Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.38 KB, 30 trang )

“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành
1. Ý nghĩa văn bản:
Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói
riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng
định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là
phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.
2. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng Xô-man” hay “Tnú”- nhân vật chính của
truyện nhưng nếu như vậy truyện sẽ mất đi tính khái quát và gợi mở.
“Rừng xà nu”- Tên tác phẩm chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ
đề của tác phẩm.
“Rừng xà nu” gợi khí vị khó quên của núi rừng Tây Nguyên- Sức sống bất diệt của cây và
tinh thần bất khuất của con người.
Như vậy, nhan đề “Rừng xà nu” vừa mang ý nghĩa thực (những đặc điểm và sức sống bất
diệt của loài cây xà nu) vừa mang ý nghĩa tượng trưng (con người làng Xô Man kiên cường, bất
khuất). Hai ý nghĩa này hòa quyện vừa làm nổi bật hình tượng sinh động của cây xà nu vừa đưa lại
không khí Tây nguyên đậm đà cho tác phẩm.
3. Đề tham khảo:
Đề 1: Phân tích ý nghĩa hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà
nu”.
(Ý nghĩa tượng trưng: cây xà nu có sức chịu đựng ghê gớm và sức sống mãnh liệt tượng
trưng cho sức sống của dân làng Xô Man và nhân dân Tây nguyên bất khuất; cây xà nu ham ánh
nắng mặt trời, phóng lên rất nhanh…. Tượng trưng cho lòng khát khao tự do, luôn hướng về cuộc
sống tự do của người dân làng Xô Man).
* Tham khảo :
Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình tượng cây xà nu - rừng xà nu nổi
bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng.
+ Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên:
- Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền
đất Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh của cây xà nu à Cây xà nu, rừng
xà nu như chính dân làng Xôman, như người dân Tây Nguyên nơi núi rừng trùng điệp.


- Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng
ngày, trong kí ức của người Xô man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng Xô man
trước đạn pháo giặc. .
+ Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong kháng chiến
chống Mỹ.
- Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất
mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng
bố khốc liệt. .
- Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh
mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. .
- Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc,
phóng khoáng yêu cuộc sống tự do.
- Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là thể
hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống
vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man (Chú ý kết cấu vòng tròn : Mở đầu, kết thúc là hình
ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách)
- Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu
trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ. (0,5 điểm)
+ Kết luận:
- Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô
man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn.
- Kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
Đề 2: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thiên truyện “Rừng xà nu”.
Nhân vật chia làm hai loại:
- Chính diện: người dân làng Xô Man và cán bộ cách mạng bao gồm: Cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,
anh Quyết, bé Heng, anh Brôi.
- Phản diện: bọn giặc mà tiêu biểu nhất là thằng Dục.
Cách xây dựng nhân vật như thế có hai ý nghĩa:
- Một là: tạo nên thế tương phản đối chọi giữa hai tuyến nhân vật như hai lực lượng tiêu biểu

cho chính nghĩa và phi nghĩa, sự tàn bạo và lòng nhân ái, sự hủy diệt và sự sống bất diệt
- Hai là: Lớp nhân vật chính diện rất nhiều thế hệ, sát cánh bên nhau, nối tiếp nhau hết lớp
này đến lớp khác tương ứng với hình ảnh rừng xà nu trùng trùng điệp điệp tràn đầy sức sống…
Cách xây dựng nhân vật như trên đã làm nổi bật được chủ đề tư tưởng của truyện.
Nổi bật lên trong tập thể nhân vật ấy chính là nhân vật Tnú, một nhân vật độc đáo giàu chất
sử thi với những phẩm chất tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng. Đó là một con người:
- Gan góc, táo bạo, trung thực, biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để quyết tâm ra
đi trả thù cho quê hương và gia đình.
- Có tinh thần kỉ luật cao.
- Giàu lòng yêu thương đối với mọi người…
Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm, lừng lững như cây cổ thụ,
tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của dân tộc Tây Nguyên đến vẻ
đẹp mảnh mai, hiền diệu nhưng đầy cứng rắn, kiên quyết của Dít như một hậu thân trự tiếp của Mai;
bé Heng như cây xà nu mới lớn, tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc thấy hình ảnh của cây xà
nu vạm vỡ tràn đầy sức sống của ngày mai.
Đề 3: Phân tích tính chất sử thi đậm đà trong thiên truyện “Rừng xà nu”.
* Gợi ý làm bài:
Trước hết cần tìm hiểu khái niệm tính sử thi trong tác phẩm văn học, sau đó phân tích cụ thể
các phương diện như: đề tài, chủ đề, hệ thống nhân vật, bức tranh thiên nhiên, ngôn ngữ trần thuật…
để minh họa cho tính chất sử thi đã nêu.
Thiên truyện mang đậm tính sử thi điều đó thể hiện ở:
- Về đề tài- chủ đề: truyện viết về cuộc đấu tranh cách mạng, vùng lên không chịu sống qùy
của buông làng, nhưng nhằm ca ngợi và nêu lên sức mạnh quật khở, tinh thần và ý chí không gì dập
tắt nổi của một Tây Nguyên bất khuất.
- Hình tượng nhân vật ở đây cũng được hai thác và xây dựng bằng những tính cách và phẩm
chất kì vĩ, mạnh mẽ. Đó là cụ Mết, sừng sững uy nghi như một cây đại thụ: Tnú và tập thể dân làng
Xô Man đoàn kết một lòng, giàu dũng khí. Họ là những người tiêu biểu cho cộng đồng, sống chết vì
cộng đồng dân tộc.
- Bức tranh thiên nhiên ở đây cũng được mô tả thật hùng vĩ, hoành tráng. Đó là hình ảnh
rừng xà nu bạt ngàn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, những cảnh “suốt đêm nghe

cả rừng Xô Man ào ào rung động, vì lửa cháy khắp rừng…”
- Ngôn ngữ “Rừng xà nu” được viết với một giọng say mê mà rất trang trọng, tạo nên chất
thơ, hùng tráng, dào dạt.
Đề 4: Phân tích hình tượng nhân dân làng Xô Man : Được miêu tả tương ứng với rừng
cây xà nu qua nhiều thế hệ, thể hiện sự nối tiếp và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong
sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
a) Cụ Mết: Là thế hệ đi trước, tham gia chống giặc từ thời chống Pháp
- Là cây xà nu đại thụ của làng Xô man (được miêu tả qua dáng vẻ, cách nói, bản lĩnh, tấm
lòng yêu thương đối với dân làng, đối với quê hương…)
à Hình ảnh biểu tượng biểu tượng cho sức mạnh tinh thần có tính truyền thống, cội nguồn
của các dân tộc Tây Nguyên.
- Là linh hồn của cuộc chiến đấu, là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với Cách mạng ;
vững vàng, gan góc trong đấu tranh ; yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai ; yêu qêu hương, tự hào
về quê hương của mình…)
à Cụ Mết tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc.
b) Nhân vật Tnú: Được tác giả tập trung khắc họa tính cách lẫn số phận, mang ý nghĩa tiêu biểu
cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên.
* Số phận:
- Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào sự cưu mang đùm bọc của dân làng
- Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xô man:
· Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man.
· Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể- hậu quả của những đòn tra tấn của kẻ thù: tấm
lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón.
* Phẩm chất:
- Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với Cách mạng (giặc khủng bố dã
man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng
cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, bị tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng Cộng sản ở đây…).
Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô man bình tĩnh vững vàng chống Mỹ Diệm.
- Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết
là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh và nhịp điệu sinh hoạt của

làng ; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…).
- Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương
và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu
van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay
mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải
phóng quê hương…).
- Có tinh thần kỷ luật cao : Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới
dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại
một đêm rồi ra đi…
* Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện
lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa: Cầm
phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông
ra cứu vợ con – Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành muời ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ
thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương…).
Tóm lại:
- Tnú là nhân vật có tính chất sử thi: số phận và phẩm chất của anh tiêu biểu cho con người
Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung.
- Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi.
- Làm phong phú thêm chân dung con người Vn anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ.
c) Dít:
Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng-
những cây xà nu đã trưởng thành.
- Phẩm chất gan dạ, dũng cảm.
- Tôn trọng kỉ luật.
d) Bé Heng:
Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh giặc,
rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng.
Mai, Dít, bé Heng…là (sự dũng cảm của Mai, sự bình tĩnh, vững vàng của Dít và sự lạc quan trong
sáng của bé Heng).
Tóm lại: Các thế hệ nhân dân Xôman tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. Nhà

văn đã xây dựng được hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ.
Đề 5: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành.
Cụ Mết: Là cội nguồn, là lịch sử, “là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn cho
đến hôm nay”.
Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước như xưa, râu
dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Một
con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi.
Ngôn ngữ: cách nói của cụ cũng khác lạ (không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói
được). Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cu mang
đùm bọc, tình nghĩa.
Cụ Mết là khuôn mẫu của ngời già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng,
tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo”.
Tnú: Cuộc đời Tnú đã phải trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ. Anh đã được hoàn cảnh
hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý.
Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung
thực.Dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng.
Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng.
Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù.
Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại
bạo lực phản cách mạng”.
Dít: Có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng. Gan góc, dũng cảm.
Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp.
Phác hoạ thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã làm nên thành
công của Rừng xà nu. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng, đẹp đẽ của các thế hệ nhân
dân, tượng trng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng Xô Man.
Thông qua hệ thống nhân vật đó, tác giả đã thể hiện sinh động và nghệ thuật quy luật: có áp bức có
đấu tranh, một chân lí của cách mạng miền Nam: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Đề 6 : Phân tích câu nói của cụ già Mết:“Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi
lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình
phải cầm giáo !”
a)Ý nghĩa của câu nói:
Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí
Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của quân thù.
b)Sự thể hiện qua hình tượng:
Sẽ ra sao nếu kẻ thù đã cầm súng mà ta cha kịp cầm lấy giáo ?
Khi đó ta vẫn có thể có lí tưởng cách mạng, chí trung kiên, lòng căm thù, sức mạnh và tinh
thần dũng cảm, như Tnú đã từng có.
Nhưng ta sẽ không thể bảo vệ được hạnh phúc, tình yêu. Cũng như Tnú đã không thể bảo vệ
được mẹ con Mai, và bàn tay anh còn bị kẻ thù dùng nhựa xà nu thiêu cháy.
Và sẽ ra sao khi ta cầm vũ khí đứng lên:
Cuộc khởi nghĩa hùng tráng sẽ thắng lợi. Như làng Xô man đã chiến thắng trong tiếng chiêng
vang trời và ánh lửa. Sự sống sẽ bảo tồn và phát triển. Mai và đứa con như sẽ tái sinh trong Dít và bé
Heng.
Kẻ thù sẽ phải đền tội ác. Tnú sẽ có thể diệt giặc - tên đồn trưởng - bằng chính bàn tay đã bị
kẻ thù đốt cháy.
c) Giá trị
Đây là câu chuyện của một người, một làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh Rừng xà nu được viết
ra, thì đó cũng là câu chuyện của một thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng. Và có thể còn lâu
bền, lớn lao hơn thế nữa.
Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng
giọng nói thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức.

NGUYÊN NGỌC: VỀ TRUYỆN NGẮN RỪNG XÀ NU
"Tôi được biết ông cụ Mết (nhân vật sau này của Rừng xà nu) cùng thời
gian tôi quen biết anh Núp, nghĩa là từ hồi chiến tranh chống Pháp. Hồi bấy giờ ở Tây
Nguyên có hai làng kháng chiến nổi tiếng: làng Xi Tơ (tức là Kông Hoa) của anh Núp
ở Gia Lai, và làng Xóp Dùi của ông Mết ở bắc Kon Tum. Tôi nhớ hồi ấy người ta

cũng đã có tính đến chuyện tuyên dương cho ông Mết, cũng như ông Núp. Nhưng rồi
do một quan niệm giai cấp cứng nhắc ấu trĩ hồi bấy giờ , người ta đã thôi việc phong
tặng danh hiệu cho ông Mết vì ông là "già làng", mà "già làng" hồi ấy được coi là
đồng nghĩa với "tầng lớp trên", tức là một thứ giai cấp bóc lột ở Tây Nguyên
Tôi ra Bắc, và viết Đất nước đứng lên. Ở Đất nước đứng lên, trong các
hình tượng Núp, Bok Pak, Bok Sung kì thực đã có một phần ông Mết " của tôi"
trong đó và tôi yên trí như thế là tôi đã "dùng" hết ông Mết của tôi rồi. Tôi không
hề ngờ hề nghĩ rằng còn có một ngày nào đó tôi còn trở lại với cái "vốn" ông Mết của
tôi nữa. Suốt gần chục năm tôi không hề ngờ ở một nơi nào đó rất sâu trong tôi vẫn
còn một ông Mết.
Sau 7 năm ở miền Bắc, năm 1962 tôi trở về miền Nam, trở về Tây
Nguyên. Trở về và chưa hề nghĩ đến chuyện viết lách gì cả. Làm rẫy, đi phát động
quần chúng đánh giặc Đâu khoảng 1963, một chuyến đi công tác gặp giặc càn, bị
lạc đường bị bỏ đói, tôi tìm vào làng đồng bào Xê Đăng kiếm ăn. Rất tình cờ, đó
chính là làng anh Đề. Anh Đề, lúc bấy giờ là một thanh niên khoảng gần 30 tuổi, là
người đứng đầu làng này. Suốt mấy đêm liền, bên bếp lửa nhà sàn đốt suốt đêm để
chống rét bằng củi xà nu, anh Đề kể cho tôi nghe chuyện hồi 1959, chính anh đã cùng
10 trai tráng làng này dùng dao rựa, giáo mác giết sạch một tiểu đội lính Diệm, bắt
đầu cuộc chiến đấu vũ trang ở đây ( )
Cho đến đầu năm 1965, trên đường từ chiến trường ngoại ô thị xã Quy
Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định) trở về cơ quan bộ tư lệnh quân khu 5 bấy giờ đóng ở
rặng núi Răng Cưa, giáp ranh hai huyện Trà Mi (Quảng Nam) và Trà Bồng (Quảng
Ngãi), tình cờ tôi được chứng kiến cuộc đổ quân ồ ạt hung dữ chưa từng thấy của mấy
vạn thuỷ quân lục chiến Mĩ vào bãi biển về sau này sẽ được gọi là bãi biển Chu Lai.
Tôi còn nhớ rất rõ ngày hôm ấy: ngày 8 tháng 3 năm 1965. Số phận đã cho tôi cái may
mắn chứng kiến một sự kiện lịch sử: cuộc đổ quân đầu tiên của Mĩ, ngaỳ bắt đầu cuộc
chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta.
Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt,
hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ.
Chúng tôi làm việc ngày đêm. Tôi không nhớ thật rõ anh bạn nào của tôi,

anh Nguyễn Chí Trung hay anh Thu Bồn bảo tôi:
- Viết đi ! Viết một bài "Hịch tướng sĩ" của thời đánh Mĩ !
Chúng tôi lao vào viết. Mỗi người một góc lều trong rừng, ngồi trên võng đốt đuốc
lên mà viết (không có dầu thắp, ban ngày thì còn bận đi làm rẫy). Thu Bồn và Phan
Đình Côn (hi sinh cuối năm 1965) làm thơ. Nguyễn Chí Trung viết truyện ngắn. Còn
tôi, theo gợi ý của bạn, tôi viết "hịch" của tôi - tuỳ bút Đường chúng ta đi - chỉ trong
một đêm.
Viết xong, tự mình cầm chạy đi mà in (ở rừng, tất nhiên), hì hục quay máy
(lúc bấy giờ tôi đã xin được từ miền Bắc một máy in năm Osaka nặng trịch). Chúng
tôi viết và in số tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ như vậy đó.
In xong, tung đi ngay, phát ngay cho bộ đội đang lao lên đánh Mĩ. Đó là những ngày
Núi Thành, Vạn Tường, Bình Đông sôi sục.
Làm xong tạp chí số 1, chúng tôi bắt tay làm tiếp số 2. Anh Nguyễn Chí Trung bảo:
- Số 1 cậu viết tuỳ bút rồi, số này phải viết truyện ngắn.
Ừ thì truyện ngắn.
Tôi vừa đi một chuyến phát động quần chúng và đánh nhau ở Tuy Phước, Quy Nhơn,
Bình Định về, còn đầy ấn tượng đồng bằng. (Phải nói để các bạn biết rằng ngày ấy sau
mấy năm lẩn quẩn tù túng ở rừng, toàn núi cao, được lao xuống giải phóng đồng bằng,
vui như hội). Tôi lại treo võng, đốt đuốc ngồi nhất định viết một truyện ngắn về đồng
bằng. Bao nhiêu cảm xúc, ấn tượng còn nóng hổi Thật không ngờ, chong đuốc ngồi
suốt mấy đêm ròng, bí rị, viết không nổi một dòng ! Chữ viết ra cứ nằm bẹp trên trang
giấy, nhất định không chiụ đứng dậy. Chỉ có mặt phẳng bẹt không sao tạo được không
gian, không gian ba chiều
Buồn quá, xấu hổ nữa, tôi nói với Nguyễn Chí Trung:
- Không viết nổi truyện ngắn đồng bằng ông ạ Hay là mình viết một truyện
miền núi nhé.
- Miền núi à? Miền núi thì chán chết. Bây giờ đang cần đồng bằng nhưng mà,
thôi, thì tạm một cái miền núi cũng được
Và tôi viết Rừng xà nu.
Bắt đầu như thế nào?

Không, quả thật bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến
dưới ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.
Hồi tháng 5 năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi,
Nguyễn Thi về Nam Bộ (bấy giờ mật danh gọi là "Ông Cụ"), tôi rẽ xuống khu 5 (mật
danh gọi " Bác Ân"). Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến đêm chia tay mỗi
người về chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào.
Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.
Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao
thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh
nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời
sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận.

Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá
dưới mặt đất ngả lưng êm ru Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm
chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy. Cùng nhau ôn lại cả cuộc đời mình, và
nói với nhau về cuộc chiến đấu đang chờ mình trong kia
Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột
đến với tôi, chảy ngay ra dưới ngòi bút tôi?
Vì nhớ Nguyễn Thi chăng? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy
giờ, bước vào cuộc đời mình - mà tôi đã cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ
dưới rừng xà nu tây Thừa Thiên - chợt sống dậy chăng? Hay vì cái không khí "hịch
tướng sĩ" đánh Mĩ hừng hực

bấy giờ rất tráng ca, rất "xà nu' chăng? Tôi không nhớ
và biết rõ.
Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, đã
có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí của không gian
ấy.
Theo tôi viết, đặc biệt truyện ngắn, tạo và nhập ngay được vào không khí và không
gian ba chiều ngay từ đầu là quan trọng nhất. Bởi vì truyện ngắn ngắn quá, không

cho phép dông dài cà kê lòng vòng. Ngay câu đầu không tạo được cái ấy coi như vứt
đi. Mọi sự sau đó sẽ cứ rời rạc, nhạt phèo.
Có được câu đầu rồi: Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc bỗng tất cả như bật
dậy, mở ra. Và thật lạ đối với chính tôi, tôi biết rất rõ rằng, chắc chắn rằng "làng" -
cái "làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc" ấy - chính là cái làng anh Đề ! Tôi biết và
thấy rõ.
Và tôi bỗng biết luôn, cũng rõ ràng như vậy, tôi sẽ viết chuyện về cuộc khởi nghĩa
của anh Đề, cuộc đời, số phận anh Đề.
Tôi có ngay cảm giác phải tìm một tên khác cho anh Đề. Tên Đề nó Kinh quá, người
Kinh quá. Tnú, tôi gọi anh bằng tên ấy. Nó "không khí" hơn nhiều.
Khi đã biết tôi sẽ viết chuyện anh Đề - Tnú - tôi thấy yên tâm và bình tĩnh. Tôi chưa
hình dung câu chuyện, cốt truyện sẽ diễn biến cụ thể ra sao, nhưng tôi đã thấy rõ, cái
truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu - (mà tôi sẽ ra sức tả một cách
hết sức tạo hình, như chạm nổi lên như vậy, có không gian như tượng tròn và có cả
mùi vị có thể ngửi thấy được) - và truyện sẽ kết thúc cũng bằng một cảnh rừng xà nu,
như một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận, nghĩa là "bố cục" cơ bản đã thấy được
rồi Sau đấy mọi sự bỗng trở nên rõ ràng, dễ dàng đến kì lạ. Chị Dít "đến" - như là
tất yếu vậy (tôi muốn giữ nguyên tên thật của chị - nó rất tạo không khí, đối với tôi).
Nhưng tôi muốn Dít sẽ là mối tình sau của Tnú, một mối tình sẽ lờ mờ mà chắc chắn
hiện lên ở cuối truyện. Vậy thì có phải Mai, chị của Dít. Mai đối với tôi chẳng khó
khăn gì. Tôi đã "có" hàng trăm cô gái Tây Nguyên (và không chỉ Tây Nguyên) để hình
dung và dựng lên một cô Mai. Và cái gì để dẫn đến cuộc bùng dậy ghê gớm như vậy
của Tnú (diệt sạch cả một tiểu đội giặc gần như bằng tay không, những năm tháng
chưa hề có tiếng súng cách mạng ấy )? Tức phải có một nỗi đau riêng bức bách dữ
dội, bật ra từ nỗi đau chung của làng xóm, dân tộc

: đứa con bị đánh chết tàn bạo, Mai
gục xuống, ngay trước mắt Tnú. Chi tiết ấy đến một cách tất yếu.
Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội nguồn. Là Tây
Nguyên của thời




Đất nước đứng lên



trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao
trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn,
sành sỏi và tự giác hơn của các thế hệ sau.
Có lẽ cũng từ đó mà thằng bé Heng. Nó sẽ còn đi tới đâu, chưa ai lường được
Tất cả trở nên dễ dàng đến ngạc nhiên đối với tôi. Tôi hình dung ra, thấy hiển hiện ra
tất cả. Các chi tiết tự nó đến: các bà cụ già lụm cụm bò từ trên thang nhà sàn xuống,
các cô gái lấy nước ở vòi nước đầu làng thân yêu và thẹn thùng vác ống bươm đứng
tránh ra một bên cho Tnú rửa mặt, tắm mình trong vòi nước làng quê cả đến tiếng
nước lanh tanh trong đêm khuya, cả đến lùm khói quyện lên từ chiếc ống điếu vồ của
cụ Mết, cả cái lối Dít xem xét kiểm tra nghiêm khắc và thương yêu từ giấy phép của
Tnú, cả mười ngọn lửa xà nu cháy giần giật trên mười đầu ngón tay đau đớn của
Tnú Tất cả, tôi không phải "bịa" thêm gì cả, tôi thấy rõ hết. Mặc dầu tất cả đây
hoàn toàn là một câu chuyện bịa. Mà như thật. Với tôi, nó hoàn toàn có thật.
Cách sắp xếp các lớp thời gian trong truyện, xen kẽ, đan quyện, những mạch nối
cũng đến dễ dàng và tự nhiên, như tất nó phải vậy.
Rừng xà nu



là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như
cả một đời.

Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ

và hạnh phúc trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì
khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ".
Chất sử thi qua hai tác phẩm: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành và
Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi
Ra đời trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ gian khổ, ác liệt nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc , văn học 1945-1975 là nền văn học
của chủ nghĩa yêu nước. Mỗi nhà văn sáng tác trong giai đoạn này phải là một chiến sĩ trên mặt trận
văn hóa, dùng ngòi bút của mình để ngợi ca cổ vũ cuộc kháng chiến của toàn dân tộc và văn học trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, góp phần vào thắng lợi vĩ
đại của dân tộc. Do vậy văn học giai đoạn này là tiếng nói chung của cả cộng đồng dân tộc trước thử
thách quyết liệt : Tổ quốc còn hay mất; độc lập tự do hay là nô lệ. Các tác phẩm trong văn học ra đời
trong giai đoạn này hầu hết đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn chính là từ
sự chi phối của thời đại. Nhà văn Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi chính là cũng vậy, họ cùng
ngợi ca những con người anh hùng nhưng không ai giống ai, mỗi nhà văn lại có một lối khắc họa
nhân vật riêng và chúng ta biết đến cả hai như những cây bút đóng góp tích cực vào nền văn học
phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Có thể nói “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành hay
“Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đều là những tác phẩm xuất sắc mang đậm khuynh
hướng sử thi và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.
Hoà trong dòng chảy văn học dân tộc, khuynh hướng sử thi là một đặc điểm tiêu biểu
làm nên giá trị đặc sắc cho nhiều mảng tác phẩm. Từ những thi phẩm gắn bó cùng thời đại như: Việt
Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) đến những áng văn
hiện thực như: Đất (Anh Đức), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Đất nước đứng lên (Nguyễn
Trung Thành) đều mang dáng dấp, đặc trưng tiêu biểu. Và nhìn chung, nội dung mà tác phẩm
mang khuynh hướng sử thi đề cập thường liên quan đến số phận, vận mệnh cộng đồng; nhân vật
trung tâm tiêu biểu cho phẩm chất, khát vọng của cả cộng đồng và được khắc hoạ theo lối lí tưởng
hoá trong không gian nghệ thuật hoành tráng.
Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, sự chi phối của thời đại luôn có ảnh hưởng sâu
rộng đến trào lưu, quan điểm văn chương, Đặc biệt, nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là
một sự chuyển mình hòa theo dòng chảy lịch sử với hai cuộc chiến tranh vệ quốc vô cùng cam go và
ác liệt. Giữa bối cảnh lịch sử đầy gian khổ ấy, văn học không thể đứng bên lề sự chi phối tất yếu của

thời đại. Chính vì vậy, chủ nghĩa cá nhân ở giai đoạn này đã lùi lại để cho cái ta chung hòa cùng
cuộc chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Văn học trong giai đoạn này đóng vai trò quan trọng là một thứ
vũ khí phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu:
Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.
(Sóng Hồng)
Gánh trên vai trách nhiệm và sứ mệnh thiêng liêng, trọng đại đối với vận mệnh dân tộc,
nền văn học của chủ nghĩa yêu nước mang đậm khuynh hướng sử thi trong nhiều thể loại với nhiều
tác phẩm. Tác phẩm mang khuynh hướng sử thi trong giai đoạn này thường có nội dung đề cập đến
sự kiện mang tầm lịch sử, gắn với số phận của toàn dân tộc. Nhân vật trung tâm ở đây là những con
người gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng
đồng – trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại. Với người cầm bút, cũng nhân danh
cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi. Trên phương diện
nghệ thuật, khuynh hướng sử thi thể hiện ở cách xây dựng nhân vật mang tầm vóc, kích cỡ sử thi,
được đặt trong sự liên tưởng, so sánh theo lối thi vị hóa, lí tưởng hóa. Đặc biệt, không gian nghệ
thuật của tác phẩm gợi nên tất cả sự trang nghiêm, hoành tráng. Nhìn chung, khuynh hướng sử thi
của văn học giai đoạn 1945-1975 là sự tiếp nối và phát triển mạnh mẽ khuynh hướng sử thi trong
văn học dân tộc nói chung giữa bối cảnh lịch sử của hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mĩ cứu
nước.
“Rừng xà nu” được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến
tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta. Đó là những ngày sôi sục, quyết liệt, hào hùng:
dân tộc ta bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với đế quốc Mỹ. Tuy kể về những sự kiện xảy
ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời đại và hiện thực
được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện của làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất
nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử, và “ Rừng xà nu” như một biểu tượng của tinh thần bất
khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào cả nước nói chung.
Hình tượng lớn bao trùm tác phẩm là hình tượng những cây xà nu, rừng xà nu. Đó là nguồn mạch
cảm hứng dạt dào, gợi nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước, của nhân dân. Nếu như truyện
ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản trường ca bất tận, thì hình ảnh rừng xà nu
vừa là khúc nhạc dạt dào, vừa là âm nền cho mọi sự biến hoá về tiết tấu, vừa là cái vĩ thanh láy lại ở

cuối truyện gợi âm hưởng vang vọng trong lòng bạn đọc. Giữa bản nhạc đó, xà nu như một tiết tấu
trữ tình xen lẫn vào từng khuôn, từng cung bậc. Xà nu gắn bó với cuộc sống tự ngàn đời của dân
làng Xô Man: ngọn khói xà nu cay xè mắt bao thế hệ con người, tấm phên có phết nhựa xà nu gắn
liền với bao ngôi nhà, ngọn đuốc xà nu góp mặt trong từng góc bếp cho đến buổi họp nhà ưng Xà
nu gắn bó, hoà nhập, ăn sâu vào tiềm thức con người. Xà nu trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phẩm
chất và số phận của con người Tây Nguyên.
Xà nu hiện lên với một vẻ đẹp xanh rờn hùng vĩ – “đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm
mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Miêu tả xà nu, Nguyễn
Trung Thành chưa bao giờ miêu tả một thân cây riêng lẻ mà luôn có ý thức đặt nó bên cạnh cộng
đồng những cây xà nu khác, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp của sự đông đảo, rộng lớn và hùng vĩ.
Những cánh rừng xà nu tít tắp, ngút ngàn, chiếm lĩnh tất cả mảnh đất ngọn đồi cũng như tâm tư tình
cảm của con người Tây Nguyên. Cũng giống như con người Tây Nguyên tự bao đời, những cây xà
nu lớn nhỏ khác nhau nhưng đều mang một vẻ đẹp khỏe khoắn và hoang sơ của rừng núi – “ ấy là
một thứ cây hùng vĩ mà cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, ứa nhựa, tán lá vừa
thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng
cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận ”. Và đáng quý hơn, bên trong cái vẻ đẹp man dại đó là một
sức sống tràn trề, mãnh liệt. Dưới nòng đại bác, “cả cánh rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào
không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngay nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ
vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen
và đặc quyện thành từng cục máu lớn ”. Tưởng chừng dưới sức phá huỷ khủng khiếp của bom đạn,
rừng xà nu có nguy cơ tàn lụi, nhưng không “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây
con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Thế mới biết cuộc sống thật
là kỳ diệu, cuộc sống trên mảnh đất Tây Nguyên ấy vẫn cứ tiếp diễn, vẫn cứ sinh sôi, nảy nở như
thách thức sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó là một sức sống bất diệt, mà mỗi thân cây xà nu kiên
cường, bất khuất là một mắc xích không thể tách rời. Cũng như mỗi con người nơi đây, luôn đoàn
kết, đồng lòng để đối mặt với kẻ thù hiểm ác. Họ đã sống và chiến đấu kiên cường, bao lớp người đã
ngã xuống, thế hệ sau vẫn tiếp tục. Họ kết thành một tập thể nhân dân anh hùng hiên ngang giữa
mưa bom bão đạn như bạt ngàn rừng kia, mặc cho một ngày hai lần đại bác, những cây xà nu vẫn
vươn lên cao vút, hướng thẳng về phía mặt trời. Và ham ánh nắng mặt trời đến kỳ lạ là cái đặc biệt
mà Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ở sinh thể thú vị này – “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh

nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số bụi vàng
từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Những cây xà nu nhờ ánh nắng mặt trời mà lớn lên, phô ra tất
cả vẻ đẹp của nhựa sống tràn trề, ngào ngạt. Rừng xà nu vươn thẳng, vút cao dưới ánh mặt trời cũng
như biết bao dân làng Xô Man với khát vọng lí tưởng mãnh liệt, giữa khó khăn, gian khổ và cả hi
sinh, mất mát vẫn một lòng hướng đến ánh sáng Cách mạng. Dưới ánh sáng Cách mạng họ trở nên
hùng vĩ, đẹp đẽ lạ thường, một vẻ tinh khiết, trong ngần mà sáng chói cũng như những cây xà nu
khoe hương thơm ngào ngạt dưới ánh mặt trời, họ toả ngát hương với lí tưởng cao đẹp và một tấm
lòng nồng nàn yêu quê hương đất nước. Đó không chỉ là khát vọng của một làng Xô Man mà còn đại
diện cho phẩm chất quý báu của biết bao con người Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam giữa
những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Cánh rừng xà nu mênh mông vô tận gợi lên cho câu chuyện một không khí hoang vu hùng vĩ, của
đại ngàn mà ở đó ghi lại số phận những con người của làng Xô Man. Những đoạn rừng xà nu ngổn
ngang gãy đổ trong mưa đạn, những cây lớn đã chết, những cây con vẫn tiếp tục vươn lên, những
cây lớn ngã xuống đã có thế hệ cây con mọc lên thay thế, cứ như vậy, tầng tầng tầng lớp lớp xà nu
đã duy trì cái màu xanh bền bỉ của núi rừng. Dân làng Xô Man cũng vậy, dưới làn đạn kẻ thù, không
biết bao nhiêu người đã ngã xuống, trước có, sau có, từ anh Xút, bà Nhan, đến Mai, rồi con Mai đã
hi sinh đất chép tội dày thêm, tội ác quân thù chồng chất và tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của
nhân dân càng lúc càng ngút lên cao vợi. Dân làng ra sức chiến đấu, cụ Mết cầm giáo, Tnú cầm
súng, rồi đến Dít, đến Heng họ vẫn mãi chiến đấu cho lí tưởng và khát vọng của dân tộc – cuộc
đấu tranh không ngừng không nghỉ với khí thế sục sôi. Ý chí và quyết tâm đó cứ thế truyền lại,
truyền lại cho thế hệ mai sau. Có thể nói hình ảnh rừng xà nu như thổi một cơn gió của Tây Nguyên
vào tác phẩm. Rừng xà nu chiếm lĩnh và trở thành không gian nghệ thuật cho truyện ngắn – không
gian bao bọc câu chuyện về cuộc đời và số phận những con người Tây Nguyên.
Cây xà nu xuyên suốt cả tác phẩm, khi thì tách ra, khi thi hoà nhập với con người, trở thành biểu
tượng của con người. Và, Tnú – nhân vật chính của tác phẩm – là một cây xà nu trẻ khỏe, hiên
ngang, kiên cường, bất khuất, bất diệt trong đại ngàn xà nu của mảnh đất Tây Nguyên.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương của dân làng và trải qua nhiều mất
mát đau thương. Đó là một cuộc đời đầy bi tráng, một số phận bất hạnh nhưng cũng là một tâm hồn
trong sáng, tốt đẹp, giàu tình cảm yêu thương. Đặc biệt, tình cảm của anh dành cho dân làng, cho
mảnh đất quê hương, cho vợ con mình thật dạt dào và tha thiết. Sống từ nhỏ trong vòng tay của dân

làng, Tnú đã gắn bó với mọi người như gia đình ruột thịt, ta bắt gặp trên đôi môi Tnú sự bồi hồi,
mừng rỡ khi anh trở về làng, gọi tên, nhận mặt, thăm hỏi từng người. Và đặc biệt là đối với già làng
Mết, ba năm xa cách, Tnú rất đỗi sung sướng nhận thấy ông cụ vẫn “quắc thướt như xưa ngực
căng như một cây xà nu lớn.”
Tình yêu quê hương đã chan hoà trong tình thương mến những con người của quê hương, tình làng
nghĩa xóm trong tâm hồn Tnú mặn mà, sâu nặng. Tnú yêu con người, yêu từng cánh rừng, con suối
quê hương. Anh lặng ngắm hồi lâu cánh rừng xà nu trong nắng, thấy hết sự huỷ diệt của bom đạn kẻ
thù, thấy hết sức sống mãnh liệt của xà nu. Khi chia tay, Tnú bịn rịn, bâng khuâng giã từ cánh rừng
như giã từ một người ruột thịt. Và ta hiểu rằng rừng cây mảnh đất quê hương gắn bó với bao kỉ niệm
êm đềm, dữ dội, dù hạnh phúc hay đau thương thì đó vẫn là một nỗi nhớ niềm thương trong lòng
Tnú.
Tình cảm Tnú thật sự làm ta cảm động, đặc biệt là tình cảm anh dành cho vợ con mình. Anh thương
con bằng tình thương của một người cha hiền hậu, quan tâm chăm sóc: Tnú đã xé đôi tấm dồ của
mình làm tấm áo choàng ủ ấm cho con. Rồi khi vợ con mình bị bọn ác ôn đánh đập, anh liều mình
lao vào giữa đám dã thú để che chở vợ con. Và bi kịch lớn nhất của đời Tnú, Tnú không cứu sống
được vợ con mình, bàn tay Tnú bị đốt đến thương tật suốt đời. Nhưng bàn tay ấy có đáng là bao với
nỗi đau mất vợ và con – một nỗi đau tinh thần quá lớn. Vậy mà Tnú không gục ngã, Tnú đứng lên,
hiên ngang như cây xà nu trong mưa bom bão đạn.
Tnú cũng bình thường, ít nói như mọi người khác trong dân làng Xô Man này, nhưng bên trong cái
thầm lặng đó, là một trái tim luôn dạt dào, ấm áp tình cảm yêu thương.
Tnú còn là hiện thân của một người chiến sĩ thời đại sớm giác ngộ Cách Mạng, yêu nước và tuyệt
đối trung thành với Cách Mạng. Bản lĩnh Cách Mạng đã hun đúc trong con người anh từ nhỏ, đó là
một tuổi thơ anh hùng, cùng Mai xung phong vào rừng nuôi cán bộ. Bản tính Tnú gan lì, nhưng đã
biết nghe lời anh Quyết, tin yêu anh bằng tình cảm chân thành trong sáng. Và tình cảm Cách Mạng
ấy đã dược thử thách qua biết bao khốn khó, gian lao, bao đau khổ, hi sinh và mất mát. Trong bi kịch
lớn nhất đời mình, khi vợ và con trai đều đã chết, khi mười đầu ngón tay bị giặc đốt, đau đớn tột
cùng, căm hờn ứa máu, đối mặt với cái chết, với kẻ thù nhưng Tnú vẫn hướng về Cách mạng, luôn
giữ vững lòng trung thành, giữ vững tư thế hiên ngang, bất khuất của người cộng sản.
Trước sự hung hiểm, tàn bạo và độc ác của kẻ thù, Tnú hiện lên với vẻ đẹp như một cây xà nu cường
tráng của dân làng Xô Man – thật kiên cường, bất khuất. Lần đầu bị giặc bắt, suốt ba năm bị giam

cầm, tra khảo, đánh đập, Tnú vẫn không khai, vẫn giữ trọn phẩm chất Cách mạng. Rồi anh vượt
ngục trở về, thành lập đội du kích chiến đấu bảo vệ dân làng, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Bản lĩnh của
một người cộng sản chân chính đã giúp Tnú không chịu khuất phục trước mọi khó khăn, giữ vững
lòng nhiệt thành Cách Mạng. Lần thứ hai bị giặc bắt là lần Tnú xông ra cứu vợ con mình. Một lần
nữa Tnú đối mặt với nỗi đau, với cái chết cận kề gang tấc. Kẻ thù đã đốt bàn tay Tnú, mười ngón tay
rực lửa, “mười ngón tay đã biến thành mười ngọn đuốc”, khủng khiếp, ghê sợ, cảm thương và đầy
căm giận chúng ta như đau cùng Tnú, đau nỗi đau thể xác, đau nỗi đau tinh thần sâu sắc. Nhưng, kì
diệu thay, đau thương đã hoá thành sức mạnh, bản lĩnh kiên cường đã vượt qua giới hạn chịu dựng
của con người, giữa tất cả đau đớn, mất mát, cái chết, Tnú nghĩ tới anh Quyết, nghĩ về Cách mạng,
Tnú đã chiến thắng chính mình. Từ thế bị động, bị dồn đến đường cùng, người con của dân làng Xô
Man đã cùng dân làng vùng dậy. Tnú thét lên một tiếng, ngay lập tức tiếng thét ấy chuyển thành
nhiều tiếng thét dữ dội hơn, tiếng “giết!” – kẻ thù đã nằm xuống dưới những lưỡi dao, lưỡi rựa, dưới
ý chí kiên cường, dưới sự gan dạ, dưới tinh thần bất khuất của Tnú và dân làng Xô Man. Sức mạnh
của sự đoàn kết, của quyết tâm tiêu diệt kẻ thù đã chiến thắng tất cả.
Truyện ngắn “Rừng xà nu”, đã khắc hoạ thành công hình ảnh nhân vật Tnú, mang một vẻ đẹp tình
cảm dạt dào, một bản lĩnh kiên cường, gan dạ, Tnú là biểu tượng, là sự tập trung những vẻ đẹp nhân
cách, lẽ sống của cộng đồng nhân dân Xô Man. Con người Tnú rực sáng cho sức sống anh hùng của
cộng đồng người dân Tây Nguyên yêu quê hương, giàu lòng nhân hậu, trung thành với Cách Mạng,
kiên cường, bất khuất đoàn kết trong tiêu diệt kẻ thù chung.
Tnú là một chiến sĩ Cách mạng gan dạ, kiên cường mà dường như những phẩm chất ấy luôn hiện
hữu qua một hình ảnh đầy ấn tượng trong tác phẩm: đôi bàn tay anh. Đôi bàn tay Tnú cũng bình
thường như bao nhiêu đôi bàn tay khác nhưng đã được chạm khắc và nổi bật như một đôi bàn tay
huyền thoại. Đôi bàn tay Tnú cũng đẹp bình thường như bao người dân làng Xô Man khác. Đôi bàn
tay mười ngón thon dài như những cây xà nu con vươn lên trong nắng, đôi bàn tay của biết bao công
việc bình thường: đi hái củi, đi lấy nước, lấy đá từ đỉnh núi Ngọc Linh. Đó là biểu trưng cho một
đôi bàn tay lao động rắn khỏe, thể hiện sự linh hoạt, tháo vác trong cuộc sống hằng ngày. Không
những thế, đôi bàn tay ấy là đầu mối thể hiện tình cảm yêu thương. Tnú cũng ít nói như những người
Xô Man này, nhưng trái tim anh cũng như họ, có những ngôn ngữ thể hiện riêng bằng những hành
động quan tâm và yêu thương sâu sắc. Đôi bàn tay ấy đã tự đập đá vào đầu mình, chảy máu như một
sự hối hận; đôi bàn tay đã xé đôi tấm dồ dành một nửa cho đứa con bé bỏng của mình; đôi bàn tay đã

nắm lấy tay Mai và đôi cánh tay như cánh lim chắc chắn ôm lấy mẹ con họ, chở che. Đôi bàn tay vẹn
nguyên lành lặn đã đi hết một hành trình với bao niềm vui và cảm xúc yêu thương, bao kỷ niệm gắn
với Mai và con nhỏ, gắn với một thời kỳ gian khổ chống giặc và hạnh phúc vô bờ khi được bên cạnh
vợ con. Đôi bàn tay bằng xương thịt bình thường cũng thật phi thường biết mấy.
Cũng giống như cánh rừng xà nu vẫn thuỷ chung gắn bó với dân làng Xô Man từ ngàn đời, tâm hồn
và trái tim Tnú nổi bật một vẻ đẹp trung thành, chung thuỷ; và đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay tình
nghĩa sắc son, thuỷ chung trong tình cảm với Mai, với làng Xô Man và tuyệt đối trung thành với
Cách mạng. Tnú và Mai là một khúc nhạc trong trẻo, hoang sơ của rừng già. Tuổi thơ, Tnú đã cùng
Mai vào rừng nuôi cán bộ, hai bàn tay đã nắm chặt với nhau trên một chặng đường dài, từ nét chữ i
tờ ngày ấy và sẽ còn nắm mãi nếu Mai không bị giết bởi tay bọn ác ôn Trong suốt những tháng
ngày kỉ niệm, đôi bàn tay Tnú cùng Mai vượt qua mọi khó khăn, chia sẻ với nhau hạnh phúc ngọt
ngào và đã che chở cho Mai đến giây phút cuối cùng. Giây phút mẹ con Mai chết là giây phút bi
phẫn nhất trong cuộc đời Tnú, lửa kẻ thù hay lửa của bao uất ức sôi sục đã thiêu đốt đôi bàn tay đẹp
đẽ xưa. Thằng lính quấn giẻ tẩm dầu xà nu bôi lên mười đầu ngón tay Tnú, thằng Dục cầm cây lửa gí
sát vào mặt, rồi chân và tay anh. Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón, ba ngón, “ mười ngón tay
đã thành mười ngọn đuốc”. Lửa đã thiêu đốt thể xác, lửa bên trong là sự đấu tranh mãnh liệt và gay
gắt của tâm hồn. Một bên là sự đau đớn vô cùng, một bên là ý chí kiên cường của người chiến sĩ, và
hơn thế đó là cái ý chí quyết tâm chống chịu tới cùng, trong hoàn cảnh ấy chỉ một tiếng kêu la cũng
đủ làm vỡ tan tất cả. Nhưng Tnú không khóc, đau thương đến chết Tnú vẫn luôn ý thức rằng “người
cộng sản không thèm kêu van ”, bởi vì “khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối”, người chiến sĩ khóc
trước những khó khăn, van rĩ trước những nỗi đau đồng nghĩa với sự thất bại và chịu khuất phục.
Giữa việc thắng tâm hồn mình, thắng số phận mình, Tnú mạnh mẽ hiên ngang giữ vững một tinh
thần oai hùng và một tấm lòng trung thành tuyệt đối. Đôi bàn tay cháy ngùn ngụt trong lửa đỏ, phải
chăng còn là một ẩn dụ tuyệt đẹp cho quá trình tu luyện, hun đúc của người chiến sĩ nhân dân Tnú.
Và như thế, bàn tay Tnú lại đẹp hơn theo một vẻ khác, vẻ đẹp của chất vàng nhân phẩm, của tinh
thần Cách mạng. Nhìn đôi bàn tay Tnú, đôi bàn tay bị cụt mỗi ngón một đốt đã thô lại, không hoàn
hảo và thậm chí đáng sợ, ai cũng biết rằng bàn tay ấy, con người ấy đã trải qua đau thương dữ dội.
Nhưng không ai có thể ngờ rằng, trong cùng một lúc bi kịch giáng xuống cuộc đời Tnú là quá sức
chịu đựng với con người bình thường. Trong cùng một lúc, hai người thân yêu duy nhất bị giết dưới
bàn tay tàn bạo của kẻ thù, trong cùng một lúc đôi bàn tay bị thiêu trong lửa đỏ rực – hai nỗi đau tâm

hồn, một nỗi đau thể xác hoà nhập lại thành một nỗi đau quá lớn, không cùng. Trong sự tàn bạo của
chiến tranh, đôi bàn tay Tnú phải chăng là biểu tượng, đại diện cho biết bao nỗi mất mát, hi sinh đau
đớn. Những yêu thương khô lại, lòng căm thù khắc sâu trên đôi bàn tay mỗi ngón bị cụt một đốt để
rồi biến thành sức mạnh diệt thù. Và đó là biểu tượng cao nhất cho lòng trung thành tuyệt đối của
Tnú, của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên anh hùng.
Những con người như Tnú đã làm nên vẻ đẹp cho tác phẩm, đằng sau hình ảnh nổi bật của nhân vật
trung tâm là một tập thể nhân dân anh hùng. Cả làng Xô Man từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều dũng
cảm, hiên ngang trước quân thù. Cụ Mết, một già làng quắc thước, “ngực căng như một cây xà nu
lớn” là tập trung cho mọi sức sống, tư tưởng, tình cảm của dân làng. Đó là hình ảnh một chiến sĩ
dũng cảm đồng thời cũng hết sức bình tĩnh, khôn khéo. Cụ buông vai Tnú ra để anh chạy đến che
chở vợ con nhưng một mặt, ông cụ chạy vào rừng tìm đám thanh niên trong làng để giải cứu Tnú –
“Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây thừng. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau
quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! ”. Và
tiếng cụ ồ ồ: “Chém! Chém hết!”, thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ. Cách hành động của cụ
không phải là hành động tự phát nhất thời mà là hành động có tổ chức, rõ ràng và quyết đoán. Có thể
Tnú vì tình thương yêu vợ con nên anh không thể đứng yên nhưng cụ Mết, trong hoàn cảnh ấy càng
bình tĩnh và sáng suốt hơn. Già làng đã biết tập trung sức mạnh của tập thể, của nhân dân để chống
lại quân thù hiểm ác. Và cụ Mết là hình ảnh một người chỉ huy tài giỏi – một cây xà nu cổ thụ rợp
bóng che chở, dẫn dắt dân làng Xô Man đồng thời cũng là người lưu giữ và nuôi dưỡng cho mạch
nguồn truyền thống của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Kể chuyện về Tnú cụ hăng say và đầy tự
hào: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu ”. Ông cụ đã kết
nối sợi dây thiêng liêng của mạch nguồn truyền thống từ thế hệ này qua thế hệ khác để nó trường tồn
mãi trong lịch sử quê hương đất nước, thấm sâu vào mỗi một cá nhân. “Ông cụ Mết của tôi ông là
cội nguồn, là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao
trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi hơn và
tự giác hơn của các thế hệ sau ” (Nguyễn Trung Thành).
Sau hình ảnh cụ Mết, tác giả còn khắc họa biết bao con người cụ thể đã anh dũng, bất khuất trong
chiến đấu. Đó là những con người sẵn sàng xả thân hi sinh cho Cách mạng như bà Nhan, anh Xút ;
những ai đang sống và tiếp tục cuộc tranh đấu ác liệt với quân thù từ cụ Pâng, anh Brôi đến bé Heng.
Và Dít, cô bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội là một cây xà nu non tơ tràn trề sức sống, trong

bão táp bom đạn kẻ thù vẫn lớn lên phơi phới, tỏa sáng tinh thần Cách mạng. Ngày còn nhỏ, Dít bị
địch bắn xả xung quanh, váy áo rách tươm nhưng đôi mắt vẫn mở to không hề run sợ. Cũng như
Tnú, như chị Mai, Dít một mình xung phong đi làm liên lạc, vận chuyển thức ăn, vũ khí cho du kích.
Dít là một thiếu niên gan dạ, dũng cảm chẳng khác gì một anh hùng. Dít cũng như hình ảnh chị Mai
năm nào sẽ noi theo cụ Mết, noi theo anh Tnú cùng dân làng chống giặc, bảo vệ quê hương.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật với nhiều cái tên, nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ để khắc họa nên bức
tranh tập thể anh hùng, tất cả nhằm tập trung ca ngợi sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc – cội
nguồn sản sinh những anh hùng cho quê hương, Tổ quốc. Và họ, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh nhân
dân ở một mảnh đất cụ thể, đồng thời cũng chính là hình ảnh xông pha quyết liệt trong chiến đấu của
nhân dân miền Nam Việt Nam để bảo vệ Tổ quốc, thống nhất nước nhà.
Một lần nữa, đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta không thể không chú ý đến cái không
khí trang trọng, cái âm hưởng ngân vang mà tác giả đã tạo nên. Tạo nên từ những lời nói giản dị, ồm
ồm, chắc nịch của cụ Mết, từ cái giọng kể trang trọng của cụ về cuộc đời Tnú cho mọi người, cho
con cháu, ta nghe như một già làng “kể khan” về những trang sử thi huyền thoại Đăm Săn, Xinh
Nhã, Đăm – bri, về những trang lịch sử bi thương mà hào hùng của cộng đồng. Ta hồi hộp theo dõi
những bước chân anh hùng Tnú và dân làng với những ngôn ngữ hùng tráng, mạnh mẽ, ta như cùng
tác giả “chiêm ngưỡng” tượng đài người chiến sĩ Tây Nguyên qua một “khoảng cách sử thi” giữa
con người và hiện thực được kể lại. Đồng thời cách khắc hoạ hình ảnh hùng tráng, quyết liệt, sống
động trong tác phẩm cũng góp phần tạo nên sức âm vang. Sự phối hợp độc đáo giữa giọng kể, ngôn
ngữ, hình ảnh và nhiều yếu tố khác đã khiến “Rừng xà nu” như một khúc ca hùng tráng giữa đại
ngàn hoang dại.
Nếu như Nguyễn Trung Thành xây dựng “Rừng xà nu” trên chất nền Tây Nguyên hùng
tráng và có phần gân guốc thì Nguyễn Thi lại mang đến một không khí Nam Bộ gần gũi, chân chất,
bộc trực đến từng lời nói qua tác phẩm của mình – “Những đứa con trong gia đình”. Ở đó, nhà văn
khắc họa hình ảnh những con người bình dị của quê hương sông nước mà chất anh hùng hòa lẫn với
vẻ thuần phác, tự nhiên. “Những đứa con trong gia đình” được viết ngay trong những ngày đầu
kháng chiến ác liệt ở chiến trường miền Nam năm 1966 đã hòa vào dòng chảy văn học dân tộc để cổ
vũ, ngợi ca tinh thần yêu nước và truyền thống Cách mạng hào hùng. Truyện ngắn là câu chuyện của
một gia đình, chuyện của những con người giữa bao nhiêu con người cùng thời đại nhưng là cả một
thiên lịch sử, một bản anh hùng ca đầy tự hào. Qua dòng hồi tưởng của Việt, một đứa con trong gia

đình Cách mạng, mỗi một cá nhân dưới mái nhà ấy hiện lên với tất cả phẩm chất anh hùng, bất khuất
trong đấu tranh. Truyền thống ấy được nuôi dưỡng ngay trong huyết mạch của mỗi thế hệ và được
hun đúc bằng lòng căm thù giặc sâu sắc. Tất cả những chiến công và cả những đau thương mất mát
mà cả gia đình đã trải qua được chú Năm ghi chép cẩn thận vào cuốn sổ gia đình. Đó là cả một dòng
sông chở đầy chiến tích –đau thương có, tự hào có, mà mỗi một khúc sông là một thế hệ tiếp nối
nhau: ông nội, bà nội, bố mẹ, bác Hai, thím Năm của Việt đều quyết tâm chống lại hành động bạo
tàn của giặc, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù và hi sinh trong tư thế hiên ngang. Cuốn sổ ấy là vật
thiêng liêng mà ở đó khắc sâu nỗi căm hờn trước giặc thù qua từng thế hệ: tía Việt vì tham gia du
kích mà bị bọn giặc chặt đầu; mẹ Việt bị giặc bắn chìm xuồng chết đuối; người bị bắn vào giữa
bụng; người bị roi quật giữa sân đình tất cả đã hun đúc nên lòng căm thù ngùn ngụt trong những
thế hệ sau với quyết tâm diệt thù. Hai chị em Chiến và Việt lớn lên trong gia đình Cách mạng, mang
trong mình truyền thống đấu tranh anh hùng nhưng đồng thời cũng đã từng chịu đựng không ít đau
thương, mất mát. Cả hai đều sôi sục lòng căm thù và quyết tâm chiến đấu, họ sẽ viết tiếp khúc sông
còn dang dở trong cuốn sổ của chú Năm Như một kỉ vật thiêng liêng của gia đình, cuốn sổ là một
dòng sông chiến tích để nhắc nhở, khích lệ mỗi thế sau tiếp nối dòng chảy bất tận ấy. Hình ảnh chú
Năm gợi ta liên tưởng đến cụ Mết trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Cũng
như già làng Mết, kể về cuộc đời Tnú với tất cả sự tự hào để con cháu mai sau cùng ghi nhớ mà noi
theo, chú Năm lưu giữ truyền thống gia đình Cách mạng với tất cả sự nâng niu, quý trọng và đầy tự
hào vào một cuốn sổ. Chú là người cuối cùng của thế hệ cha ông trong gia đình Cách mạng, trở
thành người chú, người cha đầy trách nhiệm thay thế cha mẹ Việt chăm sóc, giúp đỡ, dạy bảo và
động viên hai chị em. Chính chú đã góp phần hun đúc nên bản lĩnh Cách mạng ở Chiến và Việt,
khuyến khích hai chị em tham gia tòng quân: “Chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào ”.
Và chú Năm, không chỉ là một sử gia ghi chép tất cả truyền thống gia đình thành một dòng sông mà
trên dòng chảy ấy, chú còn khơi thêm những khúc sông mới trong trẻo, sôi nổi và mạnh mẽ hơn ở
thế hệ con cháu mình. Có thể nói mỗi một con người –một khúc sông đều mang tất cả tinh thần và
quyết tâm cống hiến, hi sinh vì Tổ quốc. Chính vì vậy mà con sông gia đình đã trở thành con sông
chiến đấu của cả quê hương, đất nước; truyền thống Cách mạng của một gia đình nhưng là đại diện
cho cả nhân dân miền Nam với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, gan dạ phi thường
trước kẻ thù.
Một gia đình với bề dày truyền thống như thế tất yếu sinh ra những đứa con kiên cường và quả cảm.

Chiến và Việt, hai chị em với những tính cách khác nhau nhưng đều tiêu biểu cho phẩm chất anh
hùng. Với chị Chiến, một cô gái đảm đang và giàu tình cảm, ngòi bút nhà văn đã khắc họa thật sâu
sắc. Qua hồi tưởng của Việt, chị Chiến rất giống má, trước mỗi việc Chiến bàn, Việt tưởng chừng
như đang nghe má dặn dò, chỉ bảo. Rồi từ cái thở dài, cái cựa mình của chị đều khiến Việt thấy “in
như má vậy”. Chiến đảm đang, tháo vác trong mọi công việc. Trước khi lên đường nhập ngũ, chị sắp
xếp việc nhà đâu ra đấy gọn gàng và chu toàn hết sức. Má đã ra đi, giờ đây chẳng phải nói ra nhưng
chị đã lo lắng, chăm sóc các em và thu xếp mọi việc chẳng khác gì má cả. Với Việt và thằng Út,
Chiến luôn dành cho các em sự yêu thương, nhường nhịn. Dường như bàn tay chị đã đảm đương và
che lấp đi phần nào sự thiếu vắng của người mẹ thương yêu. Cái cách Chiến tính toán cũng thật kĩ
lưỡng mà gọn gàng, chu đáo: từ việc viết thư cho chị Hai, trao công ruộng lại chi bộ, gửi thằng Út
sang nhà chú Năm, đến việc chuyển bàn thờ, lo giỗ cho ba má đều được chị quyết thật rành rọt cứ
như chị đã nghĩ ngợi, suy tính từ trước. Việc nhà Chiến đảm đang, việc nước chị cũng đầy tinh thần
trách nhiệm. Sinh ra và lớn lên trong gia đình Cách mạng, chứng kiến và chịu đựng nhiều đau
thương, mất mát, ý thức về truyền thống đấu tranh và quyết tâm diệt thù luôn nung nấu trong lòng
chị. Chiến hăng hái ghi tên tòng quân. Thái độ của Chiến cũng mạnh dạn và quyết đoán, rành mạch
như chính lúc chị thu xếp việc nhà vậy, đồng thời ở đó cũng nổi bật một tinh thần trách nhiệm của
một chiến sĩ Cách mạng thực thụ. Chiến tự dặn mình phải tuyệt đối trung thành với Cách mạng,
chiến đấu dũng cảm, chiến đấu đến cùng và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc: “Nếu giặc còn thì tao mất,
vậy à!”. Lúc vào đơn vị giải phóng, ở đâu Chiến cũng hăng hái xung phong đi đầu, cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ và lập công. Dường như trên khúc sông của Chiến, chị đã ra sức chiến đấu để kế
thừa và phát huy truyền thống cha ông bằng một nhiệt tình Cách mạng và bản lĩnh gan dạ của một
người chiến sĩ. Có thể nói Chiến không chỉ là một cô gái Nam Bộ đảm đang và giàu tình cảm mà ở
chị còn thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, ý thức trách nhiệm và lòng dũng cảm “quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”.
Cũng như chị, Việt là một thanh niên giàu tình cảm, yêu nhà, yêu nước, gan dạ, kiên cường và chiến
đấu không mệt mỏi. Việt có một tuổi thơ hồn nhiên, tinh nghịch và hiếu động: thích câu cá, bắn
chim, thích tranh phần hơn với chị Đặc biệt, tuổi thơ ấy gắn với hình ảnh người mẹ hiền từ: “lúc
má bơi thuyền, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở
dưới xuồng lên cho Việt ăn ”. Qua hồi tưởng của Việt, má Việt hiện ra là một người phụ nữ Nam
Bộ đảm đang, giàu tình thương và hết lòng chăm lo cho gia đình, con cái. Một mặt, má Việt phải vất

vả làm lụng nuôi con, mặt khác phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách của giặc. Và người phụ
nữ ấy nổi bật lên sự kiên cường, bất khuất trước kẻ thù, đã hi sinh trong tư thế hiên ngang, vững
vàng. Người mẹ ấy, khi sống cũng như lúc chết, không lúc nào nguôi ngoai tình yêu thương và trách
nhiệm nuôi dạy các con. Đó là hình ảnh một người mẹ đời thường nhưng ẩn giấu bên trong là một
trái tim vĩ đại, tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam: kiên cường, bất khuất, trung hậu,
đảm đang. Ngay những lúc thiếp đi tỉnh dậy giữa rừng thì những hình ảnh thân yêu ấy vẫn ám ảnh và
Việt ước gì lại được gặp má. Trong đêm cuối ở quê, Việt tưởng như má hiện về qua ánh đom đóm
Càng thương má bao nhiêu, Việt càng sục sôi căm thù và nung nấu quyết tâm trả thù bấy nhiêu.
Ngày má chết rồi, ý nghĩ đi bộ đội càng thôi thúc Việt hơn bao giờ hết. Anh tranh giành xin đi tòng
quân với chị khi chưa đủ tuổi, rồi lại nổi giận đùng đùng khi chị Chiến ngăn – “Bộ mình chị biết đi
trả thù à?”. Việt thương má, thương chị và trong anh luôn mang một tình yêu đằm thắm với gia đình,
với quê hương. Chính tình cảm gắn bó thiết tha đó đã trở thành động lực thôi thúc Việt chiến đấu và
hi sinh quên mình. Là một thiếu niên mới lớn nhưng Việt ý thức sâu sắc về thù nhà nợ nước. Chính
Việt đã thầm nhủ khi khiêng bàn thờ sang gửi chú Năm: “Chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má,
đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về”. Khi vào quân giải phóng, Việt chiến đấu gan dạ và
dũng cảm, quyết lập chiến công để cùng chị trả thù cho ba má. Việt là một khúc sông trên dòng sông
gia đình và là khúc sông trong trẻo. Việt không nghĩ ngợi và lo âu nhiều như chị Chiến, thậm chí còn
lăn kềnh ra ván mà cười khì: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị”. Việt vẫn là một
thiếu niên hồn nhiên nhưng ý thức diệt thù, bản lĩnh gan dạ thì chẳng thua gì chị và chiến công thì
thật đáng tự hào: Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch. Việt sẽ chiến đấu để viết tiếp vào cuốn
sổ gia đình thiêng liêng. Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, dù bị thương, lạc đơn vị, cô độc
giữa chiến trường Việt vẫn đấu tranh với thương tật, cố duy trì sự sống. Anh không nguôi nghĩ về
đơn vị, về đồng đội: cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi
lần anh động viên Việt tiến lên Tất cả như một động lực càng thôi thúc Việt gắng sức tìm về đơn
vị. Dẫu cho bị thương nhưng lúc nào Việt cũng lăm lăm cây súng bên mình để nếu gặp địch thì xả
súng ngay. Có thể nói tinh thần chiến đấu không mệt mỏi luôn hiện diện ở Việt trong bất cứ hoàn
cảnh nào, ngay cả lúc hầu như không còn đủ sức lực.
Cả hai chị em Chiến và Việt đều quả cảm, gan dạ và kiên cường như bao thế hệ đi trước. Tất cả xuất
phát từ sự kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng của cha ông. Trên dòng sông gia đình ấy, họ
đã ghi tên mình ở mỗi chặng và ra sức bồi đắp cho dòng sông những chiến tích đầy tự hào . Họ là

những khúc sông trong trẻo góp nên dòng chảy con sông gia đình đồng thời hòa vào dòng chảy của
dân tộc để cùng chiến đấu. Có lẽ chính sự gắn bó giữa tình cảm gia đình và tình yêu Tổ quốc, giữa
truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn, vĩ đại của con người Việt
Nam và cả dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Nguyễn Thi đã khắc họa chân dung những anh hùng của miền quê hương sông nước rất đỗi tự nhiên
và bộc trực trong từng lời nói. Tính hiện thực và trữ tình trong tác phẩm, vì vậy càng hài hòa, gắn bó
hơn. Không chỉ dừng lại ở đó mà qua ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ trong tác phẩm, âm điệu huyền
thoại sử thi trở nên phóng khoáng và đa dạng hơn.
Có thể nói Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã góp vào dòng chảy văn học dân tộc những tác
phẩm mang tầm sử thi đầy ấn tượng và đặc sắc. Cả hai nhà văn, cùng một thế hệ, đã gắn cuộc đời và
sự nghiệp sáng tác của mình cùng những năm tháng ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ
đại của dân tộc. Qua tác phẩm của mình, “Rừng xà nu” và “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn
Trung Thành và Nguyễn Thi đã trực tiếp ngợi ca nhân dân anh hùng, góp phần tích cực hoàn thành
sứ mệnh của nền văn học dân tộc giai đoạn 1945-1975 và để lại những bản anh hùng ca đầy hiện
thực, thiêng liêng, bất diệt. Tất cả xuất phát từ lòng cảm phục và lòng tự hào dân tộc của mỗi con
người. Với góc nhìn và không gian nghệ thuật rất riêng, ngòi bút của mỗi nhà văn hướng đến xây
dựng hình tượng nhân vật đặc sắc riêng, mang đậm dấu ấn của mỗi tác giả. Ở Nguyễn Trung Thành,
chất sử thi đã hòa cùng chất Tây Nguyên trong nhân vật Tnú làm sáng rõ hình tượng người anh hùng
của cả làng Xô Man vững chải như một cây xà nu cao lớn –đứa con của núi rừng. Có lẽ sự thành
công ở những trang viết của Nguyễn Trung Thành bắt nguồn từ sự thấu hiểu sâu sắc mảnh đất và con
người Tây Nguyên. Cho nên tác phẩm viết về Tây Nguyên mà đặc biệt là truyện ngắn “Rừng xà nu”
vừa thấm đẫm sắc màu hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng nơi đây, vừa ngời sáng vẻ đẹp của con người
Tây Nguyên: hồn nhiên, kiên cường, bất khuất. Bên cạnh chất Tây Nguyên trong bản anh hùng ca
của Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi lựa chọn văn phong đậm chất Nam Bộ để ngợi ca những con
người anh hùng của miền đất nơi đây. Có lẽ chính tình cảm gắn bó thủy chung ân nghĩa với nhân
dân miền Nam đã mang đến cho nhà văn một cảm hứng dạt dào về đất và người Nam Bộ. Những
con người hồn nhiên, bộc trực, căm thù ngùn ngụt quân cướp nước đã đi vào trang viết của nhà văn
như những anh hùng với nét rất riêng trong tâm lí, ngôn ngữ, thể hiện tính cách riêng của con người
Nam Bộ. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm đều mang một giá trị đặc sắc, một ấn tượng độc đáo, tiêu biểu
cho phong cách mỗi tác giả.

Chất sử thi qua hai truyện ngắn “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành và “Những đứa
con trong gia đình” – Nguyễn Thi là hai điểm nhìn, hai cách khắc họa nội dung nhưng cùng một xuất
phát điểm: lòng tự hào về truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc ở mọi vùng miền
Tổ quốc.
Cảm hứng sử thi trong hai tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua, để lại cho dân tộc Việt Nam biết bao hy sinh,
mất mát. Đối với nền văn học nước nhà, đây là thời đại của các tác phẩm văn xuôi và thơ ca mang
đậm màu sắc sử thi. Nào ai có thể quên hình ảnh về người lính, về tinh thần đấu tranh và bản lĩnh
kiên cường của dân tộc ta qua những vần thơ của Tố Hữu. Nhiều bản trường ca oai hùng của Nguyễn
Khoa Điềm, Thu Bồn, Hữu Thỉnh cũng góp phần làm nên mảng thi ca sử thi Việt Nam. Trong thể
loại văn xuôi ta không thể không nhắc tới hai tác giả lớn là Nguyễn Thi và Nguyễn trung thành. Hai
ngòi bút với hai phong cách khác nhau đã cùng tạo nên những trang sử thi hào hùng cho dân tộc.
Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi) và “Rừng Xà nu” (Nguyễn Trung
Thành) là hai tác phẩm tiêu biểu xuất sắc, hai bức tranh về dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ ác liệt. Ở đó ta thấy được lòng yêu nước, yêu gia đình, trung thành với Cách Mạng của
nhân dân ta từ miền xuôi đến miền ngược, từ Nam Bộ đến Tây Nguyên. Trong cùng bối cảnh lịch sử,
“Những đứa con trong gia đình” và “Rừng Xà nu” không chỉ là câu chuyện viết về một gia đình, một
bản làng mà là câu chuyện chung của Tổ quốc. Màu sắc sử thi trong hai tác phẩm đã để lại trong
lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Khuynh hướng sử thi rất phổ biến trong văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ. Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện
có ý nghĩa lịch sử và mang tính toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh
hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất cao
cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đồng. Và khi khẳng định, ngợi ca những anh hùng,
những kì tích sáng chói, người cầm bút không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh
cộng đồng. Đặc biệt trong nền văn học kháng chiến chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là lối viết phổ
biến và mang nhiều màu sắc phong phú. Đọc tác phẩm mang khuynh hướng sử thi trong giai đoạn
này, ta thường thấy một nhiệt huyết sục sôi, một tinh thần đấu tranh ngoan cường của nhân vật mà
họ đã trở thành biểu tượng cho tất cả con người yêu nước Việt Nam.

Trong hai tác phẩm Rừng Xà nu của Nguyễn trung thành và Những đứa con trong gia
đình của Nguyễn Thi, khuynh hướng sử thi thể hiện trước hết là ở đề tài sáng tác. Nguyễn trung
thành viết về câu chuyện của một ngôi làng người dân tộc-làng Xô man. Cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm là hình tượng cây Xà nu. Tác giả đã lấy ngọn đồi Xà nu làm biểu tượng cho những con người
làng Xô man anh dũng kiên cường trước bom đạn của giặc Mĩ. Cũng giống như người Nam Bộ gắn
bó với “cây dừa xanh tỏa nhiều tàu”, người Bắc Bộ quen thuộc với hình ảnh “tre xanh, xanh tự bao
giờ”, người dân Tây Nguyên không thể tác rời khỏi cây Xà nu. Loài cây này ăn đời ở kiếp với dân
làng. Không chỉ trong cuộc sống hằng ngày mà cây Xà nu còn đứng bên họ trong chiến đấu, “rừng
xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng ”. Ngọn đồi xà nu vì nằm “trong tầm đại bát
của đồn giặc” nên đêm ngày phải gánh chịu bao trận mưa bom bão đạn. Do vậy mà “Cả rừng xà nu
hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” Nguyễn Trung Thành xây dựng hình ảnh đồi xà nu
với nhiều tổn thương mất mát nhưng nổi bật hơn cả chính là tố chất của loài cây này. Xà nu là thứ
cây luôn mọc san sát cạnh nhau, có sức sống mãnh liệt và “ham ánh sáng mặt trời”. Qua đó, tác giả
ứng chiếu cây xà nu với những con người làng Xô man. Cả ngôi làng chẳng khác chi ngọn đồi xà nu
đó, biết bao người đã ngã xuống và biết bao người vẫn tiếp tục kiên cường chống chọi với giặc Mĩ.
Cả tác phẩm là câu chuyện kể về cuộc đấu tranh của Tnú cùng người dân làng Xô man. Ngôi làng
anh hùng giàu truyền thống Cách Mạng cũng giống như làng Cát Bay, làng Đồng Khởi, và trăm
nghìn ngôi làng khác đã trãi qua cuộc thảm sát, càn quyết của quân giặc. Người dân làng Xô man
cũng là một nhóm cộng đồng trong cả dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trung Thành viết chuyện về một
ngôi làng nhưng qua đó đã nói lên cuộc kháng chiến trường kì của cả dân tộc. Màu sắc sử thi chi
phối toàn bộ tác phẩm, biến câu chuyện riêng thành câu chuyện chung mà qua đó người đọc phần
nào hình dung được tính ác liệt, những tổn thất về người và của cùng một ý chí kiên cường, tấm lòng
yêu nước nồng nàn, trung thành với Cạch Mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ.
Nếu Rừng xà nu kể chuyện về làng Xô man thì Những đứa con trong gia đình lại là câu
chuyện khác về một gia đình Nam Bộ giàu truyền thống Cách Mạng. Giống như vùng Tây Nguyên,
Nam Bộ cũng là nơi diễn ra cuộc chiến chống Mĩ ác liệt. Câu chuyện xoay quanh các thành viên
trong một gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc. Từ đời bố mẹ chết dưới bom đạn của Mĩ
cho tới đời con cháu quyết chí ra đi trả thù nước, thù nhà. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Việt
và Chiến. Họ là hai người con trong gia đình. Họ được sinh ra trong bối cảnh đất nước lọan lạc, trãi

qua một tuổi thơ khó khăn, chứng kiến bố rồi cả mẹ đều bị giặc giết. Mối thù sâu sắc đã được hun
đúc từ thuở ấu thơ nên khi trưởng thành hai chị em quyết ra đi đánh giặc. Một câu chuyện như thế là
rất bình thường vào giai đoạn ấy. Chiến tranh đi đôi với mất mát về con người. Không chỉ gia đình
của hai chị em Việt-Chiến mà có rất nhiều gia đình Việt Nam khác cũng có người thân bị chết vì
bom đạn. Không phải chỉ có Việt và Chiến mang trong lòng mối thù giặc Mĩ mà tất cả những người
con khác, ai từng chứng kiến sự tàn ác của chúng gây ra cho gia đình, cho dân tộc mình đều biết căm
thù. Gia đình bé nhỏ của hai chị em là một đại diện cho tất cả các gia đình Việt Nam thời bấy giờ.
Qua Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã vẽ nên một bức tranh chân thật về cuộc kháng
chiến chống Mĩ và số phận của những người con trong gia đình Cách Mạng. Câu chuyện tuy riêng
mà mang một tinh thần chung. Chính điều này đã mang tới màu sắc sử thi cho tác phẩm.
Những đứa con trong gia đình và Rừng Xà nu là hai đại diện tiêu biểu cho thể loại sử thi hiện
đại. Bên cạnh lối chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật cũng góp phần thành công cho tác phẩm.
Trong Rừng Xà nu, Nguyễn trung thành vẽ nên hình tượng Tnú là một anh hùng Cách Mạng chân
chính. Tnú mang trong người tố chất của một cán bộ anh dũng kiên cường. Ngay từ nhỏ anh đã tỏ ra
hơn người ở sự gan dạ, bản lĩnh. Khi giặc Mĩ giết hết thanh niên tới ông bà già thì lũ trẻ trong làng
như Tnú và Mai đã thay họ đi nuôi cán bộ. Cậu bé Tnú vừa thông minh lại gan dạ. Đi làm liên lạc
Tnú không bao giờ đi đường mòn. Nó cứ “xé rừng mà đi”. Để không bị giặc bắt, Tnú còn dám liều
mình chọn chỗ thác dữ mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Hình ảnh
cậu bé người dân tộc băng rừng lội suối để thực hiện nhiệm vụ làm ta liên tưởng tới chú bé Lượm
mà qua ngòi bút của Tố Hữu đã trở thành biểu tượng cho những thiếu niên anh hùng:
“Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Ðạn bay vèo vèo
Thư đề “Thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo!”
Khi đã trưởng thành, Tnú vẫn là một người con của Cách Mạng. Anh đã cùng dân làng
quyết tâm đánh Mĩ. Cuộc đời anh bất hạnh vì cả gia đình đều bị giặc giết. Đau đớn hơn hết là chính

mắt anh trông ảnh vợ con bị chúng đánh đập, hành hạ mà không làm được gì. Con người ấy bị số
phận trêu đùa, phải nếm trãi hết mọi cay đắng, phải vượt qua và vươn lên từ đáy sâu địa ngục. Mất
Mai, mất đứa con bé bỏng rồi lại bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay bằng chính thứ nhựa Xà nu thơm
ngào ngạt, Tnú phải có một ý chí sắt đá và một bản lĩnh phi thường mới có thể tiếp tục sống, tiếp tục
chiến đấu vì Tổ quốc. Vượt lên tất cả, Tnú vẫn là một người con trung thành với Đảng, vẫn tiếp tục
xong pha trân mạc giành nhiều chiến công, “ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”. Con người
đó, số phận đó thật quá bi ai. Nhìn lại toàn cảnh cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, ta mới thấy
không phải chỉ riêng Tnú mà còn biết bao người cũng mang một quá khứ, một gia cảnh như anh.
Tnú không còn là một nhân vật cá biệt mà đã là hình tượng, đại diện cho các anh hùng chiến sĩ Việt
Nam. Tnú hiện lên với nhiều mất mát cả về tâm hồn và thể xác nhưng trên hết là tinh thần chiến đấu
kiên cường, là một nhân cách, một bản lĩnh mà ai ai cũng phải ngưỡng mộ. Phẩm chất đáng quý ấy
đã được cụ Mết nhận định:“Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” Anh đã trở
thành một nhân vật oai hùng như thần thoại, mang đầy đủ tinh hoa của tinh thần dân tộc. Hình tượng
Tnú đẹp đẽ, dũng mãnh, gan dạ là sản phẩm tạo ra từ chất sử thi trong Rừng xà nu.
Tnú là anh hùng của làng Xô man, của tác phẩm Rừng xà nu; còn Việt và Chiến cũng là những
anh hùng trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Nguyễn Thi đặc biệt thành công trong
nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Chiến là một cô gái người Nam Bộ, trẻ trung và bản lĩnh.
Từ ngày mẹ mất, cô đã thay mẹ quán xuyến gia đình, chăm sóc hai em. Nỗi bật ở chị chính là sự
đảm đang, tháo vát, tính gan góc, dũng cảm. Điều đó thể hiện rõ qua cách thức Chiến thu xếp chuyện
nhà cửa trước khi lên đường đánh giặc. Từ những vật dụng trong nhà cho tới thằng Út em, bàn thờ
ba má và căn nhà, Chiến đều tính toán đâu ra đấy. Chính chú Năm đã nhận xét về chị: “Khôn! Việc
nhà nó thu gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non.” Chiến lớn lên đã
thừa hưởng nhiều tính cách từ người mẹ nhất là ở cái đảm đang. Nghe chị tính toán chuyện nhà, Việt
đã nhiều lần phải thốt lên “nghe in như má vậy”. Bên cạnh sự đảm đang, Chiến còn là cô gái kiên
trung, gan góc, dũng cảm. Chị đã quyết tâm ra đi đánh giặc, không quản nguy hiểm khó khăn. “Đã là
thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!” Hình ảnh cô gái trẻ với
một ý chí đánh giặc “thà chết không lui” trở thành hình tượng chung cho biết bao người con gái khác
trong thời kháng chiến chống Mĩ. Chiến cũng như các cô gái trẻ Nho, Thao, Phương Định bước ra từ
truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Họ là các cô gái mở đường, cũng như Chiến,
là những bông hoa dũng cảm kiên cường trên chiến trường ác liệt. Chiến xứng đáng với danh hiệu

một nữ anh hùng Cách Mạng mà chúng ta phải kính trọng và ngưỡng mộ. Chợt nhớ tới một thiếu nữ
vừa tròn mười tám đôi mươi mà nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã biến cô thành một thiên thần anh
hùng bất khuất trước nòng súng của giặc:

×