽ nhận tiền lương. Tuy nhiên cách tính
toán này có thiếu sót khi chưa đề cập đến chi phí lớn nhất đó là thời gian mà bạn không
làm một công việc nào đó khi lựa chọn tiếp tục đi học. Song, nếu bạn đi làm thì bạn vẫn
phải có các khoản chi phí sinh hoạt hàng ngày, như vậy đây chưa phải là chi phí của
việc đi học. Đối với những người chọn việc tiếp tục đi học thì tiền lương phải từ bỏ để
đi học đại học là khoản chi phí lớn nhất cho việc đi học
- Con người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên
Cận biên có nghĩa là lân cận, có thể hiểu rằng thay đổi cận biên là những điều chỉnh
ở vùng lân cận cái mà bạn đang làm. Đôi khi mọi người đưa ra các quyết định tối ưu
nhờ nghĩ đến điểm cận biên. Ví dụ khi tốt nghiệp cao đẳng các bạn sẽ quyết định có nên
học tiếp đại học hay đi làm và để đưa ra quyết định này bạn cần so sánh lợi ích tăng

thêm khi tiếp tục học nâng cao đó là khoản tiền lương cao hơn trong suốt cuộc đời, niềm
vui được chuyên tâm học hành và nghiên cứu thêm lĩnh vực mà mình lựa chọn với
những chi phí bạn phải chịu như thời gian, học phí hay tiền lương mất đi nếu vẫn còn đi
học và từ đó sẽ đưa ra kết luận việc tiếp tục học có đáng giá hơn hay không.
- Con người phản ứng với những kích thích.
Vì mọi người đều đưa ra các quyết định dựa trên sự so sánh chi phí và lợi ích, nên
khi lợi ích hay chi phí thay đổi thì hành vi của họ cũng thay đổi. Các chính sách công
cộng không bao giờ quên các kích thích. Ví dụ đánh thuế xăng khuyến khích mọi người
sử dụng các phương tiện ít tiêu hao nhiên liệu hay thu phí bảo trì đường bộ sẽ khuyến
khích mọi người sử dụng phương tiện công cộng
2. Con người tương tác với nhau như thế nào?
- Thương mại làm cho mọi người đều có lợi.
Rõ ràng thương mại giữa các nước sẽ làm các bên có lợi hơn vì thương mại cho
phép mọi người chuyên môn hóa vào một lĩnh vực mà mình làm tốt nhất cho dù đó là
trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng…Thông qua hoạt động thương mại mọi người có thể
mua được những hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu, sở thích…Giống như hộ gia đình
đều phải cạnh tranh nhau để mua hàng hóa với chất lượng cao nhất nhưng chi phí lại
thấp nhất. Mọi thành viên trong xã hội đều phải cạnh tranh nhau để có việc làm tốt nhất.
Các doanh nghiệp, tập đoàn hay các quốc gia đều phải cạnh tranh nhau để mua yếu tố
đầu vào thấp nhất và bán các yếu tố đầu ra cao nhất có thể. Ví dụ như hãng Ford và
hãng Toyota cạnh tranh để thu hút khách hàng trên thị trường ôtô, hay Compaq và
Toshiba cạnh tranh nhau trên thị trường máy tính cá nhân, Apple và Samsung cạnh


8

tranh trên thị trường điện thoại di động, Sony và Parasonic cạnh tranh trên thị trường
tivi…Các quốc gia cũng cạnh tranh với nhau trên thị trường như Mỹ và Nhật là hai
quốc gia sản xuất những mặt hàng giống nhau, nhưng đó không phải là cuộc cạnh tranh
có người thắng người thua mà làm cho hai quốc gia này có lợi hơn.

- Thị trường là phương thức tốt nhất để tổ chức các hoạt động kinh tế
Các doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác nhau trên thị trường, nơi mà giá cả
và ích lợi riêng sẽ định hướng cho các quyết định. Các doanh nghiệp sẽ quyết định
tuyển dụng lao động hay sản xuất cái gì và số lượng bao nhiêu Còn người tiêu dùng
quyết định mua loại hàng hóa, dịch vụ và lựa chọn thương hiệu nào bằng thu nhập của
mình. Người tiêu dùng và doanh nghiệp nhìn vào giá cả mà đưa ra các quyết định mua
và bán cái gì nên vô hình chung tính đến các lợi ích và chi phí xã hội do hành vi của họ
tạo ra, trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa ích lợi xã hội.
- Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được kết cục của thị trường.
Có hai nguyên nhân mà chính phủ phải can thiệp vào nền kinh tế: thúc đẩy hiệu
quả và sự công bằng, nghĩa là hầu hết các chính sách đều nhằm vào làm cho chiếc
bánh kinh tế càng ngày càng lớn hơn vừa làm thay đổi cách phân chia chiếc bánh
đó thành nhiều phần đều nhau hơn. Ví dụ các chính sách về môi trường, thuế, hệ
thống phúc lợi xã hội
3. Nền kinh tế với tư cách là tổng thể vận hành như thế nào?
- Mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ
của quốc gia đó.
Công dân của những quốc gia có thu nhập cao thì chắc chắn sẽ có nhiều ôtô hơn, chế
độ dinh dưỡng tốt hơn, dịch vụ y tế tốt hơn và tuổi thọ cao hơn các quốc gia có thu nhập
thấp. Hầu hết ở các quốc gia người lao động sản xuất được số lượng hàng hóa và dịch
vụ trong một đơn vị thời gian càng nhiều nghĩa là năng suất lao động càng cao thì sẽ
được hưởng mức sống cao hơn các quốc gia có năng suất lao động thấp.
- Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền.
Lạm phát được phản ánh qua sự gia tăng của mức giá chung nền kinh tế. Khi mức
giá chung của nền kinh tế tăng thì mức cầu tiền sẽ tăng có thể nói đó là sự gia tăng của
lượng tiền và là một trong những nguyên nhân gây lạm phát trầm trọng, kéo dài. Lạm
phát cao sẽ gây nhiều tổn thất cho xã hội nên mục tiêu mà các nhà hoạch định chính
sách đặt ra là luôn muốn giữ lạm phát ở mức thấp.
- Chính phủ phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp.
Khi chính phủ cắt giảm lạm phát sẽ sử dụng một số công cụ điều tiết vĩ mô với mục

đích cắt giảm lượng tiền trong nền kinh tế, trong dài hạn kết quả của chính sách này là
mức giá chung giảm. Khi cắt giảm lượng tiền thì sẽ làm giảm số tiền mà mọi người chi
tiêu, trong dài hạn kết quả của chính sách này là mức giá chung giảm. Khi bắt đầu sử


9

dụng công cụ này để cắt giảm lạm phát, số tiền mà mọi người chi tiêu có xu hướng giảm
dần, nhưng giá cả đang ở mức cao mà mức chi tiêu giảm nên làm giảm lượng hàng hóa
và dịch vụ mà doanh nghiệp bán ra, do đó buộc các doanh nghiệp phải sa thải công nhân
khi mức tiêu thụ thấp. Như vậy, biện pháp cắt giảm chi tiêu tạm thời làm tăng lượng
thất nghiệp đến khi giá cả hoàn toàn thích nghi với sự thay đổi.
1.2 Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học
- Kinh tế học là môn học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý các nguồn lực
khan hiếm của mình.
- Khi phân tích hay lý giải một sự kiện kinh tế thì luôn phải dựa trên những giả
thuyết nhất định. Sau khi xác định được kết quả hoạt động kinh tế tăng hay giảm còn
phải quan tâm đến sự thay đổi là bao nhiêu.
- Đặt các vấn đề kinh tế trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Các nhà kinh tế nghiên cứu đối tượng của mình với tính khách quan của một nhà
kinh tế giống như nhiều nhà nghiên cứu vật lý, hóa học, sinh học cũng đưa ra các giả
thuyết, thu thập số liệu, phân tích và lý giải chứng minh điều này là đúng hay bác bỏ lý
thuyết của mình rồi tiếp tục đưa ra giả thuyết.
Phương pháp khoa học: quan sát, lý thuyết và tiếp tục quan sát. Ở các lĩnh vực
khác như sinh học, vật lý, hóa học… các nhà khoa học sẽ dùng thí nghiệm để chứng
minh hay phân tích các giả thuyết, lý thuyết, còn đối với những nhà kinh tế học không
thể cho nền kinh tế suy thoái, lạm phát hay khủng hoảng để chứng minh các giả thuyết
mà sẽ quan sát và qua những chu kỳ, những biến động xảy ra đối với nền kinh tế trong
từng giai đoạn để chứng minh hay lý giải giả thuyết là đúng hay sai từ đó sẽ tiếp tục
quan sát các sự kiện kinh tế…, thực nghiệm thường gây trở ngại và khó thực hiện trong

kinh tế học. Ví dụ nhà kinh tế nghiên cứu lạm phát không được phép thay đổi chính
sách tiền tệ quốc gia chỉ để tạo ra những số liệu cần thiết phục vụ cho nghiên cứu của
mình, chính vì thế các nhà kinh tế chỉ có thể theo sát những thực nghiệm tự nhiên do
thực tế hay lịch sử để lại.
Vai trò giả định cũng được đề cập trong nghiên cứu kinh tế, ví dụ để cho thế
giới đơn giản và dễ hiểu hơn khi nghiên cứu tác động của thương mại quốc tế, nhà
kinh tế giả định nền kinh tế chỉ gồm 2 quốc gia và chỉ sản xuất hai loại hàng hóa.
Nhưng thực tế có rất nhiều quốc gia trên thế giới và mỗi quốc gia sản xuất hàng
nghìn loại hàng hóa khác nhau. Mục đích của giả định là nhằm giúp nhà nghiên cứu
tập trung tư duy hơn khi nghiên cứu thương mại thế giới trong tưởng tượng trở nên
đơn giản hơn. Hay nghiên cứu điều gì sẽ xảy ra đối với nền kinh tế khi chính phủ
thay đổi khối lượng tiền mặt trong lưu thông, nghĩa là chúng ta xem xét tác động
của chính sách này đến phản ứng của giá cả trong khoảng thời gian khác nhau:
ngắn hạn và dài hạn. Đối với trường hợp ngắn hạn thì có thể giả định rằng giá cả


10

thay đổi không đáng kể thậm chí là không thay đổi, còn trong dài hạn thì giả định
rằng tất cả các loại giá cả đều hoàn toàn linh hoạt.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về kinh tế học còn sử dụng đồ thị, phương trình, hàm
số trong phân tích và tìm hiểu nền kinh tế, khi đó các mô hình đều được xây dựng trên
cơ sở giả định.
Biều đồ về vòng chu chuyển
Nền kinh tế bao gồm hàng triệu con người tham gia vào các hoạt động như mua
bán, thuê, sản xuất kinh doanh và sẽ là thách thức lớn để nghiên cứu cách thức tổ chức
của nền kinh tế và phương thức tác động qua lại giữa những người tham gia vào nền
kinh tế. Chính vì thế để đơn giản và dễ hiểu hơn cần phải có mô hình để lý giải các hiện
tượng này.


Thị trường hàng hóa và dịch vụ
Các doanh nghiệp bán
Các hộ gia đình mua


Doanh nghiệp Hộ gia đình
1.Sản xuất và 1. Mua và tiêu
bán hàng hóa dịch vụ dùng hàng hóa dịch vụ.
2.Thuê và sử dụng các 2. Sở hữu và cho thuê các
nhân tố sản xuất nhân tố sản xuất





Thị trường và nhân tố sản xuất
các hộ gia đình bán
các doanh nghiệp mua

luồng hàng hóa, dịch vụ:
luồng tiền
Đối với mô hình này, nền kinh tế được giả định chỉ có hai nhóm người quyết
định, đó là doanh nghiệp và hộ gia đình. Khi đó các doanh nghiệp sẽ sử dụng những
đầu vào như lao động, đất đai và tư bản (tư bản: nhà xưởng, máy móc, trang thiết
bị ) được gọi là các nhân tố sản xuất để sản xuất các hàng hóa dịch vụ. Hộ gia đình


11

được giả định là người sở hữu các nhân tố sản xuất và tiêu dùng toàn bộ hàng hóa

dịch vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất ra. Các hộ gia đình và doanh nghiệp tương tác
với nhau trên thị trường.
Trên thị trường hàng hóa và dịch vụ, hộ gia đình đóng vai trò là người mua sản
lượng hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra, và khi đó doanh nghiệp sẽ là
người bán.
Ngược lại trên thị trường các nhân tố sản xuất, hộ gia đình là người bán và sẽ cung
cấp cho doanh nghiệp những đầu vào mà họ sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ,
khi đó doanh nghiệp đóng vai trò là người mua. Qua đó sẽ thấy được sự đơn giản để
minh họa cho phương thức tổ chức giao dịch kinh tế giữa khu vực doanh nghiệp và hộ
gia đình trong nền kinh tế.
Vòng trong của biểu đồ chu chuyển biểu thị luồng hàng hóa, dịch vụ giữa các hộ
gia đình và doanh nghiệp. Hộ gia đình bán quyền sử dụng lao động tư bản, đất đai cho
doanh nghiệp trên thị trường nhân tố sản xuất và doanh nghiệp sử dụng các đầu vào để
sản xuất hàng hóa dịch vụ đem bán cho hộ gia đình trên thị trường sản phẩm. Như vậy
sẽ có một luồng nhân tố sản xuất liên tục chảy từ khu vực hộ gia đình sang doanh
nghiệp và một luồng hàng hóa dịch vụ chảy từ khu vực doanh nghiệp sang khu vực hộ
gia đình.
Tương tự vòng chu chuyển bên ngoài biểu thị luồng tiền tương ứng. Trên thị
trường sản phẩm các hộ gia đình sẽ chi tiêu tiền từ việc bán các nhân tố sản xuất trên thị
trường nhân tố để mua hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ sử
dụng nguồn thu từ việc bán hàng hóa dịch vụ để thanh toán cho các nhân tố sản xuất.
Khi đó sẽ có luồng chi tiêu để mua hàng hóa dịch vụ từ hộ gia đình chảy sang doanh
nghiệp và ngược lại luồng doanh thu sẽ chảy từ khu vực doanh nghiệp sang khu vực hộ
gia đình (thu nhập).
Biều đồ vòng chu chuyển là mô hình đơn giản về nền kinh tế, và đã bỏ qua
nhiều chi tiết như vai trò của chính phủ và thương mại quốc tế, tuy nhiên những chi
tiết này không cần thiết khi đang nghiên cứu và tìm hiểu khái quát về phương thức tổ
chức kinh tế.
Đường giới hạn năng lực sản xuất: là đường chỉ ra sự kết hợp sản lượng khác
nhau mà nền kinh tế có thể sản xuất ra bằng các nhân tố và công nghệ sản xuất hiện

có. Mặc dù nền kinh tế sản xuất ra hàng triệu triệu hàng hóa, dịch vụ, nhưng hãy


12

giả định nền kinh tế chỉ sản xuất hai loại hàng hóa A và B (mặc dù thực tế sản xuất
rất nhiều loại hàng hóa dịch vụ), với nguồn lực của nền kinh tế sẽ sản xuất tối đa
1.000 sản phẩm A mà sẽ không có sản phẩm B nào hoặc chỉ sản xuất tối đa được
500 sản phẩm B mà không có sản phẩm.













Hình 1.1
Tại điểm A, B hay C, D là những điểm mà nền kinh tế có thể sản xuất được,
còn tại điểm E thì nền kinh tế không đủ khả năng sản xuất tại thời điểm tính toán.
Như vậy có thể nói nền kinh tế có thể sản xuất được bất kỳ điểm nào nằm trên và
trong đường giới hạn năng lực sản xuất còn những điểm nằm ngoài đường giới hạn
năng lực sản xuất thì không thể sản xuất. Khi đó một sự kết hợp có hiệu quả nếu tại
đó nền kinh tế đạt được kết quả cao nhất từ các nguồn lực khan hiếm hiện có. Những
điểm nằm trên đường giới hạn năng lực sản xuất sẽ biểu thị mức sản xuất đạt hiệu

quả, nghĩa là không làm tăng quy mô sản xuất của sản phẩm này mà cũng không làm
giảm quy mô của sản xuất sản phẩm khác (ví dụ như điểm A, B), còn những điểm
nằm trong (như điểm C, D) là những điểm mà nền kinh tế chưa đạt hiệu quả.







spA
spB
1.000
500
x C

xD
x E
A
B


13

CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CUNG - CẦU
2.1 Cầu
2.1.1 Khái niệm:
Cầu là số lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại
các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định (trong khi đó các yếu tố khác
không đổi).

Cầu khác với nhu cầu. Nhu cầu là nguyện vọng và mong muốn vô hạn của con
người. Sự hạn chế về nguồn lực nên không thể thỏa mãn hết các nhu cầu. Còn khi nói
cầu phải đề cập hai yếu tố cơ bản là khả năng mua và ý muốn sẵn sàng mua. Ví dụ bạn
rất muốn mua một chiếc laptop (nhu cầu) để phục vụ việc học tập nhưng bạn chưa có đủ
tiền (khả năng mua) do đó cầu của bạn với laptop bằng không. Tương tự, bạn có sẵn
tiền nhưng bạn không muốn mua laptop thì cầu của bạn với laptop bằng không.
Lượng cầu là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn
sàng mua ở mức giá đã cho trong một thời nhất định.
Biểu cầu là bảng mô tả số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng
mua và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Quy luật cầu:
Số lượng hàng hóa, dịch vụ trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của
hàng hóa giảm xuống và ngược lại.
Quy luật cầu tương ứng với trực giác: Khi giá (P) giảm xuống, người tiêu dùng
sẽ mua nhiều hơn và những người tiêu dùng mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm
nhập thị trường. Giá cả hàng hóa hay dịch vụ tăng thì lượng cầu sẽ giảm và khi giá giảm
thì lượng cầu sẽ tăng, khi đó có thể nói lượng cầu tỉ lệ nghịch với giá cả
Lưu ý rằng các mối quan hệ về cầu xem xét ở trên là trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi. Còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cầu đối với hàng hóa.
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng cầu:
Chúng ta có các yếu tố cơ bản sau đây:
- Thu nhập của người tiêu dùng: Khi thu nhập thay đổi thì cầu đối với hàng hóa
cũng thay đổi. Đối với các hàng hóa bình thường (thiết yếu, xa xỉ) khi thu nhập tăng thì
cầu tăng, còn đối với các hàng hóa cấp thấp thì thu nhập tăng thì cầu giảm.
-Quy mô dân số: Một thị trường có nhiều người tiêu dùng hơn thì cầu sẽ lớn hơn
và ngược lại. Hãy so sánh cầu của quần áo ở thị trường lớn như Thành phố Hồ Chí
Minh với thị trường quần áo ở Phú Yên. Rõ ràng dân số Thành phố Hồ Chí Minh nhiều
hơn dân số tỉnh Phú Yên nên lượng cầu đối với quần áo Thành phố Hồ Chí Minh sẽ lớn
hơn rất nhiều so với lượng cầu quần áo ở Phú Yên.
- Giá cả của các loại hàng hóa liên quan: Cầu của hàng hóa hay dịch vụ không

những phụ thuộc vào giá của bản thân giá hàng hóa dịch vụ đó mà còn phụ thuộc vào


14

giá của hàng hóa có liên quan. Mỗi hàng hóa có hai loại mối quan hệ với các hàng hóa
liên quan. Đó là quan hệ thay thế hoặc quan hệ bổ sung. Hàng hóa thay thế là hàng hóa
có thể sử dụng thay cho hàng hóa khác. Ví dụ trà (chè) và cà phê là hai hàng hóa thay
thế, do đó khi giá của một loại hàng hóa thay đổi thì cầu hàng hóa kia cũng thay đổi. Cụ
thể khi giá trà (chè) tăng lên, cầu đối với cà phê sẽ tăng lên hoặc ngược lại. Còn đối với
hàng hóa bổ sung thì vấn đề lại khác, đó là hàng hóa được sử dụng đồng thời hàng hóa
khác. Ví dụ, trà (chè) và đường là hai hàng hóa bổ sung. Khi giá của đường tăng lên thì
cầu đối với trà (chè) lại giảm xuống.
- Thị hiếu của người tiêu dùng: Khi người tiêu dùng thay đổi ý thích thì quyết định
mua (cầu đối với) hàng hóa cũng sẽ thay đổi …
- Kỳ vọng: Con người có các kỳ vọng về sự thay đổi của các yếu tố như giá, thu
nhập, thị hiếu, chất lượng… và điều đó có ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng.
Như vậy, cầu biểu diễn ý muốn và khả năng của người mua, cầu phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như thu nhập, thị hiếu, số lượng người tiêu dùng, giá cả của các hàng hóa
liên quan. Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa cầu và các yếu tố đó dưới dạng
phương trình như sau:
ETNIPyPxfDx ;;;;;(

) (2.1)
Trong đó:
D
x
- cầu đối với hàng hóa X;
P
x

- Giá hàng hóa X;
P
y
- Giá của hàng hóa có liên quan Y (thay thế hoặc bổ sung);
I - Thu nhập;
N - Số lượng người tiêu dùng;
T - Thị hiếu;
E - Kỳ vọng;
Như vậy cầu thể hiện mức mua sắm của người tiêu dùng.
Biểu cầu và đường cầu
Đường cầu có dạng: bPaQ
D
 (2.2)
Q
D
: lượng cầu
P: giá cả hàng hóa
a, b: hằng số
Đường cầu được biểu diễn bằng đồ thị như sau:





15











Hình 2.1
Ví dụ: Có nhu cầu về kem của sinh viên A như sau:
Bảng 2.1 Nhu cầu và giá kem:

Giá kem Lượng kem
0 6
5 4
10 2
15 0

Viết phương trình hàm cầu và biểu diễn bằng đồ thị
Phương trình đường cầu có dạng: Q
D
= a – b.P (1)
tại P = 0 ; Q
D
= 6 thay vào phương trình cầu (1): 6 = a
P = 5 ; Q
D
= 4 thay vào phương trình cầu (1): 4 = a – 5b

b = 2/5

Vậy phương trình đường cầu có dạng: Q
D

= 6 -2/5 P







D

Hình 2.2

Cầu thị trường và cầu cá nhân
Q
P
P
Q
6

15
Đường cầu


16

Cầu của thị trường là tổng cầu cá nhân về hàng hóa dịch vụ cụ thể dùng để phân tích
phương thức vận hành của thị trường.
 cầu thị trường phụ thuộc vào các quyết định nhu cầu của người mua và phụ thuộc
vào sản lượng người mua.
Ví dụ: có biểu cầu về bánh mì của sinh viên A (SVA) và sinh viên B (SV B) như sau:

Bảng 2.2 Tính tổng cầu tiêu dùng:
P Q
D
của

SVA Q
D
của

SVB Q
D
( SVA + SVB)
0 8 10 18
5 6 7 13
10 4 5 9
15 2 3 5
20 0 1 1
Khi đó:
Đường cầu của SVA: Q
DA
= 8 -2/5P
Đường cầu của SVB: Q
DB
= 10 - 3/5 P
Đường cầu của SVA và SVB có dạng Q
D
= 18 - P
2.1.3 Sự vận động theo đường cầu và sự dịch chuyển của đường cầu
Khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố ảnh hưởng đến cầu đều làm cho lượng
cầu thay đổi ở mọi mức giá: nó làm thay đổi cầu. Chúng ta cần phân biệt sự thay đổi của

lượng cầu và sự thay đổi của cầu.
Lượng cầu tại mỗi mức giá đã cho biểu thị bằng một điểm trên đường cầu (điểm A
hoặc điểm B). Chúng ta thấy rằng sự thay đổi của giá tăng từ P
1
đến P
2
(P
1
< P
2
) dẫn
đến sự thay đổi tương ứng của lượng cầu sẽ giảm từ Q
1
đến Q
2
(Q
1
> Q
2
). Điều này gọi
là sự thay đổi của lượng cầu và được minh họa bằng sự vận động dọc theo đường cầu
(từ điểm A tới điểm B). Nếu giá cả hàng hóa giảm xuống và các yếu tố khác không đổi
thì sẽ có hiện tượng tăng lên của lượng cầu đối với hàng hóa đó và ngược lại. (hình 2.3)
Mỗi khi một yếu tố quyết định nhu cầu nào đó thay đổi, trừ giá cả hàng hóa đó thì
đường cầu sẽ dịch chuyển, như thu nhập, dân số, giá cả của hàng hóa thay thế, thị hiếu
(có thể tăng hay giảm). Ví dụ khi thu nhập tăng, dân số tăng, sự tăng lên của giá cả hàng
hóa thay thế sẽ làm cho cầu tăng lên do đó đường cầu dịch chuyển sang phải và ngược
lại. Do đó có thể nói bất kỳ sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cầu (ngoài yếu tố
giá) làm tăng lượng hàng hóa mà người mua muốn mua tại một mức giá nhất định cũng
làm dịch chuyển cầu sang phải và ngược lại. (hình 2.4)

Tóm lại: đường cầu cho thấy điều xảy ra với lượng cầu về một hàng hóa khi giá cả
của nó thay đổi và tất cả các yếu tố khác quyết định đến lượng cầu không đổi. Khi một
trong các yếu tố khác thay đổi thì đường cầu sẽ dịch chuyển



17

P
Q











Hình 2.4

Nhận xét:
- Nhu cầu tăng đường cầu dịch chuyển sang phải và ngược lại nhu cầu giảm đường cầu
dịch chuyển sang trái.
- Giá cả của hàng hóa thay thế thay đổi cũng sẽ ảnh hưởng đến sự dịch chuyển của
đường cầu (giá của hàng hóa thay thế tăng  nhu cầu hàng hóa thay thế giảm  nhu
cầu hàng hóa đó sẽ tăng, khi đó đường cầu dịch chuyển sang trái và ngược lại).
- Thu nhập tăng  nhu cầu tăng  đường cầu dịch chuyển sang phải và ngược lại).

- Thị hiếu kỳ vọng cũng làm đường cầu dịch chuyển sang phải hoặc sang trái.
2.2 Cung
2.2.1. Khái niệm:
Cung là số lượng hàng hóa mà người sản xuất muốn bán và có khả năng bán tại
các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định
P
Q
D
P
2
P
1
Q
2
Q
1
A
B

Hình 2.3
D
1
D
3
D
2


18


Lượng cung là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn
sàng bán ở mức giá đã cho trong một thời nhất định. Lượng cung tỉ lệ thuận với giá cả.
Biểu cung là bảng mô tả số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người bán có khả năng
bán và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời nhất định.
Quy luật cung:
Số lượng hàng hóa được cung ứng trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá
của nó tăng lên và ngược lại (các yếu tố khác không đổi). Quy luật cung phản ánh một
thực tế là khi giá tăng, động cơ sản xuất hàng hóa tăng lên. Cung cũng được biểu diễn
thông qua biểu cung và đồ thị cung.
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cung:
- Chính sách thuế: thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thuế có ảnh
hưởng đến đường cung của doanh nghiệp vì rằng thuế là chi phí mà doanh nghiệp phải
chịu. Khi thuế đánh vào hàng hóa thì đường cung dịch chuyển lên trên (sang bên trái).
- Công nghệ sản xuất: Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng quyết định tới năng suất
của các doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng quyết định vào đường cung. Công nghệ tiên
tiến làm tăng khả năng sản xuất và do đó làm dịch chuyển đường cung xuống dưới
(sang bên phải).
- Giá cả của các yếu tố sản xuất: Khi giá của các yếu tố đầu vào giảm, do đó giảm
giá thành tạo cơ hội tăng lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hướng sản xuất nhiều
hàng hóa đó và ngược lại. Giá của các yếu tố đầu vào tác động rất lớn với quyết định
cung của doanh nghiệp sẽ sản xuất nhiều hơn - cung tăng. Đường cung dịch chuyển ra
bên phải và ngược lại.
- Số lượng nhà sản xuất: Số lượng người sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến
lượng hàng hóa được sản xuất ra. Do đó ảnh hưởng này là ảnh hưởng thuận chiều.
Như vậy cung biểu diễn mong muốn và khả năng của người bán, chứ không biểu
hiện quá trình mua bán trên thực tế. Cung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như công nghệ
sản xuất, giá của hàng hóa liên quan trong sản xuất, giá của các yếu tố đầu vào, chính
sách thuế, số lượng người sản xuất Mối quan hệ giữa cung và các yếu tố đó được thể
hiện dưới dạng phương trình như sau:
);;;;;( CNPiNIPyPxfSx


(2.3)
Trong đó:
- S
x
- cung hàng hóa X;
- P
x
- giá của hàng hóa X;
- P
y
- giá của hàng hóa liên quan Y trong sản xuất;
- T - thuế;
- N - số người sản xuất;
- P
i
- giá của các yếu tố đầu vào;


19

- CN - công nghệ.
Biểu cung và đường cung
Đường cung có dạng:
dPcQ
S

(2.4)
Trong đó:
Q

S
: lượng cung ;
P : giá cả;
c, d là hằng số.




đường cung (S)





Hình 2.5

Ví dụ: Có biểu cung về doanh nghiệp sản xuất quần áo như sau:
Bảng 2.3: Số liệu cung của doanh nghiệp sản xuất quần áo
P Q
s
5 1
10 4
20 6
25 8
30 10
35 12

Đường cung có dạng : dPcQ
S


tại P = 5 Q
s
= 1 dc 51



P = 10 Q
s
= 4 dc 104



 c = - 2
d =3/5
Vậy đường cung có dạng: PQ
S
5
3
2 
Q
P


20

Đường cung thị trường bao gồm tất cả các cung về hàng hóa dịch vụ nào đó được
cung cấp trên thị trường. Tổng cung phụ thuộc vào các yếu tố của mức cung và số lượng
người tham gia cung ứng dịch vụ hàng hóa cho thị trường.
Ví dụ: Có hai doanh nghiệp A (DN A) và doanh nghiệp B (DN B) cùng sản xuất thép có
biểu cung như sau:

Bảng 2.4: Số liệu cung của doanh nghiệp sản xuất thép:
P Cung doanh
nghiệp A
(DNA)
Cung doanh
nghiệp B
(DNB)
Tổng cung
(cung DN A +
cung DN B)
4 3 5 8
6 5 7 12
8 7 9 16
10 9 11 20
12 11 13 24
14 13 15 28

Sự vận động dọc theo cung và sự dịch chuyển của cung
Một sự thay đổi của giá cũng thể hiện ở sự thay đổi của lượng cung, điều này chỉ
ra bằng sự vận động dọc theo đường cung (Khi giá tăng từ P
1
đến P
2
, theo quy luật cung
giá tăng cung sẽ tăng từ Q
1
đến Q
2
, trên đường cung điểm A sẽ di chuyển dọc theo
đương cung đến điểm B). Mối quan hệ của lượng cung với giá ở đây được xem xét

trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
P

P
2
B Q
S

P
1
A




Q
1
Q
2
Q
Hình 2.6
Một sự thay đổi của bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến đường cung ngoài yếu tố
giá sẽ làm thay đổi lượng cung ở mọi mức giá. Điều này được gọi là sự dịch chuyển của
đường cung (ví dụ từ S
1
tới S
2
hay S
1
tới S

3
).


21















Hình 2.7
Nhận xét: khi có bất kỳ sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cung (giá cả, giá
các yếu tố đầu vào, công nghệ, kỳ vọng và số lượng) đều làm cho đường cung dịch
chuyển sang phải hay trái.





D



Hình 2.8

2.2.3 Cân bằng thị trường:
Khái niệm:
Cân bằng thị trường là một tình huống trong đó không có sức ép làm cho giá và
sản lượng thay đổi.
Cân bằng thị trường xuất hiện tại mức giá tại đó lượng cung và lượng cầu bằng
nhau. Mức giá đó gọi là giá cân bằng; sản lượng đó gọi là sản lượng cân bằng, khi đó:
Q
S
= Q
D
hoặc P
D
= P
S
.
Tuy nhiên mức giá và sản lượng cân bằng không nhất thiết phải giống mức giá và
sản lượng bán ra. Giá cân bằng ký hiệu là P
E
, sản lượng cân bằng là Q
E
.
Q
Q
P

S

1
S
2
P
S
1
S
2
S
3


22


Xác định điểm cân bằng:
Khi các nhân tố sau đây thay đổi, đường cung hoặc đường cầu sẽ dịch chuyển
hình thành nên giá cân bằng mới và sản lượng cân bằng mới. Trạng thái cân bằng là
điểm mà tại đó đường cung và đường cầu giao nhau. Mức giá tại điểm này là giá cân
bằng và mức sản lượng tại điểm này là sản lượng cân bằng.
- Giá của các hàng hóa hay thế hoặc bổ sung thay đổi;
- Thu nhập của người tiêu dùng thay đổi;
- Thị hiếu và sự ưu tiên của người tiêu dùng thay đổi;
- Công nghệ sản xuất thay đổi;
- Các chi phí của đầu vào thay đổi;
- Chính sách của Chính phủ thay đổi.
Đồ thị:
S





D



Hình 2.9
Ví dụ: Kết hợp của cung và cầu
Xác định điểm cân bằng:
P
cb
= ? và Q
cb
=?
Biểu diễn bằng đồ thị
Bảng 4.5: Số liệu lượng cung và cầu
P Lượng cầu Lượng cung
2 12 0
3 10 2
4 8 4
5 6 6
6 4 8

Bài giải:
Đường cầu có dạng: Q
D
= a – bP
Q
P


P
E
Q
E



23

tại P = 2 thì Q = 12: 12 = a – 2b (1)
tại P = 3 thì Q = 10: 10 = a – 3b (2)
từ 1 & 2 ta có a = 16 và b = 2
khi đó đường cầu có dạng : Q
D
= 16 – 2P
Đường cung có dạng Q
S
= a + bP
tại P = 2 thì Q = 0: 0 = a + 2b (3)
tại P = 3 thì Q = 2: 2 = a + 3b (4)
từ 3 & 4 ta có a = -4 và b = 2
khi đó đường cầu có dạng : Q
S
= -4 + 2P
điểm cân bằng xảy ra khi Q
D
= Q
S
hay 16 – 2P = -4 + 2P
P

o
= 5 & Q
o
= 6
Trạng thái dư thừa và thiếu hụt của thị trường:
Khi giá trên thị trường khác với giá cân bằng (P
E
) sẽ xuất hiện trạng thái dư thừa
hoặc thiếu hụt.
Nếu giá thị trường P
1
> P
E
xuất hiện dư thừa hàng hóa (Q
S1
– Q
D1
), xuất hiện sức
ép làm cho giá giảm.

P


S


P
1

P

e


D


Q
D1
Q
e
Q
S1
Q
Hình 2.10
Nếu giá thị trường P
2
< P
E
xuất hiện thiếu hụt hàng hóa (Q
D2
– Q
S2
), xuất hiện sức
ép làm cho giá tăng.
Trong cả hai trường hợp trên giá cả có xu hướng quay trở về trạng thái cân bằng
(P
E
). Trong cả hai trường hợp đó, lượng giao dịch trên thị trường đều nhỏ hơn lượng cân
bằng (Q
e

)




24


P




S



P
e


P
2


D

Q
S2
Q

e
Q
D1
Q
Hình 2.11
2.2.4 Kiểm soát giá:
Chính phủ thường can thiệp vào thị trường thông qua việc định ra các mức giá trần
(giá cao nhất) và giá sàn (giá thấp nhất). Tuy nhiên, việc can thiệp này thường làm giảm
tính hiệu quả của thị trường.
a) Giá trần: (ceiling price) Chính phủ thường quy định giá cao nhất đối với một số hàng
hóa nhằm mục đích bảo hộ một nhóm người nhất định. Ví dụ giá thuê nhà cho sinh
viên, giá gạo và một số nhu yếu phẩm khác trong thời bao cấp. Mức giá trần thường
thấp hơn so với giá cân bằng và xuất hiện hiện tượng thiếu hụt hàng hóa. Giá thấp tác
động tiêu cực tới động cơ kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều này thể rất rõ ở chất
lượng giảm sút của hàng hóa.
b) Giá sàn: (floor price): Chính phủ của nhiều nước thường đặt ra các mức giá tối thiểu
đối với một số hàng hóa. Ví dụ như các quy định về mức tiền công tối thiểu. Việc đặt
mức giá tối thiểu gây ra hiện tượng dư thừa hàng hóa. Trong thị trường lao động sự dư
thừa của lao động là thất nghiệp.
Như vậy, việc can thiệp của Chính phủ vào giá cả thường giảm tính hiệu quả của
thị trường. Hiệu quả của thị trường được biểu hiện bằng lợi ích ròng của xã hội (NSB –
Net Social Benefit). Lợi ích xã hội bao gồm hai bộ phận, đó là thặng dư tiêu dùng (CS)
và thặng dư sản xuất (PS).
Thặng dư tiêu dùng (CS) phản ánh ích lợi mà người mua nhận được khi tham gia
vào một thị trường, và đó là phần chênh lệch giữa sự sẵn sàng thanh toán và giá thị


25

trường mà người tiêu dùng nhận được (nghĩa là thặng dư tiêu dùng là số tiền mà người

tiêu dùng sẵn sàng trả cho một hàng hóa nào đó trừ đi số tiền mà họ thực sự trả cho nó).
Khi đó thặng dư tiêu dùng mà tất cả người mua trên thị trường về một hàng hóa hay
dịch vụ nhận được tính bằng phần diện tích nằm dưới đường cầu và trên giá cả.
Thặng dư tiêu dùng = giá trị đối với người mua – số tiền người mua trả
Hình 2.11
Thặng dư sản xuất (PS) là xem xét những lợi ích mà người bán nhận được từ sự
tham gia vào một thị trường, là phần chênh lệch giữa giá bán thực tế và giá mà doanh
nghiệp sẵn sàng bán. Như vậy giống như tiêu dùng thì thặng dư của nhà sản xuất có mối
quan hệ mật thiết với đường cung, khi đó phần diện tích nằm dưới đường giá cả và trên
đường cung phản ánh thặng dư của nhà sản xuất.




P
S
P
1
PS
Q
Hình 2.12
P
Q
P
1
D
CS

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×