Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nghệ thuật bài chòi: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.15 MB, 94 trang )

CHƯƠNG III
ĐẶC ĐI ÉM NỘI DUNG VÀ NGÔN NGŨ BÀI CHỊI

1* Tính hài hước và phê phán
Khác vó i văn chương bác học luôn sang trọng và nshiêm
túc, văn chương bỉnh dân mang dáng vẻ của chuyện thường
ngày giữa các tầng lớp nôna dân với nhau trong buổi họp
chợ, trước cổng đình làng hay đường trng. kiệt ngõ. Họ
thoải mái cưịi và thối mái nói lên những điều họ nhìn
thấy, để sau đó suy nghĩ, cười cợt mà khơng phái dịm
tnrởc ngó sau, coi có mơn đệ Khổng Mạnh cầm roi canh
cổng hay không mới dám ca hát.
Với tầng lớp bình dân, chưa chắc họ có can đảm đứng
ra bảo vệ chân lý. cái đẹp bằng chính những hành động cụ
thể, nhưng hơn hẳn các tầng lớp khác ỏ' chỗ họ dám dùng
lời ca tiếng hát thẳng thắn phê phán bằng những lời lẽ lúc
sâu cay, lúc cười cợt ché giễu, khi thì phê phán kịch liệt
khơng khoan nhượng. Điều này càng được thể hiện một
cách khá rõ ràng qua những câu hơ hát bài chịi, bỡi tự bản
143


thân nó hội đủ các yếu tố để gửi gắm những điều họ muốn
cơng khai hóa trước xóm làng: yếu tố hội họp, yếu tố vui
chơi giải trí, và chữ nghĩa từ những câu hô như chiếc dùi
trống, gõ lên tang để cảnh báo một cách nhẹ nhàng các đối
tượng vi phạm các giá trị đạo đức, luân lý, trật tự xã hội,
thuần phong mỹ tục...
Trong bài chịi, dù hơ hay đánh cũng thế, tính chất hài
lnrớc ln biểu hiện qua từng câu chữ một cách rõ ràng,
mang tính cơng khai hóa, vì lời hơ được đưa ra có nhiều


người nghe, tức đám đơng nhiều người, khác vói ca dao
hay văn chương bác học cái đám đông tham s;ia chỉ lẻ tẻ,
hoặc hai ba người, hoặc một nhóm nhị, khơng đủ điều kiện
kích thích sự bàn luận, cười cợt sau đó như bài chịi.
"Một tiếng cười bàníí mười thang thuốc bổ” ! Vậy thì
lội nợ gì mà khơng cười cho thoải mái? Vả lại, thơng qua
những làn diệu bài chịi, khi tụ lại trên sân hô, trước hết là
đê mua vui. đê giải trí sau những giị' lao động vât vả trên
đồng ruộng, sau lũy tre xanh. Và cười cợt đã trở thành
thuộc tính của người bình dân từ bao đời nay.
Ai cũng biết rằng, khi yêu nhau, lấy nhau và có con với
nhau là điều hạnh phúc nhất cùa cuộc đời. Vậy nhưng cái
hạnh phúc to lớn ấy cũng bị đem ra cười cọt như một cách
đê tự làm thỏa mãn niềm hạnh phúc no nê của mình:
Quớ m à
Quơ
Ba bôn tháng rày
144

CỊUƠ quơ

nhằm cảimà vợ
thôilửa


Tự cười mình rơi lại quay sang cười người:
Chơng nam ở giữa
Hai vợ chửa

nằm


Xách

chiếu

Quớ

trùm

haibên
lên

là ...Ba Bụng

Mặt khác, trong giao tiếp thường ngày, có thể người
bình dân chịu lép vế trước những bóng đen sừng sững của
các thế lực hung bạo, nhưng khi cái đám bình dân ấy dùng
ngơn ngũ' riêng của giới mình trong chồ đơng người, thì
dẫu có hàng vạn bóng đen thế lực hung bạo kia dứng trước
mặt, câu hát cùa họ không run. không lạc điệu; bởi các thế
lực bị đem ra giễu cợt đã được đồng nhất hóa lại là
cái
ácchứ khơng hề nêu đích danh một ai, khiên người bị
chi trích, bị cười cọt tướng ràng nói bâng quơ về ơng hàng
xóm chứ khơng phải mình.
Ngồibuồn
Tơi

vuốtbụng


Tơi thở

dài
(Oiiớ

mà)thươngchồng

Hay là:
Mặt

trời

lên,

Mặt trờiđỏ
145


Sáng tỏ vào buồng
Chị

vẫnở truồng gác cẳng

Lối cười cợt châm biếm như thế này của người bình
dân, chúng ta khơng hề thấy “tính độc ác”, mà ngược lại,
họ chi nêu lên bản chất trần trụi của sự việc để mọi người
suy nghĩ. Cách cảm hóa này có một tác dụng rất lớn trong
việc chán hưng đạo đức ở nông thôn.

Nếu xét và so sánh các

điều hóa thờ
kiến và Pháp thuộc tại Việt Nam với những câu ca lời hô
hát rân dạy nhẹ nhàn" như dẫn trcn. ta thấy có sự khác biệt
sâu xa: luật lệ thì cứng nhắc đen thơ thiển, cịn với lời hơ
cùa người bỉnh dân hàm chứa một chút "mắng mỏ và tha
thứ trộn lẫn". Họ vẫn hiểu rằng, cái xấu cái ác thì phải lên
án. nhưng lên án là dế cho cái xấu quay trở lại với cái đẹp
Iheo đúng nghĩa, chứ không hề ra tav liêu diệt cái xấu theo
phong cách "háo hớn”. Đây có thế coi lả chất nhân bản
thấm đẫm vào tâm hồn người bình dân từ bao dời nay rồi.
2* Tính Nhân văn
Đặc trưng của văn hóa nơniĩ thơn là sự quần cư của
nhiều gia đinh, giòng họ cùng sinh sống trong một làng.
Cộng đồng thôn dân ấy luôn nương tựa và che chở nhau
trong cuộc mưu sinh. Một kiểu sống tách biệt với chịm
xóm đều bị coi là một hiện tượng khơng bình thường và
hiêm khi xảy ra. Chuyện giúp nhau đánh tranh , lợp nhà,
mượn đơi gióng, cái cuốc là sự chuyển giao tình cảm hài
146


hịa, thương u nhau. Vì vậy, những điệu hơ, lời hát xuất
hiện sau lũy tre xanh trong nhũng đêm trăng sáng hay nsày
tết ln mang hoi thở tình người, tình đất đai, làng xóm,
con mương, nhịp cầu...
Trong bài chịi, những câu hô và những câu thai để đánh
bài trước hết và nhiều nhất vẫn là tình u. Đó là thứ tình
u chơn chất giữa những người nơng dân với nhau, là lời
bày tỏ nỗi lòng của người con trai với người con gái:
Anh


dạo

quanh

Giảđịmuatrầu
Hói

thămem bậu

Anh

đi

Đừng

từmờsán £ cho tới
nạoời

Miếng

mưa

trưa

hàng
anh

Hay là:
(...) Đangngồi

Vộibó
Xem

đũaxem thơ
xong thơ ướt

tờ

Phânchồng
Klien

ai

nỡ cắt

Thiếp x a , c h à n g

rẽ


Chuyện xa cách nhau, hay nửa đường đứt gánh xảy ra
không nhiều, không phổ biến. Người nông dân luôn coi
trọng tam tòng, tứ đức,
trung cho nên từ
lứa đen lòng chung thủy luôn đu'Ọ’c họ đặt lên hàng đầu, coi
như mẫu mực, khuôn thựớc cho đạo đức giữa các nhân và
trong gia đinh với nhau:
Giàunhư nau sánocơm




Nghèo như em sáng rổ rau

trã

Từmùa hạ cho

đồng

chímùa đơn ọ;

ơ n cha em khơng bỏ, nghĩa chồng em
Ngồi tình u, vấn đề nhơn nghĩa cũng được xem
trọng. Người bình dân hoặc nói thẳng vào vấn đề, hoặc
hoặc mượn điển lích để diễn tả điều cần chuyền tải tới cho
đối tượng như một thông điệp về bài học nhân cách, về sự
dối xử, lịng chung thủy...
Lờinguyềndướigió trên
Khơng
Vợ

ai
tơi

Thây

mập

thương vợ cho bằng tơi đây
únhư Tây


tàivăng bóng,

Hay là lời than trách:
Vợ đơi chồng một
Mơi người
148

ragì
mỗibụng ở thì sao


Nói như nhà văn Võ Phiến thì hơ và đánh bài chịi cốt
đê mua vui, giải trí và trong hội đánh bài chòi với sự tham
gia của nhiêu người chỉ cốt để mua lấy những trận cười
nghiêng ngã. Mà những trận cười ấy, xuất phát từ những
câu hô hát là những lời cảnh báo có tính chất giáo dục quần
chúng quay về với cái thiện rất sâu sắc.
Ví dụ về thói hư:
Tainghe có đám giỗ gần
Bụng

dạbân

thầnchanmuốn

cơm

v ề sự nết na:


dĩa cơ

Xóc

đứngcho XC!

Bói chân bói

lémượn

Trong


sịng

cãi

sợ mất

ba

lãi

um
cùa

Mất tiền cơ sợ xấu to
Khum lưngcơ

chụpđê mo nâu


Nhưng hơ và đánh bài chịi khơng chi dừng lại ờ mồi
một việc mua vui giải trí cho đám đơng, mà cịn vượt lên,
đảm đương mọi khả năng phản ánh những hiện thực sinh
động của xã hội đương thời xảy ra quanh họ, hàng ngày,
từ những việc lớn cho đên cái nhỏ nhât là thân phận con
người vì cái nghèo cái khổ phải gừi thân ở đợ, chịu đựng
149

khumcô


nhiều oan khổ. Vậy nhưng khi bị chủ đuổi đi, thì cái thân
phận nghèo hèn ấy lại cất lên những lời than thở đẹp nhất,
đạt đạo làm người nhất trong số những hạng làm người:
Thôi chào cái nọc cầu ao
Nửa đêm gà gáy có tao có mày
Thơi chào con trâu kéo cày
Tao khơng ở

nữa,ai chận mày trâu ơi?

Khơng có một lời than nào trong văn học đương đại sâu
đậm chất nhân văn, nhân bản đến the!
Nhìn chung, những lời hơ điệu hát, tuy xuất phát từ
giới bình dân ít học, chữ nghĩa lắm lúc ngô nghê như lời
kể chuyện, thấy sao, nghĩ sao thì nói ra vậy, khơng văn hoa
trau chuốt, khơng bóng bẩy bao hàm nhiều ý, nhiều nghĩa
như văn chương bác học, nhưng cái quý nhất của nó vẫn là
tính chân thực đậm chất nhân ái, lịng vị tha, thương người.

Trong rất nhiều câu hơ hát bài chịi, tưởng chừng như
là những lời mắng mỏ gay gắt khi nhìn thấy sự hư đốn của
con cái, hay sự bê tha của đám hương chức trong làng,
nhưng kỳ thực sự gay gắt ấy lại khơng hề có ý “trừng phạt”
mà chỉ níu kéo họ quay về với điều hay lẽ phải mà thơi.
Và có lẽ đây là một trong những điều đáng trân trọng của
giịng văn học bình dân.

150


3* Nghệ thuật, ngơn ngữ

Ơng Võ Phiến đã có một nhận xét hết sức tinh tế khi
nói vê hình thức ngơn ngữ: "Cơ thể con người thích ứng
với cách truyền thơng bằng văn
một cách chậm chạp:
có chữ viêt trước
mắt,măt khơng thể tự mìnhngay
được, mà-suổt một
thờikỳ dài-vẫn phải nhẩm đ
đến lỗ
tai.Vĩvậy nền văn chương của lỗ tai
thật lâu,
và chỉ nhường bước cho nền văn chương của con mắt một
cáchtừ từ,thong thả
”(l)Võ Phiến, Chúng ta qua cá
Giao Điểm, SG 1972.

Lời nhận xét này rơi đúng vào đám quần chúng bình

dân trên các sân hị khoan, sân hơ, sân đánh bài chịi... ngày
trước. Những cái lễ
taiấy chụm lại để nghe một
nói ra chữ nghĩa. Cách truyền thơng và đón nhận truyền
thơng của đám bình dân ít học chỉ đơn giản là được nghe.
Và nhu cầu được nghe của đám đông trở thành một động
lực, một tác nhân quan trọng để cái miệng kia tìm kiếm chữ
nghĩa, xỏ xâu lại, sắp xếp trên dưới, trước sau sao cho xứng
hợp với nội dung câu chuyện diễn đạt để được quần chúng
chấp nhận, hoan hô, cổ vũ, cùng cười, cùng khóc theo lời
hơ hát.
Họ, tức đám bình dân kia, khơng cần biết mình dùng
thể hứng, thể tỉ, lục bát hay lục bát biến thể, vì cơng bằng
(1) Võ Phiến. Chúng ta qua cách viết, Giao Điểm, SCi 1972
151


mà nói tị thuở cha sinh mẹ đẻ họ khơng được học ở bất
kỳ trường lớp nào để phân biệt đâu là lục bát, song thất lục
bát, rồi kết hợp thể phú, hứng tỷ, thể hứng theo lối tương
đồng hay tương phản mà các nhà nghiên cứu phên bình đã
có thói quen tập hợp, phân tích.
Chữ nghĩa của những câu hơ hát ấy khơng hề dụng
cơng, mệt trí, mà nó ở đâu đó từ trong gan ruột, trong bụng
cứ vậy mà tn ra theo giịng cảm hứng rất bình thường.
Điều này đã minh chứng một cách khá thuyết phục ở các
anh hô hiệu. Họ là nông dân rặc và dốt chữ (tức không biết
đọc, biết viết). Áy vậy mà khi bước ra sân đánh bài chịi,
tay rung ổng xóc, chữ nghĩa ở đâu đó cứ sắp hàng mà tn
ra, hết câu này tiếp câu khác; hết bài này đến bài khác!

Hồi nào đi tát nước
Cùng kêu cùng hú
Hồi nào đi đào củ
Cùng rủ cùng ren
Bây giờ trống ngirợc với kèn
Đờn

kêu lạc tiếng, bạn quen đâu

Hay đến lạ lùng, chơn chất đến lạ lùng và cũng gần gũi
đên lạ lùng. Những từ ngữ rất mộc mạc, chân quê ờ ngay
trong cuộc sống của họ, cứ y như những vết bùn, vết cứt
trâu dính trên bắp chân, quần áo thơm lựng ! Người bình
dân đâu hay biết khi ví von kèn ngược với trổng để đờn kêu
152


lạc tiêng là minh đang sử dụng thê tỷ? Điều họ quan tâm.
ây là gom tât cả các sự vật chung quanh mình để nói giùm
điêu mình mn nói là bạn quen đâu
như một tiếng
than rớt, ngậm ngùi. Ngôn ngữ sử dụng ở đây không trau
chuốt,.tô vẽ đôi lúc thô ráp đến đáng yêu, cứ như câu nói
có vần điệu:
Chuyện gì mà đánh mà ngầy?
Lời khơn sự dại bảo mày phân

tao hay

Tao làm sui đã mấy năm nay

Tao nghèo tao

chịu,taochẳng mượn vay thằng nào

Nó đừng ỷ giàu, nhà lớn, đổng rơm cao
Giàu bay, bay lát, bay đừng khinh tao nghèo.
Những câu chữ mộc mạc ấy như đang nói chuyện, từ từ
lọt từng chữ một vào tai quần chúng. Sức nặng trì kéo của
lối sử dụng chữ nghĩa này, mà văn chương bác học gọi là
nghệ thuật ngôn ngữ, giống bữa cơm có trã cá kho, có tơ
canh chua, và miếng cơm vơ tình dập phải trái ớt hiểm cay
xè, nước mắt nước mũi ứa ra nhưng hình như miếng cơm
ấy ngon nhất trong bữa ăn?Vì là lời hơ tiếng hát bình dân,
cho người bình dân nghe, nên ngơn ngữ phồn thực được
thoải mái đưa vào, khơng cần né tránh:
Hồi nào

thím thím
, hầy thầy

Bảy giờ cặc đách con này thằng kia
153


Đơi khi táo tợn hon:
Lịng

thương chibán đường

Hai vai gánh nặng, cái lồn một bung.

Vì là lối chơi, lối hơ hát của người bình dân, do vậy
ngơn ngữ sử dụng ở đây cứ xơng xổng như lời nói, như cãi
vã nhau ngoài chợ, trên đồng ruộng. Tuy vậy, thỉnh thoảng
chúng ta cũng gặp đây đó một vài câu trau chuốc, bóng bẩy
như thi như phú do các “nho s ĩ ’ tham gia vào cuộc chơi.
Vả lại đó là cuộc vui chung của đám đơng, nên đâu ai có
thể cấm cản được câu hay chen lẫn chữ dở? miễn sao là
được vui, được cười thoải mái !

154


s ư u TẬP NHỮNG CÂU THAI ĐÁNH BÀỈ CHÒI

PH O VĂN

Ông Ầm:
- Hai tay bưng tộ canh lươn
Vừa đi vừa húp, té xuống mương cái rầm

-Vai mang bị bạc kè kè
Nói quấy nói quá nẫu nghe ầm ầm

- Anh ngồi chỗ lở anh câu
Chẳng may rớt xuống vũng sâu cái rầm

- Ngồi kề chỗ lở anh câu
Sẩy chân tụt xuống vực sâu cái ầm
155



- Ngó lên trên núi Lị Tho
Thấy một ơng lão ơm vị rượu tăm
Ơng ngồi dưới gốc bằng lăng
Ngủ qn ông lão té lăn cái rầm

-Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tơm xóc dĩa nó thời chơi hoang
Nói ra xấu thiếp hổ chàng
Nó giận nó phá tang hoang cửa nhà
Lấy chồng gặp phải oan gia
Tường người văn vẻ hoá ra ông ầm

- Ai qua cầu Đá xóm Vườn
Tiếng ai nức nở khóc thương cơ đào
Cơ đào bỏ trốn làm sao
Để cho kép độc thức thao than trời.

- Trên bờ thả xuống lưỡi câu
Chẳng may rớt xuống vực sâu cái ầm.

156


- Cơ kia nước lọ com niêu
Chồng con chẳng có nằm liều nuôi thân
Chông con là cái nợ nần
Chẳng thà ờ vậy nuôi thân béo mầm
Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm tơ tường nhớ ông láng giềng


T ráng Hai:
- Con nai nó ở trên rừng
Ăn trái, ăn lá mọc cái sừng hai bên

- Lời nguyền dưới gió trên trăng
Khơng ai thương vợ cho bằng tui đây
Vợ tụi mập ú như tây
Thấy tui vắng bóng, bã kêu: “quớ bay vào hầu!”
Đấm lưng, bóp cẳng tiêm trầu
Múc nước rửa mặt, gọt bầu nấu canh
Chưa xong bã réo thất thanh:
“Bớ chồng, mắc đ ái...!” tui phải cõng nhanh ra hè
Nghĩa vợ chồng: vợ biểu chồng nghe

157


Chớ mà cãi lý, bã lấy roi tre đánh liền
Làng xóm kêu tui “đồ điên”
Cịn bã thì nói: “chẳng ai lực điền bằng chồng tao?”

- Dị bản (khu vực Gò Duối, Sơng cầu):
Lời nguyền dưới gió trên trăng
Khơng ai thương vợ cho bằng tơi đây
Ngày thời khơng có tiếng gà
Nhà cửa quét sạch, nước gánh đà mươi đôi
Cháo heo nấu sẵn vài nồi
Tay quơ nắm củi nấu rồi bữa trưa
Ăn rồi lên võng bã đưa

Biểu tôi múc nước đổ vừa đầy thau
Tiêm trầu rồi lại bửa cau
Bã nằm ưởng nường: “đưa khăn lau bớ chồng!”
Tháng 10 lạnh lẽo như đồng
Làm biếng đi đái bắt chồng cống đi
Tháng 5 nóng nực một khi
Bắt tôi hầu quạt chớ mấy khi ra hè
Nghĩa vợ chồng: vợ nói chồng nghe
Ỉ58


Nếu tôi cưỡng lý, bã lấy roi tre đánh ùn
Vợ chồng tình thuận nghĩa êm
Vì tơi chịu khó, nên bã thương, cưới thêm cho hai bà.

- Biết rằng ai có mong ai
Sao trời lại nỡ rẽ hai thế này?
Có sao Hơm mà chẳng có sao Mai
Hai đàng hai đứa tình phai, hoa tàn.

- Ơng xã (nói
con dạy tớ, bảo cho đứa
Làm sao mụ cứ chưng
lên xuống nhơng nhảnh

loi):Nàvmụ
ló77 gánh nước, đứa

saokhơng răn
qt nhà?

diệnnhở nha quần là áo
vậymụ xã? Tao nói ch

(Cổ bản):
Dù cho xạ ướp hương xơng
Có thom cho mấy cũng lấy lộc chồng mà thơm
Mụ bỏ qua ngày quải ngày đom (ngày giỗ)
Con cá khôns; đánh vảy, con tôm không lột đầu
Mụ không lo gánh nước tưới trầu
Hẹ hành bỏ héo, đậu bầu bỏ khô
Mụ cứ lo trang điểm phấn tô


Nhỏng nha nhỏng nhảnh như đồ lầu xanh
Xưa rày thiên hạ nói hành
Vợ ơng xã Bảy như con chằng tinh trên đèo
Hèn chi nẫu chẳng hò reo
Hay vậy, mụ chết tao vật heo ăn mừng
Sống làm chi, tao xấu hổ quá chừng
Ai xúi lúc trước tao ưng làm gì
Phen nì quyết để (bỏ) mụ đi
Giáp đâu lấy mực mài thì cho tao
Bà Đội (nói
lối):Này ơng xã! Ơng để tui khơng d ễ gì
đâu. Ơng mà để tui
thì:
(Xn n ữ ):
Nhà ông chia dọc, thóc chia ngang
Đũa con, đũa bếp, dừng, sàng cũng chia
Rổ may, kéo, vạch, nong, nia

Chén, dĩa, tô, tộ cũng chia tức thời
Ơng để tui, ơng phải đi mời
Cho có người chứng, tui đây thời mới nghe
Nào đâu vị, chũm, chum, ghè
Những âu, những thạp ngồi hè cũng chia ngay


Nhà dưới cịn một cối xay
Ơng thớt trên, tui thớt dưới chia hai cho đồng phần
Tui đây không luỵ, không cầu
Tui về lấy nậu trai cày còn hơn
Ở chi đây xấu hổ quá chừng
Nay ông hành, mai ông hạ cả ngày lẫn đêm
(Xàng xê):
Thân tui thất thể con chim
Chích đơi cánh lẻ, đi tìm cội cây
Ơng để tui, cho tui rảnh chân tay
Phen này khuất mặt khỏi ai ngay, ai la
Cịn bao nhiêu tiền bạc trong nhà
Của chồng cơng vợ cũng chia hai cho đều.
Ơng

xã:(cổ bản)
Thơi mụ đừng có nói nhiều
Cu liêm, rựa quéo tao cũng liều tao cho
Nào là nhà cửa trâu bò
Ruộng đồng vườn tược tao giao cho mụ hoàn toàn.

161



- Thương ai mà chẳng thương chồng
Bởi chồng vô đạo nên lịng khơng thương

- Một hai chàng nói rằng khơng
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?

-Chiều chiều ra đứng cửa sau
Thấy anh đứng đợi bên cầu Đồng Nai
Anh ơi anh đợi chờ ai
Phải chăng anh đợi bà mai đang về?

-Ngồi trông con kiến quay tơ
Con nhện dệt vải con dê đi cày
Con cò vác lúa đi xay
Để mai làm lễ chị hai lấy chồng
Chồng chị thằng nhỏ lên năm
Tha hồ chị ẵm chị bồng sướng thân.

- Biết rằng ai có mong ai
Sao trời lại nở rẽ hai thế này ?
162


Có sao Hơm mà chẳng có sao Mai
Hai đàng hai đứa, tình phai, hoa tàn

Ba Bụng:

- Chắp tay tơi lạy mẹ cha

Nhà mình bn bán kẻ vào người ra
Đêm hơm trà trộn lân la
Thức khuya dậy sớm con mà hở cơ
Khôn ba năm dại một giờ
Lỡ ăn trái đắng bụng giờ đã to
Xin cha mẹ cứ để con lo
Nắm đầu hai, ba đứa nhét cho bụng đầy

- Chồng nằm ở giữa
Hai vợ chửa nằm hai bên
Xách chiếu trùm lên
Rõ ràng ba bụng

- Vợ đơi chồng một ra gì
Mỗi người mỗi bụng ở thì sao êm
163


- Một chàng, hai thiếp khó phân,
Anh về nghĩ lại đề cầm cân cho bằng

- Cảm thương cho gái Lê Ba
Giận mình nên phải xuất gia tu hành
Mê câu sát phụ tử huynh
Đinh San bạc nghĩa thoả tình mấy khi
Chẳng qua số hệ y lcỳ
Xui Tiết Nhơn Qúi lầm tay nhơn phàm
Hoá ra bạch hổ rừng lam
Đinh San xem thấy bắn càn chết ngay
Tiều thần gia tội bắt đày

Cái tội sát phụ ngày rày chẳng tha
Giảo Kim trực chỉ triều ca
Lạy xin thiên tử thứ tha mạng chàng
Ba ngày tới ải Hàn Giang
Nhứt bộ nhì bái cầu Phàn Lê Huê
Đàng đi cách trở sơn khê
Lạy đã mỏi mệt ủ ê trong lòng
164


Bảy ngày tới ải vừa xong
Lê Ba giả chết liệm trong quan tài
Đinh San trong dạ ai hoài
Từ về phụ chỉ mà nài tội thêm
Nhờ ơn thiên tuế, Giảo Kim
Dạy chàng lên xuống linh sàn lạy xin
Lê Ba thức dậy ngồi nhìn
Truyền quân đi đánh trả hiềm mấy khi
Đánh rồi hiệp lực đuổi đi
Đinh San quì lạy một khi khẩn cầu
Dùng dằng ơn trước nghĩa sau
Ra tay giúp chúa cứu nguy phen này
Cha tôi rày đã bị vây
Chết giữa trận thượng lầm tay dương phàm
Nếu mà hiềm ốn cịn cam
E khi mắc phải dương phàm hại đi
Lê Ba trong dạ ai bi
Trực chỉ đề kỳ đem tới ải quan
Cùng nhau hiệp lực Đinh San
Thi tài dùng phép trị an dương phàm

165


Phút đâu hạt luỵ thác oan
Máu rơi nhằm bụng chữa chàng tiết cương.

- Ngồi buồn,
Tôi vuốt bụng
Tôi thở dài
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.

- Tai nghe có đám giỗ gần
Bụng dạ bần thần chẳng muốn nấu cơm

- Vợ lớn đánh vợ nhỏ
Vợ nhỏ chạy ra cửa ngõ
Ngửa cổ kêu trời
Bớ bà con ơi!
Nhứt phu lưỡng phụ, ăn ở đời có đặng đâu?

- Trực nhìn đầu non hoa nở
Cám thương mụ vợ không con
Cớ mần sao khô héo hao mòn?
166


Sợ e thác nhục, xương còn bọc da!
Ra đường thấy vợ người ta
Mập mỉm chắc chắn, vợ nhà khô khan
Đêm nằm tui thở tui than

Cầu trười khấn phật cho nàng sinh thai
Bất kỳ con gái hay con trai
Sanh đặng một núm, hơm mai thoả tình
Vợ chồng cui cút một mình
Khơng con, có của để dành ai ăn?
Vừa may sanh đặng một thằng
Lại bỏ lăn lóc, bị lăn trên giường
Đêm nằm tui nghĩ, tui thương
Tui trèo lên giường tui hun cái bụng
Nó làm nũng, tui phải khấn vái con gà
Đen chừng hết khóc hết la
Ăn ngon nằm ngủ, tui mới là mừng vui
Tiếc công vợ chồng tui đẻ, vợ chồng tui ni
Đến ba bốn tháng, gia tài vì nó sạch trơn
Bữa ăn của nó có trổng, bừa ngủ có đờn
Sanh đặng một núm, thật cầm hơn bạc vàng


×