Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Báo Cáo Khoa Học Xây dựng và đánh giá phương pháp nghiên cứu mô hình bệnh tật và tử vong người việt nam những năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.27 KB, 165 trang )



bộ y tế

________________________________________________




báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ

Xây dựng và đánh giá phơng pháp nghiên cứu
mô hình bệnh tật và tử vong ngời Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XXI


chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Gia Khánh













6371


12/5/2007


hà nội 2007




1
Cơ quan phối hợp

1. Bộ Y tế
2. Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn
3. Bệnh viện
Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí

Chủ nhiệm các đề mục
Stt Tên đề mục Chủ nhiệm đề mục Mã số
1
Nghiên cứu mô hình bệnh tật tại
bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển
Uông Bí và Trung tâm Y tế Sóc Sơn
năm 2003
PGS.TS. Nguyễn Gia Khánh

2
Nghiên cứu tử vong trong cộng
đồng huyện Sóc Sơn, Hà Nội
GS.TS. Trơng Việt Dũng



Danh Sách Những ngời thực hiện chính
TT Họ và tên Học hàm, học vị Cơ quan
1 Nguyễn Gia Khánh PGS.TS Đại học Y Hà Nội
2 Đào Ngọc Phong GS.TS Đại học Y Hà Nội
3 Nguyễn Khánh Trạch GS.TS Đại học Y Hà Nội
4 Nguyễn Khắc Liêu GS.TS Đại học Y Hà Nội
5 Trơng Việt Dũng GS.TS Vụ Khoa học và Đào tạo
Bộ Y tế
6 Nguyễn Văn Tờng PGS.TS Đại học Y Hà Nội
7 Dơng Đình Thiện GS.TS Đại học Y Hà Nội
8 Vũ Thị Vựng ThS Đại học Y Hà Nội
9 Nguyễn Thị Quỳnh Mai ThS Đại học Y Hà Nội
10 Phạm Thanh Tân BS Đại học Y Hà Nội
11 Hoàng Phơng Mai CN Đại học Y Hà Nội


2
Đặt vấn đề
Tình hình bệnh tật và tử vong của ngời dân ở bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào
và thời điểm nào đều là tấm gơng phản chiếu trung thành điều kiện và môi trờng
kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị của nớc đó.
Nhờ những đổi mới về kinh tế xã hội, chính sách của Đảng và Nhà nớc, sự quan
tâm của toàn xã hội, tình hình bệnh tật và tử vong của ngời dân có những chuyển
biến rõ rệt trên toàn quốc. Hai mơi năm qua cơ cấu bệnh tật và tử vong đã thay đổi
nhiều: Tỷ lệ các bệnh truyền nhiễm và tử vong đã giảm từ 50-56% năm 1976 xuống
còn 27% năm 1997 và 32,1 % năm 2000. Tuy nhiên các bệnh nh tai nạn, ngộ độc,
chấn thơng lại tăng lên từ 1,84% năm 1976 đến 12,35% năm 1996 và 13,64 năm
2000, cũng nh tỷ lệ mắc các bệnh cao huyết áp, tim mạch và các bệnh ung th lại
gia tăng và tỷ lệ tử vong do các nguyên nhân trên tăng từ 2% năm 1976 lên 22%

năm 1997.
Mô hình bệnh tật và tử vong ở các nớc đang phát triển khác rõ rệt so với các
nớc phát triển. ở các nớc đang phát triển tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và tử
vong vẫn chiếm một tỷ lệ lớn. Nhờ chơng trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tỷ lệ
các bệnh này đang có xu hớng ngày càng giảm. Tỷ lệ các bệnh không lây nh tim
mạch, dị tật bẩm sinh, ung th, rối loạn nội tiết và chuyển hoá, tai nạn thơng tích
ngày càng tăng lên.
Nhìn chung trong mời năm qua, mô hình bệnh tật chủ yếu của ngời dân nớc
ta vẫn là bệnh nhiễm khuẩn và dinh dỡng nh của các nớc đang phát triển; mặt
khác những bệnh tật phổ biến của các nớc phát triển nh ung th, tim mạch, tâm
thần, béo phì, tai nạn đã dần xuất hiện và có xu hớng tăng lên.
Ngành y tế, để có đợc những thông tin cần thiết giúp đánh giá tình trạng sức
khoẻ, từ đó đề ra các giải pháp can thiệp cũng nh
đánh giá mức độ thành công của
các giải pháp đó, việc nghiên cứu mô hình bệnh tật và tử vong rất quan trọng. Sự
thay đổi mô hình bệnh tật và tử vong qua từng thời kỳ là cơ sở khoa học để các nhà
quản lý đề ra chiến lợc chăm sóc sức khoẻ ban đầu và chiến lợc y tế một cách
phù hợp.
Trong điều kiện đất nớc ta còn nhiều khó khăn, đầu t cho y tế mặc dù ngày
càng tăng trong những năm gần đây (1996: 3610 tỷ đồng chiếm 3,76% tổng chi
ngân sách; 2000: 5098,7 tỷ đồng chiếm 5,06% tổng chi ngân sách) nhng vẫn cha
đáp ứng đợc yêu cầu của sự phát triển chung của y tế toàn quốc cũng nh đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Mô hình bệnh tật sẽ giúp ngành y tế đầu t
có trọng điểm vào các bệnh hay mắc, các bệnh có tỷ lệ tử vong cao. Nó cũng là một

3
tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia và so sánh với các
quốc gia khác trên thế giới.
Để góp phần vào việc nghiên cứu mô hình bệnh tật và tử vong của ngời Việt
Nam và bớc đầu so sánh sự khác biệt mô hình bệnh tật của các tuyến y tế, chúng

tôi nghiên cứu đề tài: Xây dựng và đánh giá phơng pháp nghiên cứu mô hình
bệnh tật và tử vong ngời Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI nhằm các mục
tiêu sau đây:
1. Xây dựng quy trình điều tra mô hình bệnh tật trong bệnh viện qua phõn tớch
hi cu bnh ỏn .
2. Xây quy trình điều tra mô hình tử vong ngoài cộng đồng bng gii phu li
núi.
3. Đánh giá phơng pháp điều tra mô hình bệnh tật, tử vong, qua điều tra thử tại
một số điểm ở Hà Nội v Qung Ninh.
Để giải quyết các mục tiêu trên nội dung nghiên cứu bao gồm:
1. Xây dựng quy trình và công cụ nghiên cứu
1.1. Xây dựng quy trình và công cụ nghiên cứu điều tra mô hình bệnh tật tại
bệnh viện
- Thống nhất quy định thu thập đối tợng nghiên cứu tại các bệnh viện. Thu thập
bệnh nhân theo các mẫu bệnh án thống nhất. Lấy số liệu và nhập vào các biểu mẫu
thống kê, gồm:
- Bệnh án nội khoa.
- Bệnh án ngoại khoa.
- Bệnh án sản khoa.
- Bệnh án nhi khoa.
- Bệnh án phòng khám ngoại trú.
- Bệnh án các chuyên khoa khác: Mắt, Tai mũi họng, Da liễu, Lây, Lao.
- Hồ sơ tử vong và kiểm thảo tử vong trong bệnh viện.
- Nguyên tắc áp dụng chẩn đoán nguyên nhân t vong khi không có mổ tử thi ở
bệnh viện hiện nay.
- Nguyên tắc phân loại bệnh tật theo phân loại bệnh tật quốc tế ICD 10.
1.2. Xây dựng quy trình và công cụ nghiên cứu điều tra tử vong ngoài cộng
đồng
- Phát triển bộ câu hỏi.


4
- Thống nhất quy trình tổ chức nghiên cứu thực địa.
- Phơng pháp đánh giá độ nhạy độ đặc hiệu của bộ câu hỏi.
2. Điều tra mô hình bệnh tật, tử vong trong bệnh viện huyện Sóc Sơn, bệnh
viện Uông Bí
Các nội dung nghiên cứu:
- Mô hình bệnh tật theo ICD 10 tại bệnh viện huyện và bệnh viện khu vực: Mô
hình chung phân loại bệnh tật ICD 10 tại bệnh viện huyện và tại bệnh viện trung
ơng khu vực.
Theo giới (nam, nữ).
Theo các lứa tuổi (ngời lớn, trẻ em).
3. Điều tra mô hình tử vong ngoài cộng đồng ở huyện Sóc Sơn
- ớc tính tỷ suất tử vong thô và tử vong theo nhóm tuổi, giới.
- ớc tính tỷ suất tử vong cho 16 nguyên nhân thờng gặp.
- ớc tính số năm sống mất đi vì chết non trong phạm vi một huyện.
- Hoàn thiện quy trình và công cụ nghiên cứu.
4. Đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu của phơng pháp

5
Chơng I
Tổng quan
I.
Nghiên cứu về Mô hình bệnh tật
1.1. Một số phơng pháp nghiên cứu mô hình bệnh tật
1.1.1. Nghiên cứu mô hình bệnh tật tại cộng đồng
Các kỹ thuật thu thập thông tin đợc áp dụng là phỏng vấn (phỏng vấn nhóm,
phỏng vấn cá nhân), quan sát trực tiếp, khám lâm sàng, xét nghiệm môi trờng, sử
dụng số liệu có sẵn
1.1.1.1. Thu thập thông tin bằng phỏng vấn
Phơng pháp phỏng vấn đợc áp dụng khá rộng rãi. Ngời ta thờng sử dụng bộ

câu hỏi để phỏng vấn toàn bộ các thành viên trong gia đình hoặc một ngời đại
diện gia đình về tình hình bệnh tật của gia đình đó [50].
u điểm của phơng pháp này là trong một thời gian ngắn có thể đa ra đợc các
thông số cần thiết mà nghiên cứu đòi hỏi, so sánh đợc với các nghiên cứu ở các
vùng địa lý khác nhau trong cùng một thời điểm, từ đó đa ra đợc các kết luận về
mô hình bệnh tật của cộng đồng tại thời điểm nghiên cứu. Đó là những căn cứ quan
trọng của việc đề ra các giải pháp thích hợp, đặc biệt trong phòng bệnh.
Kết quả nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng phiếu điều tra theo
mục đích của nghiên cứu, độ nhạy, độ đặc hiệu của bộ câu hỏi, cách khai thác
thông tin của điều tra viên (ĐTV), trình độ của ĐTV, thời gian tiếp xúc của ĐTV
với ngời tham gia nghiên cứu và đặc biệt là trình độ nhận thức, văn hoá, kinh tế,
xã hội của đối tợng điều tra. Những ngời khá giả, có trình độ học vấn cao thờng
nhạy cảm hơn và báo cáo kịp thời tình hình mắc bệnh của mình [13]. Thời gian
phỏng vấn là một yếu tố quan trọng ảnh hởng đến kết quả nghiên cứu. Quá trình
điều tra thờng khai thác thông tin về bệnh tật của đối tợng trong vòng hai tuần
tính từ thời điểm điều tra trở về trớc. Nếu thời gian điều tra càng dài, tần xuất phát
hiện các bệnh mạn tính càng tăng, các bệnh cấp tính càng giảm. Thời điểm phỏng
vấn cũng là một yếu tố ảnh hởng đến mô hình bệnh tật, vì nhiều bệnh liên quan
đến mùa, thời tiết, khí hậu
Kết quả phỏng vấn trực tiếp từng ngời trong hộ gia đình tốt hơn là phỏng vấn
gián tiếp một ngời đại diện cho cả gia đình. Với trẻ em, thông tin từ phỏng vấn bà
mẹ th
ờng chính xác hơn những ngời khác trong gia đình.

6
1.1.1.2. Thu thập thông tin bằng khám lâm sàng
ĐTV tiến hành khám lâm sàng toàn diện hoặc khám sàng lọc (tuỳ thuộc yêu cầu
nghiên cứu và kinh phí thực hiện), để phát hiện những bệnh hiện mắc. Phơng pháp
này tơng đối đắt và tốn công. Kết quả phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của các
ĐTV do không có các xét nghiệm cận lâm sàng hỗ trợ. Kết quả điều tra bằng khám

lâm sàng thờng cho tỷ lệ mắc cao hơn phỏng vấn.
Một nghiên cứu ở Ghana năm 1976 trên 3653 ngời cho thấy có sự khác biệt
giữa khám lâm sàng và phỏng vấn [38]:
Bảng 1. Sự chênh lệch giữa kết quả phỏng vấn và khám lâm sàng
Triệu chứng/bệnh Kết quả -
Phỏng vấn (1)
Kết quả - Phỏng vấn (2) -
Khám lâm sàng
Mức chênh
(1)/(2)
Tiêu chảy 0,9 3,2 0,27
Bệnh da 0,1 3,7 0,04
Suy dinh dỡng 0,8 32,1 0,03
Cao huyết áp 0,0 0,6 < 0,01
Sốt 5,2 13,9 0,37
VĐHH trên 3,5 35,1 0,1
Kết quả trong bảng trên cho thấy điều tra bằng phỏng vấn thờng cho tỷ lệ thấp
hơn khám lâm sàng. Sự chênh lệch này thể hiện khoảng cách giữa nhu cầu khám
chữa bệnh (phát hiện bằng khám lâm sàng) và yêu cầu của ngời dân đối với dịch
vụ khám chữa bệnh (phát hiện bằng phỏng vấn). Đối với ngời nghèo khoảng cách
này sẽ càng lớn.
Một số nghiên cứu tiến hành cả hai phơng pháp trên để đợc kết quả chính xác
hơn. Yếu tố chủ quan trong nghiên cứu mô hình bệnh tật tại cộng đồng rất lớn.
Đây là một lý do làm cho mô hình bệnh tật tại cộng đồng thờng khác biệt so với
mô hình bệnh tật tại bệnh viện.
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Nhạn và cộng sự về thực trạng sức khoẻ và mô hình
bệnh tật của trẻ em Việt Nam chỉ ra rằng khi điều tra ở cộng đồng tỷ lệ mắc các
bệnh khối u là hầu nh không có, nhng thực tế ở các bệnh viện tỷ lệ bệnh nhi mắc
các bệnh khối u là 2,87% với các bệnh viện tỉnh, và 5,31% với viện Nhi [50].
Cũng tơng tự nh thế, bệnh viêm phổi tại cộng đồng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ,

nhng tại bệnh viện tỷ lệ mắc viêm phổi trong các bệnh hô hấp chiếm 78,3% và so
với tỷ lệ mắc bệnh toàn viện là 18,03%, tỷ lệ tử vong do viêm phổi trong nhiều năm
gần đây nh không thay đổi (23,1%) [90] của tổng số tử vong trẻ em tại bệnh viện.

7
Tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh vật còn tơng đối cao và phong phú tại
các bệnh viện nhng trên nghiên cứu tại cộng đồng tỷ lệ này rất thấp chủ yếu là
mắt hột, giun, sán [90].
Một đặc điểm nữa là các bệnh nặng, cấp tính ở cộng đồng chiếm tỷ lệ thấp hơn
hẳn trong bệnh viện. Nguyên nhân chính là do bệnh nhân mắc những bệnh này phải
điều trị tại bệnh viện, không thể tự chữa ở nhà, làm mô hình bệnh tật có nhiều thay
đổi.
1.1.1.3. Dựa trên các số liệu sẵn có
Có thể thu thập thông tin dựa trên sổ lu của trạm Y tế xã, cộng tác viên Y tế
Những số liệu này thờng không đầy đủ và thiếu chính xác trong hoàn cảnh các
nớc đang phát triển vì cha có hệ thống ghi chép và lu trữ chuẩn xác.
1.1.2. Nghiên cứu mô hình bệnh tật trong bệnh viện
Nghiên cứu mô hình bệnh tật trong bệnh viện chủ yếu dựa vào hồ sơ lu trữ tại
các bệnh viện theo bệnh án mẫu thống nhất toàn ngành y tế. Có nhiều loại bệnh án
khác nhau cho từng chuyên khoa nhng vẫn đảm bảo tính thống nhất ở những
thông tin chính, thuận lợi cho nghiên cứu. Việc xây dựng mô hình bệnh tật dựa vào
chẩn đoán ra viện hoặc tử vong, theo những tiêu chuẩn chẩn đoán, sự hỗ trợ của xét
nghiệm Chẩn đoán này phụ thuộc trình độ chuyên môn của nhân viên y tế và
trang thiết bị phục vụ chẩn đoán của từng cơ sở y tế.
Độ tin cậy của chẩn đoán trong bệnh viện cao hơn hẳn ngoài cộng đồng do đợc
các Giáo s, Bác sỹ chuyên khoa có kinh nghiệm xác định, với sự hỗ trợ đắc lực
của các xét nghiệm cận lâm sàng và các phơng tiện chẩn đoán khác. Việc theo dõi
ngời bệnh liên tục giúp củng cố chẩn đoán, phát hiện ra các bệnh kèm theo và
đánh giá đợc hiệu quả điều trị. Các kết quả thống kê thờng là hồi cứu, phụ thuộc
bệnh sử của bệnh nhân khi ra viện, phụ thuộc ngời làm công tác thống kê, sắp xếp

mã số, do đó có thể có một số khác biệt về chất lợng giữa các bệnh án và phân
loại bệnh tật, giữa các bệnh viện Trung ơng và địa phơng.
Do điều kiện hạn hẹp về cơ sở vật chất, các bệnh viện chỉ có thể tiếp nhận một số
lợng bệnh nhân giới hạn, nhiều bệnh chỉ điều trị ngoại trú nên mô hình bệnh tật
tại bệnh viện không phản ánh hết thực chất tình hình sức khoẻ của nhân dân.
Nhiều bệnh tại cộng đồng tỷ lệ mắc còn t
ơng đối cao nhng ở bệnh viện thờng
chiếm tỷ lệ thấp nh các bệnh về răng miệng, viêm đờng hô hấp trên, ghẻ lở
[90].

8
Một bệnh nhân mắc bệnh mạn tính có thể đợc điều trị nhiều đợt trong năm làm
con số thống kê cũng bị ảnh hởng nh các bệnh máu, ung th Điều này là sự
khác biệt giữa mô hình bệnh tật và cấu trúc bệnh tật.
Nhiều bệnh nhân ở vùng sâu, vùng xa, do điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ y tế
còn nhiều khó khăn, một lợng không nhỏ bệnh nhân quá nghèo không đủ điều
kiện để nằm viện, tự chữa ở nhà nên làm cho mô hình bệnh tật ở một số vùng miền
thay đổi mà không phản ánh đợc thực chất mô hình bệnh tật chung của toàn quốc.
Do sự phát triển của xã hội và thay đổi cơ cấu quản lý ngày càng có nhiều bệnh
viện t, phòng khám t, nhiều dợc sĩ, dợc tá tham gia điều trị tại quầy thuốc của
mình kéo theo một lợng lớn bệnh nhân tự mua thuốc điều trị làm ảnh hởng tới
việc xác định mô hình bệnh tật thực tế.
1.1.3. Mô hình bệnh tật dựa trên gánh nặng bệnh tật của cộng đồng
Từ những năm đầu của thập kỷ 90, WHO và Ngân hàng thế giới đề xuất các phép
đo lờng mới, quan tâm tới đánh giá nặng bệnh tật của cộng đồng. Hiện nay tuy
vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, nhng đã sử dụng ở một số nớc, đặc biệt các
nớc phát triển, có hệ thống quản lý sức khoẻ, bệnh tật tốt. Gánh nặng bệnh tật
đợc đo lờng bởi các chỉ số:
- DALY (Disability Adjusted Life Years): Số năm cuộc sống điều chỉnh theo
mức độ tàn tật.

- YLD (Years Lived with Disability): Số năm sống chung với bệnh tật.
- YLL (Years of Life Lost): Số năm tiềm năng sống bị mất đi vì tử vong sớm.
* DALY biểu thị số năm của cuộc sống bị mất đi do ngời bệnh bị tử vong và cả
số năm sống trong tàn tật. Nếu không tính khấu hao tuổi và hệ số tỷ trọng tuổi,
DALY có thể tính theo công thức:
DALY = YLD + YLL
* YLD là số năm sống bị mang bệnh hoặc bị chấn thơng và đợc tính theo công
thức:
0,03
)e(1 LDW x x I
YLD
0,03L

=

Trong đó:
I: Số trờng hợp mới mắc ở thời gian nghiên cứu.
L: Số năm trung bình sống cùng tàn tật.
e: hằng số bằng 2,71.

9
DW: Hệ số tàn tật. DW có giới hạn từ 0 1 (0 là hoàn toàn khoẻ mạnh, 1 coi nh
chết). Khi bệnh càng nặng hệ số này càng lớn. DW xác định bằng hai phơng pháp:
Hoặc dựa vào bảng tra sẵn [109] hoặc dựa vào các định nghĩa về mức độ mất khả
năng. Theo Murray CJL và cộng sự, hệ số mất khả năng và bệnh tật chia làm 6
mức, với DW từ 0,096 đến 0,920 [105].
Để tính YLD cần biết thời gian mang bệnh, mức trầm trọng của bệnh và loại
bệnh mà phân ở các mức độ khác nhau. Mức trầm trọng của bệnh có thể tính một
cách tơng đối dựa trên cách xử trí. Murray CJL và cộng sự đã đa ra một bảng tra
hệ số tàn tật và thời gian mang bệnh dựa trên ba mức trầm trọng của bệnh [106].

Gánh nặng bệnh tật có thể tính theo YLD hiện mắc hoặc YLD mới mắc
ệ YLL đợc tính theo công thức:
)e(1YLL
0,03L
0,03
1
=

Trong đó:
L: Kỳ vọng sống cụ thể theo tuổi lúc tử vong.
e: Hằng số bằng 2,71.
YLL là hiệu số giữa hy vọng sống khi sinh và tuổi lúc chết. Ngời ta quy định
lấy hy vọng sống khi sinh của nớc có tuổi thọ cao nhất là Nhật Bản, nữ là 82,5 và
nam là 80 tuổi.
ở Việt Nam, nên tính riêng gánh nặng bệnh tật do chết non (YLL) và gánh nặng
bệnh tật do mang bệnh và thơng tích (YLD) theo số hiện mắc bởi lẽ chúng ta cha
quản lý sức khoẻ toàn dân, nên không thể tính số mới mắc đợc.
Đánh giá vai trò của bệnh tật với chất lợng cuộc sống các nhà nghiên cứu còn
đa ra các chỉ số: số năm sống bị ốm nặng, ốm vừa, ốm nhẹ và sống khoẻ mạnh để
đánh giá ảnh hởng của bệnh tật với chất lợng cuộc sống (QALY: Quality
Adjusted Life Years) [38, 109].
1.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu mô hình bệnh tật
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nớc ngoài
1.2.1.1. Những nghiên cứu của thế giới trong nhiều năm đã chứng minh sức khoẻ
và mô hình bệnh tật thờng phản ánh trung thành điều kiện sinh sống về kinh tế, xã
hội, văn hoá, tập quán và yếu tố môi trờng gần gũi với nơi mà trẻ em sinh ra và
lớn lên [90].
Sức khoẻ và bệnh tật bị ảnh hởng nghiêm trọng ở những nơi có thiên tai, dịch
bệnh, đói kém, chiến tranh cũng nh ở những nớc có nền kinh tế kém phát triển,


10
văn hoá lạc hậu. Nhng sức khoẻ và bệnh tật sẽ biến chuyển lớn nếu có những chủ
trơng, chính sách cải thiện đợc môi trờng sống, bảo hiểm y tế, thực thi các
phơng châm y tế dự phòng, xây dựng tốt màng lới chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ y
tế [90].
ở Brunei, một trong những nớc có thu thập bình quân đầu ngời cao nhất thế
giới và đầu t cho y tế lớn nhất thế giới, trong mời bệnh hàng đầu hay gặp, chỉ có
một bệnh nhiễm khuẩn là nhiễm khuẩn đờng hô hấp, còn lại chủ yếu là bệnh tim
mạch, đái đờng, hen những bệnh không lây [120] Ngợc lại ở Campuchia, một
đất nớc nghèo, các bệnh thờng gặp lại là sốt rét, lao, tiêu chảy cấp, sốt xuất
huyết, nhiễm khuẩn hô hấp cấp là các bệnh còn phổ biến ở các nớc đang phát
triển [120].
Cùng là các vùng lãnh thổ của Trung Quốc, những mô hình bệnh tật ở Hồng
Kông và Ma Cao có sự khác biệt rõ rệt. ở Hồng Kông trớc năm 1997 là thuộc địa
của Anh, do đó mô hình bệnh tật của Hồng Kông gần giống mô hình bệnh tật của
các nớc phát triển. ở Hồng Kông trong 5 bệnh hàng đầu chỉ có hai bệnh nhiễm
trùng là VĐHH cấp và bệnh da. Ngợc lại, ở Ma Cao cả năm bệnh hàng đầu đều là
các bệnh lây: Lao, viêm gan B, C, nhiễm HIV Mặc dù tất cả trẻ em đều đợc tiêm
phòng BCG [121].
1.2.1.2. Từ năm 1974, Văn phòng của Tổ chức Y tế Thế giới vùng Tây Thái Bình
Dơng đa ra thống kê định kỳ về mô hình bệnh tật và tử vong nói chung, cùng với
tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu ngời, ngân sách đầu t cho y tế,
chiến lợc phát triển Y tế của từng quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực [120,
121]. 35 quốc gia và vùng lãnh thổ đợc đề cập đến. Điều này giúp cho việc nghiên
cứu mô hình bệnh tật có hệ thống, dễ dàng so sánh giữa các quốc gia có thu thập
cũng nh đầu t cho y tế khác nhau.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình bệnh tật ở các n
ớc đang phát triển có sự
khác biệt rõ rệt với các nớc phát triển [86, 88, 117, 120, 121]. ở các nớc đang
phát triển, bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dỡng vẫn còn phổ biến, tuy nhiên các

bệnh này có xu hớng ngày càng giảm. Các bệnh không lây nh tim mạch, ung th,
dị tật bẩm sinh, di truyền, chuyển hoá, béo phì đang ngày càng gia tăng và đặc
biệt cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại các tai nạn, ngộ độc, chấn thơng có
xu hớng tăng nhanh và rõ rệt.
Các nghiên cứu cũng phản ánh tác động can thiệp y tế đến mô hình bệnh tật. Từ
khi có chơng trình tiêm chủng mở rộng phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn, tỷ
lệ mắc và tử vong của các bệnh này giảm rõ rệt. Một nghiên cứu ở Queensland
Australia cho thấy: Năm 1972 tỷ lệ trẻ em mắc lao là 5%, nhng đến năm 1998 chỉ

11
còn 0,5%. Có đợc kết quả này là do tất cả trẻ em đợc tiêm phòng BCG [104].
Phát minh ra Oresol đã cứu hàng triệu trẻ em thoát chết vì tiêu chảy cấp. Tỷ lệ suy
dinh dỡng ở các nớc Châu á giảm từ 51% trớc năm1980 xuống dới 20%
những năm cuối thập kỷ 90 [5, 50].
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt các quốc gia có hệ thống thống kê y tế
phát triển và đồng bộ liên tục cập nhật và công bố các thông tin về mô hình bệnh
tật của từng khu vực, từng loại bệnh [100, 117]. Tại Louisiana, New Orlean, hai
tháng một lần phát hành tạp chí thông báo tình hình các bệnh lây nhiễm trong khu
vực [100].
1.2.1.3. Nhiều nớc đã tiến hành nghiên cứu mô hình bệnh tật dựa trên gánh
nặng bệnh tật. Đi đầu trong hớng nghiên cứu này là các nớc Mỹ, Autralia,
Canada
Tại Mỹ, theo báo cáo của trung tâm kiểm soát bệnh tật, năm 1996 tai nạn
thơng tích (TN-TT) đứng đầu trong gánh nặng bệnh tật ở trẻ em Mỹ với số năm
sống tiềm năng bị mất (YLL) là 1.175.115 năm, tiếp đến là các dị tật bẩm sinh
(625.035 năm), thứ ba là đẻ non (439.3.4 năm), bệnh hô hấp chỉ có 142.681 năm.
Tại Canada thống kê gánh nặng bệnh tật tại bang Ontario từ 1990 1995 cho thấy
TN-TT cũng đứng đầu, tiếp theo là ung th. Kết quả này cũng tơng tự nh nghiên
cứu ở Autralia của Harrison J. và báo cáo của Viện nghiên cứu sức khoẻ, TN-TT
vẫn đứng hàng đầu, tiếp theo là ung th, tim mạch. Kết quả điều tra của WHO công

bố năm 1991 cho thấy sau 10 năm gánh nặng bệnh tật do TN-TT gây ra tăng nhanh
ở các nớc phát triển. ở hầu hết các nớc TN-TT đều chiếm tỷ lệ cao trong gánh
nặng bệnh tật do chết non [29, 109]. Theo Deen J.L và CS thì DALYs do TN-TT
gây ra cao nhất ở các nớc vùng Châu Phi cận Sahara, ấn Độ, trẻ nam nhiều hơn
nữ, ngã, đuối nớc và tai nạn giao thông là những nguyên nhân hàng đầu ở trẻ em
[29].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nớc
1.2.2.1. Các phơng pháp nghiên cứu mô hình bệnh tật đợc áp dụng ở nớc ta,
tỷ lệ mắc bệnh và mô hình bệnh tật ở nớc ta từ trớc tới nay phần lớn đ
ợc xác
định dựa trên cơ sở các thông tin thống kê y tế, số liệu quản lý hành chính, chủ yếu
là những ngời đến điều trị tại các cơ sở Y tế công cộng.
Thông tin thống kê y tế đã có từ lâu, ở miền Bắc đã hình thành 40 năm, các tỉnh
phía Nam đã đựơc tổ chức từ năm 1976 sau khi thống nhất đất nớc. Năm 1978, Bộ
Y tế ban hành biểu mẫu báo cáo thống kê bệnh viện và phân loại thống kê quốc tế
bệnh tật sửa đổi lần thứ 8 (ICD-8) là nền tảng cơ bản cho hoạt động điều hành quản
lý bệnh viện. Tuy nhiên khoảng 95% cán bộ làm công tác thống kê bệnh viện lu

12
trữ hồ sơ là cán bộ chuyên môn y dợc, phần đông chỉ đợc bổ túc ngắn ngày,
không chuyên trách, thay đổi thờng xuyên nên thống kê có nhiều sai sót. Năm
1997 Bộ Y tế ban hành biểu mẫu báo cáo thống kê mới về hoạt động bệnh viện,
đợc áp dụng cho tới nay [3].
Ngành Nhi khoa cũng có nhiều nghiên cứu mô hình bệnh tật trẻ em nói chung
cũng nh mô hình bệnh tật của một số loại bệnh phổ biến nh bệnh máu, bệnh hệ
hô hấp, hệ tiêu hoá, dinh dỡng, bệnh lý sơ sinh, chu sinh [18, 21, 30, 32, 77, 80].
Đặc biệt trong những năm gần đây, nhiều đề tài nghiên cứu về mô hình bệnh tật đã
đợc triển khai từ trung ơng tới một số tỉnh trong cả nớc: Đề tài của GS. Nguyễn
Thu Nhạn và cộng sự về thực trạng sức khoẻ và mô hình bệnh tật của trẻ em Việt
Nam [50]; của TS. Đàm Viết Cơng về xây dựng chiến lợc nâng cao sức khoẻ trẻ

em giai đoạn 2001 2010 [11]; một số đề tài của các bệnh viện trung ơng: Viện
Nhi [26, 34, 62, 73], bệnh viện Đa khoa Trung ơng Huế [82], bệnh viện Bạch Mai
[24], bệnh viện Uông Bí [8]; bệnh viện tuyến tỉnh trong toàn quốc: Bệnh viện
XanhPôn [1, 8, 27, 35, 76], bệnh viện Thanh Nhàn [23], bệnh viện Nhi Hải Phòng
[60, 78], bệnh viện Bắc Giang [10], bệnh viện Nhi Nghệ An [21, 54], bệnh viện
Đăklăk [19, 52], bệnh viện Gia Lai [41], bệnh viện Phú Yên [33], bệnh viện Sóc
Trăng [56, 65]
Các nghiên cứu chỉ ra rằng về cơ bản mô hình bệnh tật của nớc ta vẫn là mô
hình bệnh tật của các nớc đang phát triển. Theo niên giám thống kê Y tế trong 10
bệnh phổ biến nhất thì bệnh nhiễm trùng chiếm 6 bệnh, trong đó 5 bệnh đứng hàng
đầu: viêm phổi, viêm họng và amiđan, VPQ và viêm tiểu phế quản, ỉa chảy và viêm
dạ dày, ruột có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm [7].
1.2.2.2. Những năm gần đây mô hình bệnh tật của nớc ta đã có những thay đổi
đáng kể [25]. Các bệnh nhiễm khuẩn tuy tỷ lệ mắc vẫn còn cao nhng có xu hớng
ngày càng giảm. Năm 1976, tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn là 55,5%, đến năm 1996
còn 37,63%, năm 2000 là 32,11%, và năm đầu tiên của thế kỷ XXI chỉ còn 25,02%
[6, 7]. Đặc biệt các bệnh trong chơng trình tiêm chủng mở rộng giảm rõ rệt.
Chúng ta đã thanh toán đợc bệnh bại liệt và uốn ván rốn sơ sinh; viêm gan B và
viêm não Nhật Bản B mới đa vào chơng trình tiêm chủng những năn gần đây đã
thu đợc kết quả khả quan: Tỷ lệ viêm gan virut trên 100.000 trẻ em năm 1998 là
16,42; đến năm 2001 chỉ còn 10,07. Viêm não giảm cha nhiều: năm 1998 là 2,94;
năm 2001 là 2,36. Nhng đây là tỷ lệ viêm não chung, còn viêm não Nhật Bản B đã
giảm hẳn [6, 7].
Bệnh dinh dỡng cũng giảm đáng kể. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dỡng giảm từ
51,5% năm 1985 xuống còn 44,9% năm 1994 và 33,16% năm 2000 [6]. Tuy nhiên

13
tỷ lệ suy dinh dỡng vẫn còn ở mức cao theo đánh giá của WHO [11]. Theo đánh
giá của Liên hợp quốc năm 1998 tỷ lệ trẻ em dới 5 tuổi SDD là 39%, 34% còi cọc,
thiếu cân, nông thôn gấp ba lần thành phố [41].

Các bệnh không lây nh tim mạch, ung th, dị tật bẩm sinh, di truyền, các chấn
thơng, tai nạn, ngộ độc có xu hớng gia tăng rõ rệt. Tai nạn, ngộ độc, chấn
thơng từ 1,81% năm 1976 lên đến 13,69% năm 2000 (gấp hơn 7 lần) [6].
Theo Nguyễn Thu Nhạn và cộng sự, năm nguyên nhân hàng đầu hay gặp tại viện
Nhi là bệnh lý hệ hô hấp (25,1%), bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh khuẩn đứng thứ
hai (16,9%), thứ ba là dị tật, dị dạng bẩm sinh (9,4%), thứ t là nhóm bệnh tiêu hoá
(8,0%), thứ năm là bệnh hệ thần kinh (5,9%). Tại các bệnh viện tỉnh bệnh hệ hô
hấp cũng đứng hàng đầu (28,82%), thứ hai là các bệnh nhiễm khuẩn (27,15%), thứ
ba là bệnh hệ tiêu hoá (8,52%), thứ t là chấn thơng, ngộ độc và các nguyên nhân
bên ngoài (5,25%), thứ năm là các dị tật bẩm sinh (4,96%) [50].
Một số bệnh có xu hớng gia tăng nh bệnh lao, nhiễm HIV, một số bệnh rối
loạn tâm thần, hành vi
1.2.2.3. Ngoài những nghiên cứu mô hình bệnh tật trong bệnh viện, nhiều đề tài
nghiên cứu mô hình bệnh tật trẻ em tại cộng đồng cũng đợc triển khai, để bổ sung
vào mô hình bệnh tật trẻ em Việt Nam, tạo thành bức tranh hoàn chỉnh, nh đề tài
của GS. Nguyễn Thu Nhạn và cộng sự [50], TS. Đàm Viết Cơng [11]; một số các
đề tài khác nh tình hình trẻ em nông thôn tỉnh Nam Định [25], tỉnh Quảng Nam
[58], Thành phố Hải Phòng [78], tỉnh Lạng Sơn [79], huyện Sóc Sơn Hà Nội [71]
Kết quả thu đợc phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nh: trình độ học vấn, thái độ về
bệnh tật và sức khoẻ, tình trạng kinh tế và lứa tuổi [11]. Số lợng đề tài ngày càng
tăng tuy nhiên vẫn còn ít, mới chỉ thực hiện đợc ở một số địa phơng.
1.2.2.4. Vào cuối thế kỷ 20, mô hình bệnh tật ở nớc ta đã có xu hớng phát triển
mang tính chất giao thoa khá rõ. Các bệnh lý đặc trng của các nớc đang phát
triển nh nhiễm khuẩn, SDD đang giảm dần, thay vào đó là một số bệnh lý gần
giống với các nớc phát triển trên thế giới [11].
1.2.2.5. Việc nghiên cứu gánh nặng bệnh tật cũng bớc đầu triển khai ở nớc ta.
Theo Đỗ Văn Dũng, Trơng Đình Kiệt và cộng sự, gánh nặng bệnh tật hàng đầu
ở vùng Nam Trung bộ là tai nạn, bệnh nhiễm trùng, bệnh chu sinh. Trong các loại
hình tai nạn, ngã sông là quan trọng nhất, các khu vực khác tai nạn giao thông
đứng hàng đầu [31].

Nghiên cứu của Lê Cự Linh, Lê Vũ Anh tại Chí Linh, Hải Dơng thì nhóm tuổi
0 - 4 tuổi có gánh nặng bệnh tật lớn nhất, trong đó bệnh lý chu sinh chiếm một tỷ

14
lệ quan trọng nhất, sau đó là chấn thơng và các bệnh nhiễm trùng. Nhóm tuổi 5 -
14 tuổi thì chấn thơng lại nổi lên hàng đầu, chiếm hơn 70% gánh nặng bệnh tật
[36]. Nghiên cứu của Lê Vũ Anh tại Hải Phòng cũng cho kết quả tơng tự [2].
1.3. Một số yếu tố ảnh hởng tới cấu trúc mô hình bệnh tật
Các yếu tố tác động làm thay đổi cấu trúc bệnh tật rất đa dạng, phong phú, bao
gồm một số yếu tố chính sau:
1.3.1. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Theo Lê Nam Trà đây là yếu tố chính quyết định cấu trúc mô hình bệnh tật [68].
Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt giữa mô hình bệnh tật của các nớc phát
triển và các nớc đang phát triển. ở các nớc nghèo, SDD luôn là vấn đề quan tâm
hàng đầu trong chiến lợc CSSKBĐ cho trẻ em, trong khi ở các nớc giàu béo phì
lại là vấn đề đáng lo ngại. Tuy nhiên GDP thấp vẫn có thể làm thay đổi đợc cấu
trúc bệnh tật nhờ sự quan tâm, đầu t đúng mức của chính phủ, chiến lợc CSSKBĐ
đúng đắn, thực hiện tốt CTTCMR, tiếp cận tốt với hệ thống dịch vụ y tế.
1.3.2. Địa d
Có sự khác biệt mô hình bệnh tật ở nông thôn thành phố, ở vùng núi và đồng
bằng. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Nhạn cho thấy ở Vạn Phúc là một làng ngoại
thành Hà Nội, tỷ lệ trẻ SDD là 7,7%, còn ở xã Nam Sơn là xã vùng gò đồi cũng
thuộc Hà Nội, tỷ lệ SDD là 30,6%, trong đó 1,4% là SDD nặng. Các tỉnh đồng bằng
tỷ lệ trẻ em mắc bớu cổ rất thấp, nhng ở miền núi nh Thái Nguyên, Đăklăk, tỷ
lệ mắc rất cao (trên 40%). Ngợc lại, TN-TT ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất trong toàn quốc [50].
1.3.3. Dinh Dỡng
SDD là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên các bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ
em. SDD làm trẻ dễ mắc các bệnh viêm phổi, ỉa chảy, cũng nh làm trầm trọng
thêm tình trạng nhiễm khuẩn. Các bệnh này cũng làm nặng thêm tình trạng SDD,

tạo nên vòng luẩn quẩn [30].
1.3.4. Yếu tố môi trờng
Vùng núi cao, ẩm ớt, đầm lầy khí hậu khắc nghiệt có mô hình bệnh tật trẻ em
khác những nơi đồng bằng, khô ráo.
ô nhiễm môi trờng sống do sự phát triển của công nghiệp và đô thị hoá nhanh
cũng đa đến nhiều bệnh tật ở cả những nớc phát triển và đang phát triển.

15
Theo Trần Đình Long và cộng sự tỷ lệ mắc bệnh hô hấp ở trẻ em tại khu công
nghiệp Thợng Đình cao hơn rõ rệt so với vùng đối chứng không có ô nhiễm nớc
và không khí [42].
1.3.5. Công tác y tế và tiến bộ y học
Các công tác y tế nh vệ sinh môi trờng, y tế công cộng, cung cấp nớc sạch,
mở rộng và tăng cờng dịch vụ y tế, giáo dục sức khoẻ cộng đồng làm giảm tỷ lệ
các bệnh nhiễm khuẩn. Tiến bộ y học nh sản xuất vắc xin phòng bệnh, các loại
thuốc chữa bệnh, các kỹ thuật chẩn đoán cao cấp giúp phát hiện các bệnh lý hiếm,
khó chẩn đoán cũng làm thay đổi mô hình bệnh tật. Theo Đàm Viết Cơng, các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ rất quan trọng, đặc biệt các phơng tiện cấp cứu và dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ rất quan trọng, đặc biệt các phơng tiện cấp cứu và dịch vụ
CSSKBĐ ở tuyến cơ sở góp phần rất lớn và hiệu quả trong công tác bảo vệ và nâng
cao sức khoẻ trẻ em. Tuy nhiên điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế của trẻ em
còn hạn chế và cha đảm bảo công bằng, trớc hết là so với ngời lớn, do cơ sở
dịch vụ khám chữa bệnh cho trẻ em không đủ và bị thu hẹp, cán bộ Nhi khoa ít (1
bác sỹ/ 15.000 trẻ em), trang thiết bị còn nghèo nàn, lạc hậu hơn các cơ sở cho
ngời lớn, phần lớn trẻ em không có bảo hiểm y tế [11].
CTTCMR đã làm giảm tỷ lệ mắc 6 bệnh nhiễm khuẩn, tiến tới thanh toán nh
bệnh đậu mùa trớc kia.
1.3.6. Các yếu tố khác
Thiên tai, mất mùa, chiến tranh, dịch bệnh, tâm lý xã hội cũng làm thay đổi mô
hình bệnh tật trẻ em.

Công trình nghiên cứu cộng đồng ở xã Phụng Công, Châu Giang, Hải Hng của
GS. Ngyễn Thu Nhạn và cộng sự cho thấy sức khoẻ trẻ em nông thôn Hải Hng yếu
kém hơn Hà Nội. Sau 3 năm đợc hớng dẫn làm chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em, tỷ
lệ trẻ yếu kém đã giảm. Sau đó xã Phụng Công gặp thiên tai, mất mùa, sức khoẻ trẻ
em lại trở nên xấu nh cũ [50].
Đại dịch AIDS làm thay đổi mô hình bệnh tật trẻ em, đặc biệt các nớc Châu Phi
[96].
1.4. Phân loại bệnh tật
Mô hình bệnh tật đợc xây dựng từ những hồ sơ bệnh tật riêng rẽ. Tuỳ thuộc mỗi
cách phân loại bệnh tật, mô hình bệnh tật cũng có những sắc thái riêng.
1.4.1. Phân loại bệnh tật theo xu hớng bệnh tật
Theo cách phân loại này bệnh tật đợc chia thành ba nhóm chính [6, 86]:
- Bệnh lây

16
- Bệnh không lây
- Tai nạn, ngộ độc, chấn thơng.
Cách phân loại này cho ta cái nhìn bao quát, tổng thể mô hình bệnh tật ở mỗi
quốc gia, mỗi vùng miền địa lý, nó mang tính chất xác định xu hớng phát triển
của bệnh tật. Nhìn vào mô hình bệnh tật này chúng ta sơ bộ đánh giá đợc sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, vùng miền.
Việt Nam trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, mô hình
bệnh tật đang từng bớc tiến tới gần giống mô hình bệnh tật của các nớc phát
triển. Bệnh lây năm 1976 chiếm 55,5% tỷ lệ mắc bệnh và 53,06 % tỷ lệ chết thì đến
năm 2000 chỉ còn 32,11% mắc bệnh và 26,08% chết. Ngợc lại bệnh không lây
tăng từ 42,65% năm 1976 lên đến 54,2% năm 2000. Nhóm bệnh tai nạn, ngộ độc,
chấn thơng tăng gần 7 lần (1,84% năm 1976 và 13,69% năm 2000). Kèm theo tỷ
lệ mắc là tỷ lệ tử vong cũng tăng lên tơng ứng [6].
Cách phân loại này số liệu đơn giản, tơng đối chính xác do số liệu đủ lớn. Nó
rất thích hợp cho việc so sánh giữa các quốc gia các vùng miền cũng nh có cái

nhìn bao quát chung về mô hình bệnh tật của một đất nớc, là một số chỉ tiêu đánh
giá sự phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, vùng miền đó. Nó có tính chất dự báo
xu hớng bệnh tật tơng lai và giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể để hoạch định
chính sách ở tầm vĩ mô.
1.4.2. Phân loại bệnh tật theo tỷ lệ mắc và chết cao nhất [6, 86, 121]
Đặc điểm cơ bản của phân loại này là đa ra tên bệnh hoặc nhóm bệnh có tỷ lệ
mắc cao nhất, có thể phân chia theo từng lứa tuổi tuỳ thuộc tác giả, yêu cầu nghiên
cứu.
Cách phân loại này đa ra thứ tự của các bệnh thờng gặp cũng nh mức độ nguy
hiểm của một số bệnh dựa trên tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, từ đó có những
chính sách đầu t thích hợp nhằm can thiệp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử
vong của các bệnh đó.
Đây là cách phân loại đơn giản, dễ thực hiện, dễ áp dụng nhất là những nơi có
mật độ dân số thấp, số lợng khám chữa bệnh không đủ lớn để phân loại chi tiết,
những nơi cha quản lý cơ sở dữ liệu bằng máy tính.
Nhợc điểm của cách phân loại này là không cho chúng ta nhìn toàn diện về mô
hình bệnh tật, không đánh giá đợc chính xác sự tiến triển và biến động của mô
hình bệnh tật.
1.4.3. Phân loại bệnh tật theo chuyên khoa sâu

17
Một số chuyên khoa còn có các cách phân loại khác mang tính chuyên sâu
nhng thờng chỉ áp dụng ở một số nớc có nền y học phát triển và trình độ khoa
học kỹ thuật cao do tính chất phức tạp của chuẩn đoán (ngành ung bớu phân loại
dựa trên ICD O liên quan đến hình thái học của khối u) hay cha thống nhất đợc
các tiêu chuẩn chẩn đoán (hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ có các tiêu chuẩn phân loại
riêng về các bệnh lý tâm thần). Những cách phân loại này khó có điều kiện áp dụng
ở Việt Nam, chỉ mang tính chất tham khảo [4, 84].
1.4.4. Phân loại bệnh tật theo ICD - 10 [4, 6, 84, 116, 122, 123]
Cách phân loại đợc WHO khuyến khích sử dụng trên toàn thế giới và là một

báo cáo bắt buộc cho từng nớc là xây dựng mô hình bệnh tật theo phân loại bệnh
tật quốc tế và các vấn đề có liên quan đến sức khoẻ (ICD). Qua nhiều lần sửa đổi
đến nay, sau lần hiệu đính thứ 10, ICD 10 đợc đa ra sử dụng ngày càng rộng
rãi và đã chứng minh đợc tính u việt của nó.
Đặc điểm nổi bật của ICD là phân loại theo từng chơng bệnh, trong mỗi chơng
lại chia ra từng nhóm bệnh. Từ mỗi nhóm bệnh chia nhỏ thành các tên bệnh và cuối
cùng là các bệnh chi tiết theo nguyên nhân hay tính chất đặc thù của bệnh. Nh vậy
một bệnh theo ICD đợc mã hoá bởi 3 ký tự chính và ký tự thứ 4 mã hoá bệnh chi
tiết (không bắt buộc nếu không đủ điều kiện). Với điều kiện cụ thể của Việt Nam
và một số nớc đang phát triển WHO chỉ yêu cầu mã hoá đến tên bệnh (3 ký tự),
các chuyên khoa sâu có thể vận dụng hệ thống mã hoá 4 ký tự để phân loại chi tiết
hơn, phù hợp với từng chuyên khoa.
Hệ thống phân loại này giúp chúng ta có một mô hình bệnh tật đầy đủ, chi tiết.
Nó giúp các nhà hoạch định chính sách cũng nh các nhà quản lý có cái nhìn bao
quát, toàn dịên và cụ thể về mô hình bệnh tật để từ đó đa ra các chiến lợc, chính
sách, giải pháp thích hợp, đánh giá hiệu quả của các chơng trình chăm sóc sức
khoẻ đã và đang đợc triển khai. Nó giúp các bác sỹ lâm sàng có cái nhìn tổng thể
mô hình bệnh tật của đơn vị mình đang công tác. Với sự trợ giúp của máy vi tính
chúng ta có thể dễ dàng xây dựng mô hình bệnh tật theo các cách phân loại đã trình
bày ở trên bởi bản thân ICD đã bao hàm các cách phân loại đó.
Phân loại theo ICD giúp ngời quản lý dễ dàng so sánh, đánh giá mô hình bệnh
tật giữa các quốc gia, các vùng miền, các bệnh viện, từ đó đa ra các đầu t đúng
đắn cũng nh các chơng trình hành động thiết thực nhằm cải thiện tình trạng của
từng bệnh lý cụ thể nhất là khi kinh phí chi cho ngành y tế còn eo hẹp, cha đáp
ứng đợc nhu cầu thực tiễn.
Đây là cách phân loại khá chi tiết, đòi hỏi ngời làm công tác thống kê phải có
trình độ nhất định để tránh nhầm lẫn cũng nh đòi hỏi các bác sỹ lâm sáng cần có

18
chẩn đoán chính xác, chi tiết. Điều này có thể khắc phục bằng việc nâng cao trình

độ cho bác sỹ lâm sàng và đào tạo, tập huấn cho những ngời trực tiếp mã hoá
bệnh.
1.5. Phân loại quốc tế về bệnh tật và các vấn đề liên quan đến sức khoẻ
(ICD)

1.5.1. Lịch sử phát triển của phân loại bệnh tật [44, 61, 63, 76]
Thời kỳ cổ đại, Arestese đã đa ra cách phân loại bệnh tật dựa vào thời gian kéo
dài của bệnh (cấp tính hay mạn tính), diện lan rộng (bệnh địa phơng hay toàn
cầu), vị trí bệnh (nội hay ngoại). Aliabbas (ả rập) sử dụng phân loại vào thế kỷ X.
Albert le Grand (Đức), đa ra cách phân loại theo độ tơng hợp (giống nhau, tơng
tự).
Francois Bossier de Lacroix (1706 1777) thờng đợc gọi là Sauvages là ngời
đầu tiên nỗ lực phân loại bệnh một cách có hệ thống thông qua một chuyên đề có
tên là Nosologia Methodica, đa ra cách phân loại bệnh thành 10 bệnh. Charlees
Linner (1739) chia thành 11 loại.
Đầu thế kỷ 19, phân loại bệnh đợc dùng nhiều nhất là phân loại của William
Cullen (1710 1790) ở Edinburgh đợc công bố năm 1789 dới tiêu đề Synopsis
nosologiae methodocae.
John Graunt là ngời đầu tiên nghiên cứu thống kê về bệnh với các dự luật
London về tử vong. Từ 1837 William Farr (1807 1883) đã nỗ lực để có đợc bảng
phân loại bệnh tật tốt hơn từ bảng phân loại của Cullen và sử dụng chúng đồng nhất
trên quốc tế. Năm 1855 Farr trình bày bảng phân loại nguyên nhân tử vong tại Hội
nghị thống kê Quốc tế lần thứ hai tại Paris, bố trí làm năm nhóm: bệnh dịch, bệnh
nói chung, bệnh địa phơng đợc bố trí theo vị trí cơ thể, bệnh tiến triển và bệnh là
nguyên nhân trực tiếp của bạo động. Cũng tại hội nghị này Marc dEspine đa ra
bảng phân loại bệnh theo tính chất của chúng (bệnh gut, bệnh giộp, xuất huyết ).
Hội nghị chấp nhận danh sách thoả hiệp gồm 139 đề mục và sau đó đợc nhiều lần
xem xét lại. Mặc dù bảng phân loại này cha bao giờ đợc chấp nhận trên thế giới,
nó vẫn tồn tại nh là cơ sở của danh sách quốc tế về nguyên nhân tử vong.
Phân loại bệnh tật quốc tế đầu tiên đợc chấp nhận đã đợc Uỷ ban của Viện

Thống kê Quốc tế do Jacques Bertillon (1851 1922) đứng đầu chuẩn bị, bao gồm
161 tiêu đề. Đó là sự tổng hợp từ các bảng phân loại của Anh, Đức, Thuỵ Sĩ trên
nghuyên tắc của Farr đa ra là phân biệt bệnh nói chung và bệnh của cơ quan đặc
biệt hoặc vị trí cơ thể. Phân loại này đợc gọi là phân loại Bertillon về nguyên nhân
của cái chết, đa ra vào năm1893 tại Hội thảo do Viện nghiên cứu tổ chức tại
Chicago. Phân loại Bertillon hiệu đính lần đầu tiên vào năm 1900 và sau đó khoảng

19
10 năm một lần nó lại đợc hiệu đính lại (1909, 1920, 1929, 1938). Mục đích ban
đầu của phân loại Bertillon là đa ra các nguyên nhân tử vong đợc duy trì cho tới
lần sửa đổi thứ năm (1938).
Song song với việc xây dựng ngày càng hoàn thiện danh sách về nguyên nhân tử
vong, danh sách quốc tế về bệnh tật cũng đợc coi trọng. Phân loại bệnh tật đầu
tiên đợc chấp nhận năm 1900 và liên tục đợc hiệu đính. Tuy nhiên chúng vẫn chỉ
là sự mở rộng giới hạn nguyên nhân tử vong cơ bản.
Do thiếu sự phân loại đồng nhất có thể phù hợp với thống kê bệnh tật các nớc tự
đa ra phân loại của riêng mình. Khởi đầu là Canada tiếp đến là Anh và Mỹ.
Từ lần hiệu đính thứ 6 trở đi (1946) WHO trực tiếp chỉ đạo việc hiệu đính. Lần
hiệu đính thứ 6 chính thức thiết lập danh sách Quốc tế về nguyên nhân bệnh, thông
qua danh sách toàn bộ cho cả tử vong và bệnh, kiến nghị một chơng trình toàn
diện về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê sức khoẻ. Phân loại chính thức đợc
đa ra sử dụng ở nhiều nớc.
Lần hiệu đính thứ bảy (1955) và thứ tám (1965) về cơ bản không thay đổi cấu
trúc cơ bản của bảng phân loại và triết lý chung về việc phân loại bệnh tật theo
nguyên nhân bệnh chứ không phải theo biểu hiện đặc biệt. Lần hiệu đính thứ 9 năm
1975, giữ lại cấu trúc cơ bản của ICD, có thêm chi tiết ở cấp tiểu loại bốn chữ số.
Một cải thiện của ICD 9 là đa vào hệ thống dấu chú thích (ễ) và hệ thống dấu
hoa thị (*) và giữ cho tới ICD 10. Lần hiệu đính gần nhất là năm1990.
Trong quá trình phát triển, phân loại này đã đợc đổi tên vài lần và ngày nay
đợc gọi tên chính thức là Phân loại quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khoẻ liên

quan (gọi tắt là ICD).
1.5.2. Sự khác biệt của ICD 9 và ICD 10 [84, 116].
Từ năm 1990 WHO đa ra phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD-10). Điểm
khác biệt cơ bản của ICD-10 so với ICD-9 là thay đổi hệ thống mã hoá: sử dụng hệ
thống mã kết hợp ký tự chữ và ký tự số thay cho bộ mã ký tự số đơn thuần trớc
đây tạo điều kiện thuận lợi cho ngời sử dụng mã hoá nhiều bệnh hơn, dễ dàng
điều chỉnh, mở rộng khi cần thiết mà không làm thay đổi cấu trúc hệ thống.
Thay đổi thứ 2 là số chơng tăng lên 21 chơng so với 17 chơng và 2 phụ lục
của ICD-9, thứ tự các chơng nhóm cũng thay đổi và có sự điều chỉnh kết cấu trong
một số nhóm bệnh (Ví dụ các rối loạn liên quan đến cơ chế miễn dịch chuyển từ
chơng bệnh nội tiết dinh dỡng chuyển hoá sang chơng bệnh máu và cơ quan
tạo máu). Hai phụ lục chính thức xếp thành 2 chơng XX, XXI. ICD-9 có 909 mã
số, ICD-10 có 2036 mã số.

20
Một thay đổi quan trọng nữa là cuối mỗi chơng có bổ sung phân nhóm về
những biến chứng hay rối loạn sau can thiệp y tế: ví dụ nh hội chứng Dumping
sau cắt đoạn dạ dày.
1.5.3. Giới thiệu sơ lợc ICD-10 [4, 6, 84, 116]
1.5.3.1. Cấu trúc của ICD 10
ICD -10 đợc chia thành 21 chơng:
Chơng I : Bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng.
Chơng II : Bớu tân sinh.
Chơng III : Bệnh của máu, cơ quan tạo máu và các rối loạn liên quan đến cơ
chế miễn dịch.
Chơng IV : Bệnh nội tiết dinh dỡng chuyển hoá.
Chơng V : Rối loạn tâm thần và hành vi.
Chơng VI : Bệnh hệ thần kinh.
Chơng VII: Bệnh mắt và phần phụ.
Chơng VIII : Bệnh tai và xơng chũm.

Chơng IX : Bệnh hệ tuần hoàn.
Chơng X: Bệnh hệ hô hấp.
Chơng XI : Bệnh hệ tiêu hoá.
Chơng XII : Các bệnh da và mô dới da.
Chơng XIII: Bệnh hệ cơ - xơng khớp và mô liên kết.
Chơng XIV: Bệnh hệ sinh dục tiết niệu.
Chơng XV : Thai nghén, sinh đẻ và hậu sản.
Chơng XVI: Một số bệnh xuất phát trong thời kỳ chu sinh.
Chơng XVII : Dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thờng về NST
Chơng XVIII : Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng và cận
lâm sàng bất thờng, không phân loại ở nơi khác.
Chơng XIX : Chấn thơng, ngộ độc và một số hậu quả khác do nguyên nhân
bên ngoài.
Ch
ơng XX : Nguyên nhân ngoại sinh của bệnh tật và tử vong.
Chơng XXI : Các yếu tố ảnh hởng đến tình trạng sức khoẻ và tiếp xúc dịch vụ
y tế
1.5.3.2. Cấu trúc một chơng

21
Mỗi chơng chia thành nhiều nhóm:
Ví dụ: chơng I chia thành 21 nhóm:
- Nhóm 1: Nhiễm khuẩn đờng ruột.
- Nhóm 2: Lao
- Nhóm 21: Bệnh nhiễm khuẩn khác.
1.5.3.3. Cấu trúc một nhóm trong mỗi chơng trong mỗi nhóm bao gồm các bệnh
Ví dụ: Thiếu máu dinh dỡng:
- Thiếu máu do thiếu sắt.
- Thiếu máu do thiếu Vitamin B12.
- Thiếu máu do thiếu acid Forlic.

- Thiếu máu do dinh dỡng khác.
1.5.3.4. Cấu trúc một bệnh trong mỗi nhóm
Mỗi bệnh phân loại chi tiết hơn theo nguyên nhân gây bệnh hay tính chất đặc
trng của bệnh đó.
Ví dụ: Lị trực khuẩn (A03) đợc phân thành:
- Lị trực khuẩn do Shigella dysenteriae (A03.0).
- Lị trực khuẩn do Shigella flexneri (A03.1).
- Lị trực khuẩn do Shigella boydii (A03.2).
- Lị trực khuẩn do Shigella sonnei (A03.3).
- Nhiễm Shigella khác (A03.8).
- Nhiễm Shigella, không xác định và lỵ trực khuẩn KXĐK (A03.9)
1.5.3.5. Bộ mã 4 ký tự
- Ký tự thứ nhất (chữ cái) mã hoá chơng bệnh.
- Ký tự thứ 2 (số thứ nhất) mã hoá nhóm bệnh.
- Ký tự thứ 3 (số thứ hai) mã hoá tên bệnh.
- Ký tự thứ 4 (số thứ ba) mã hoá một bệnh chi tiết theo nguyên nhân hay tính
chất đặc thù của một bệnh.
Ký tự thứ nhất có 25 chữ cái từ A đến Z, trừ chữ cái U không sử dụng. Giữa ký tự
thứ 3 và thứ 4 có một dấu thập phân (.).
II. Nghiên cứu về mô hình tử vong
2.1. Sơ lợc lịch sử nghiên cứu tử vong

22
Việc nghiên cứu tử vong có lẽ xuất phát từ lâu, bắt nguồn từ việc đăng ký quản
lý hộ khẩu, hộ tịch. Theo các tài liệu nớc ngoài, ở châu Âu ngời ta đã nghiên cứu
tử vong từ những năm cuối của thế kỷ thứ 19 [47]. Khi đó ngời ta thấy tỷ lệ tử
vong rất khác nhau giữa các nớc, các vùng và có liên quan rất lớn đến các chủ
trơng, chính sách, luật pháp của xã hội. Điều này đợc chứng minh qua một số
bệnh tật và tử vong đợc giảm hẳn ở nớc Anh khi có những chơng trình sức khoẻ
cộng đồng, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội cho bà mẹ trẻ em, luật cho ngời nghèo,

hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em [94].
Sau này việc theo dõi tử vong chung cũng nh tử vong ở trẻ em nói riêng đợc
theo dõi thờng xuyên và thông qua các phơng pháp khác nhau nh hệ thống báo
cáo định kỳ, hệ thống theo dõi tử vong theo điểm Sentinel, điều tra dân số
2.2. Các phơng pháp điều tra, giám sát tử vong
Để có số liệu về tỷ lệ tử vong ngời ta có thể dựavào nhiều nguồn và bằng
phuơng pháp khác nhau, mỗi nguồn và phơng pháp có u nhợc điểm của nó. Sau
đây là những nguồn số liệu , phơng pháp thu thập và giá trị của nó.
2.2.1. Các hệ thống báo cáo định kỳ
Trong báo cáo định kỳ, cán bộ y tế hoặc đôi khi không phải là cán bộ y tế (cán
bộ dân số, công an hộ khẩu ) thu thập các thông tin về số trờng hợp chết trong
một địa bàn hành chính. Các thông tin này có đợc từ việc cán bộ y tế tiếp xúc với
ngời ốm hoặc khi cấp cứu trớc khi chết tại cơ sở y tế hoặc tại nhà của ngời chết.
Nh vậy số liệu có đợc từ những ngời có chuyên môn y học. Nguồn số liệu cũng
có thể từ phòng khám, bệnh viện, trạm y tế. Các thông tin về ngời chết hoặc
nguyên nhân chết đợc biết trực tiếp và cũng có thể qua lời kể của gia đình ngay
sau lúc ngời nhà mất. Đôi khi là từ ngời họ hàng, bạn bè hoặc cán bộ y tế khác
(y tế thôn xóm, y tế t nhân) kể cho biết. Tại trạm y tế xã, việc ghi chép vào sổ tử
vong chủ yếu qua con đờng này. Tuỳ từng xã và năng lực của trạm y tế cũng nh
hoạt động của y tế thôn bản mà số liệu có thể ghi chép đầy đủ hoặc không đầy đủ,
chính xác hoặc không chính xác. Đây cũng chính là điểm yếu của hệ thống báo cáo
tử vong hiện nay từ y tế cơ sở. Dù sao, đây cũng là một nguồn thông tin rất quan
trọng, các số liệu về tử vong trong các niên giám thống kê y tế hàng năm tổng kết
từ báo cáo của trạm y tế xã. Một số xã, để có đợc thông tin đầy đủ ngời ta phải
đối chiếu giữa số hộ khẩu và số tử vong. Trờng hợp các xã có y tế thôn bản hoạt
động đều, nguồn thông tin về tử vong đầy đủ hơn (ít ra là không sót các trờng hợp
chết). Hệ thống sổ sách ghi chép tử vong của trạm y tế xã cho các thông tin chủ
yếu dựa vào niên giám thống kê hàng năm, vì vậy số liệu thờng sẵn có ở tất cả các
xã, không tốn kém khi tiếp cận với nguồn thông tin này. Từ đây có thể có đợc


23
thông tin về số tử vong theo tuổi, giới và một số nguyên nhân tử vong ,khá đơn giản
và thờng không kiểm soát đợc độ chính xác về bệnh hoặc tai nạn dẫn đến tử vong
. Khi kết hợp với số liệu về dân số trong xã có thể tính đợc:
- Tỷ suất tử vong thô.
- Tỷ suất tử vong theo giới, theo nhóm tuổi.
- Những hạn chế chủ yếu:
Hệ thống sổ sách ghi chép tử vong ở TYT xã cũng nh từ sổ hộ khẩu của xã
thờng không đầy đủ cả về số chết và nguyên nhân chết. Một số nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế này là:
Không phải lúc nào, ở đâu và bất cứ ai ốm cũng đều đến TYT xã để chữa bệnh
hoặc cấp cứu trớc khi chết. Không ít trờng hợp chết ở nhà mà cha hề tiếp cận
với nhân viên y tế xã, y tế t nhân hoặc thày thuốc là ngời nhà đã chăm sóc họ
trớc khi chết. Nhiều lý do hạn chế sự tiếp xúc của họ với cơ sở y tế xã nh: đờng
xa, đi lại tốn kém, thái độ ứng xử, quan niệm về chết của ngời già (nhiều ngời
cho là già rồi không cần chữa, hoặc bệnh hiểm nghèo đành để chết ).
Không phải tất cả các trờng hợp chết trong xã đợc ghi nhận do không đợc cán
bộ y tế xã, thôn bản quản lý sức khoẻ tại nhà. Hoặc có đến nhà cũng ngại hỏi về
nguyên nhân chết vì cho rằng không nên gợi lại nỗi đau của gia đình. Nguyên nhân
chính vẫn là công tác ghi chép tử vong ở xã rất ít đợc nhắc nhở, kiểm soát do vậy
cán bộ y tế cũng coi thờng việc này. Các trờng hợp chết ghi lại vào sổ thờng
qua loa về nguyên nhân chết không ai kiểm tra lại, vì vậy tới phần nửa các trờng
hợp tử vong trong sổ A6 ghi là chết già.
Một số trờng hợp chết trẻ em sơ sinh bị bỏ sót cả trong sổ sách y tế và sổ hộ
khẩu. Trẻ còn nhỏ thờng cha khai sinh. Trẻ nhỏ có thể cha đặt tên, một số
trờng hợp đẻ ở nhà, đẻ con thứ 3 trở lên ngại khai báo. Một số trờng hợp đi bệnh
viện sinh mà xã không nắm đợc nên chết cũng không đ
ợc ghi nhận. Cho dù có
thể đối chiếu sổ khám thai với số sinh để tìm ra trờng hợp bị bỏ sót, song ít TYT
làm đợc việc này.

Chết liên quan đến chửa đẻ cũng ít đợc chú ý và thờng thể hiện trong sổ tử
vong ở TYT xã rất ít.
- Nguyên nhân lớn nhất vẫn là do ở nớc ta cha có chế độ khai báo TV chặt
chẽ. ở bệnh viện, việc mổ tử thi không bắt buộc làm cho các nguyên nhân chết
thiếu độ chính xác. Quản lý công tác thống kê y tế hiện nay còn rất lỏng lẻo và
thiếu đầu t, vì vậy cán bộ y tế không đủ kiến thức, nhận thức và nhiệt tình trong
ghi chép sổ sách.

24
2.2.2. Hệ thống theo dõi/ giám sát tử vong theo điểm Sentinel
Để tập trung đầu t kỹ thuật nhằm khống chế các nhợc điểm trên khi không đủ
năng lực kiểm soát chất lợng báo cáo định kỳ cho tất cả các xã, ngời ta chọn ra
một số xã làm điểm canh gác (sentinel), ở đây các trờng hợp tử vong đợc ghi
chép đầy đủ, chi tiết và chính xác hơn do cán bộ y tế đợc đào tạo, đợc giám sát
và việc ghi chép có thể đợc khuyến khích vật chất.
Ngoài các thông tin ghi vào sổ tử vong (A6) còn có các thông tin khác liên quan
tới ngời chết, ví dụ nh tình trạng tiêm chủng và dinh dỡng (đối với trẻ em) tình
trạng sử dụng các dịch vụ chăm sóc sản khoa (đối với phụ nữ). TYT xã có thể đợc
chọn vào danh sách các điểm theo dõi sentinel. Một số cách đại diện cho địa
phơng (theo các nguyên tắc chọn mẫu) đồng thời cũng phải có điều kiện về năng
lực cán bộ, đủ đội ngũ y tế thôn bản, sẵn sàng tham gia, có cán bộ đủ năng lực
chuyên môn để xác định nguyên nhân chết không có các cản trở lớn khác. ở nớc
ta, biện pháp này rất tiếc lại cha đợc chú ý và áp dụng trong thực tế, cho dù các
điều kiện đã rất tốt vì nhiều xã có bác sỹ và đội ngũ y tế thôn bản trong xã rộng
khắp.
Bệnh viện, nhà hộ sinh cũng là các điểm có thể đợc chọn vào hệ thống này, ở
đây năng lực chẩn đoán tốt hơn, điều kiện ghi chép tốt hơn. Tuy nhiên, chỉ phù hợp
với những bệnh mà khi mắc thờng phải đến bệnh viện để chữa. Các khu vực càng
nghèo, khả năng tiếp cận của nhân dân càng thấp cũng là các yếu tố cản trở. Do rất
nhiều trờng hợp khi phát hiện là bệnh không chữa đợc ngời ta sẽ xin ra viện để

về nhà, rồi sau đó chết ở nhà. Vì vậy, mô hình tử vong ở bệnh viện rất khác với mô
hình tử vong ở cộng đồng. Một ví dụ điển hình là trong 10 nguyên nhân tử vong
thờng gặp tại các BV Nhi không có nhóm nguyên nhân do tai nạn nhng các
nghiên cứu tại cộng đồng thì nhóm tử vong do tai nạn là 1 trong 3 nguyên nhân
hàng đầu [40, 50, 75].
Điều đáng chú ý nhất của theo dõi điểm sentinel là ở chỗ: cùng một điểm theo
dõi, các phơng pháp, kỹ thuật thu thập thông tin đợc thống nhất, chuẩn hoá và
kiểm soát chặt chẽ, vì vậy cho phép so sánh giữa các thời gian nhiều năm cho thấy
xu hớng biến động khá chắc chắn. Mặt khác, có thể cho phép so sánh giữa các địa
phơng khác nhau theo các đặc điểm địa lý, dân c, kinh tế - xã hội. Theo dõi điểm
sentinel cũng là phơng pháp ít tốn kém và nhiều u điểm hơn so với hệ thống báo
cáo y tế xã hiện nay.
2.2.3. Các điều tra tử vong chung và tử vong có trọng tâm đặc trng
Đây là các điều tra chọn mẫu, thờng sử dụng trong giám sát bệnh tật và tử vong.
Kết quả điều tra đa ra các nhận định sơ bộ về số hiện mắc, chết hoặc tỷ suất mới

×