Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động trồng nấm rơm ở xã phú lương, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.2 KB, 40 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việc nghiên cứu và sản xuất nấm trên thế giới ngày nay đã phát triển
mạnh mẽ, nó đã trở thành một ngành công nghiệp thực thụ và đã đưa lại
nguồn thu nhập khá lớn cho một số quốc gia. Với thành phần dinh dưỡng đặc
biệt và một số loại nấm có giá trị về mặt dược liệu nên ngành trồng nấm hiện
nay đang rất được chú trọng. Thế giới càng phát triển dân số ngày càng đông
trong khi diện tích sản xuất nông nghiệp đang bị thu hẹp do quá trình đô thị
hóa làm cho vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm càng trở nên cấp thiết đối
với mỗi quốc gia thì những ngành sản xuất thực phẩm như trồng nấm càng tỏ
ra thích hợp và mang lại hiệu quả.
Nấm Rơm là một loại thực phẩm có nhiều chất dinh dưỡng với hàm
lượng protein cao (2,66 – 5,05%) và 19 acid amin, trong đó có 9 loại acid
amin cần thiết cho cơ thể, không làm tăng lượng cholesterol trong máu. Ngoài
giá trị dinh dưỡng, nấm Rơm có thành phần chất xơ tương đối cao và thành
phần lipid thấp nên có khả năng phòng trừ bệnh về huyết áp, chống béo phì,
xơ cứng động mạch, chữa bệnh đường ruột,…Vì vậy nấm Rơm là nguồn thực
phẩm sạch có thể làm thực phẩm thay thế cho thịt, trứng
[2]
.
Xã Phú Lương, huyện Phú Vang đã được biết đến như một địa phương
trồng nấm nổi tiếng của tỉnh Thừa Thiên Huế với các loại nấm như nấm
Rơm, nấm Sò…Sản phẩm nấm của xã Phú Lương có chất lượng và số lượng
luôn đứng đầu toàn tỉnh. Đi đầu và mang tính dẫn dắt cho người dân đến với
nấm chính là Hợp Tác Xã Nông Nghiệp Phú Lương 1 khi HTX chính là nơi tổ
chức các lớp tập huấn, hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật trồng nấm cho xã
viên. Được tiếp cận với kỹ thuật trồng nấm, xã viên vừa tự sản xuất ở nhà vừa
tham gia sản xuất cho HTX. Điều đó là một thuận lợi cho xã viên và cho
chính HTX khi vừa có sự phối hợp giữa một đơn vị lớn và những tổ sản xuất
nhỏ, tạo sự linh hoạt trong sản xuất và kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế


cao. Gần đây, HTX Phú Lương 1 còn sản xuất thành công mô hình trồng nấm
Linh Chi dược liệu. Tuy mô hình đã xây dựng thành công nhưng việc nhân
rộng mô hình còn gặp khó khăn do kỹ thuật trồng nấm Linh Chi không đơn
giản, nguồn nguyên liệu lấy từ mùn cưa gỗ cao su và gỗ lim. Mùn cưa gỗ lim
hiếm hoi nên đây là khó khăn đối với HTX trong việc sản xuất và nhân rộng
mô hình.
Hoạt động trồng nấm tại địa phương, trong đó phát triển nhất là nấm
Rơm đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân trong vùng, nâng cao hiệu quả
kinh tế, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng thu nhập cho người
dân, đảm bảo kinh tế ổn định. Song hoạt động trồng nấm tại Phú Lương vẫn
còn gặp phải nhiều khó khăn đáng kể. Trên cơ sở đó tôi đã quyết định nghiên
cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động trồng nấm Rơm ở Xã
Phú Lương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2 Mục tiêu ngiên cứu:
- Lịch sử hình thành mô hình nấm Rơm và thực trạng sản xuất nấm Rơm
ở Phú Lương.
- Thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ nấm Rơm.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động trồng nấm Rơm.
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Các khái niệm liên quan
2.1.1 Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế
Theo giáo sư Nguyễn Tiên Mạnh: “Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng
(hay quá trình) kinh tế là phạm trù kinh tế phản ảnh trình độ sử dụng các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để đạt được mục tiêu xác định”.
Theo Farsell (1957), Fchult (1964), Rizzo (1979) và Elli (1993) cho
rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi so sánh giữa kết quả đạt được với
chi phí bỏ ra (nhân lực, vật lực, tài lực…)
Hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được
và chi phí bỏ ra, nó thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế như: Giá trị tổng sản

lượng, lợi nhuận… tính trên lượng chi phí đã bỏ ra.
Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối
và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Để đạt được
cùng một khối lượng sản phẩm người ta có thể bằng nhiều cách khác nhau
song do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu tăng lên của con người với sự hữu hạn
của nguồn tài nguyên, nên khi đánh giá kết quả của một quá trình sản xuất
kinh doanh cần phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào và mất bao
nhiêu chi phí.
2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
- Tổng giá trị sản xuất (GO): Là chỉ tiêu bểu hiện bằng tiền của toàn bộ
sản phẩm thu được trên một đơn vị diện tích canh tác trong một chu kỳ sản
xuất nhất định.
- Giá trị gia tăng (VA): Là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian, là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí trung gian của hoạt
động trồng nấm.
- Chi phí trung gian (IC): Là toàn bộ chi phí vật chất được sử dụng trong
quá trình tạo ra sản phẩm. Nó bao gồm toàn bộ chi phí vật chất và dịch vụ
mua, thuê ngoài của hộ trong hoạt động sản xuất.
VA = GO – IC
Trong đó: VA: Là giá trị gia tăng
GO: Là tổng giá trị sản xuất
IC: Là chi phí trung gian
- Giá trị sản xuất tính cho một đơn vị chi phí trung gian (GO/IC): Là chỉ
tiêu phản ánh về lượng số đơn vị giá trị sản xuất thu được khi bỏ ra một đơn
vị chi phí trung gian đầu tư sản xuất.
- Giá trị gia tăng tính chi một đơn vị chi phí trung gian (VA/IC): Là chỉ
tiêu phản ánh về lượng, cho biết cứ một đơn vị chi phí trung gian bỏ ra để đầu
tư cho nấm thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị gia tăng. Đây là chỉ tiêu quan
trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh tế đạt được.
- Giá trị gia tăng/lao động (VA/LĐ): Là chỉ tiêu phản ánh thu nhập tăng

thêm cho một lao động.
2.1.3 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Có nhiều phương pháp để xác định hiệu quả kinh tế song điều quan trọng
là chúng ta cần xác định chính xác kết quả thu được và chi phí phải bỏ ra cho
quá trình sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế
mà chúng ta xác định kết quả thu được sao cho phù hợp. Nếu mục tiêu của
doanh nghiệp là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu xã hội là chủ yếu
thì kết quả được sử dụng là tổng giá trị sản xuất (GO), nhưng với doanh
nghiệp hay trang trại phải thuê mướn nhân công thì kết quả thu được cần quan
tâm lại là lợi nhuận, còn đối với các nông hộ kết quả được quan tâm là thu
nhập hoặc thu nhập hỗn hợp.
Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là chi phí cho các yếu
tố đầu vào như đất đai, tư liệu sản xuất, lao động, tiền vốn, trình độ và công
nghệ. Tuỳ theo mục đích phân tích và nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có thể tính
toán toàn bộ hoặc cho từng yếu tố chi phí. Thông thường chi phí bỏ ra được
tính là tổng chi phí, tổng chi phí trung gian.
Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi
phí bỏ ra. Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế là sự so sánh về mặt lượng
giữa kết quả và chi phí sản xuất. Ta có công thức: H = Q/C
Trong đó: H: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả thu được
C: Chi phí bỏ ra
Phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem
xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả. Điều
này cho phép chúng ta so sánh hiệu quả ở các quy mô khác nhau.
[3]
2.2 Tổng quan về nghề trồng nấm trên thế giới
Ngành sản xuất nấm đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng trăm
năm nay. Chính nhờ những giá trị về mặt dinh dưỡng và giá trị về mặt dược
liệu mà ngành trồng nấm đang ngày càng phát triển trên thế giới. Nhiều giống

nấm đã được đem trồng với kỹ thuật tiên tiến và nó cũng trở thành một loại
dược phẩm ngày càng phổ biến trên thế giới. Bên cạnh giá trị về mặt dinh
dưỡng như nấm Rơm thì một số loại nấm rất có giá trị về mặt dược liệu như:
Nấm Đông Cô (Lentinut Edodes), nấm Bào Ngư (Pleurotus), nấm Chân Chim
(Schizophyllum), nấm Linh Chi (Ganoderma Lucidum), nấm Phục Linh(Poria
Cocos)
Hiện nay trên thế gới ghi nhận đã có hơn 2000 loài nấm ăn trong đó có
hơn 80 loài nấm ăn được nghiên cứu và nuôi trồng và nhất nhiều loài được
trồng làm dược liệu. Việc nghiên cứu nấm ăn, nấm dược liệu cũng như công
nghệ chế biến và bảo quản nấm trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Nó đã trở thành một ngành công nghiệp thực sự mang lại nhiều hiệu quả về
mặt kinh tế và xã hội cho các nước trên thế giới.
Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và sản xuất nấm
Mỡ, nấm Hương, nấm Sò, nấm Rơm là chủ yếu. Khu vực Bắc Mỹ và Châu
Âu trồng nấm theo phương pháp công nghiệp. Những nhà máy sản xuất nấm
Rơm có công suất từ 200 – 1000 tấn/năm được cơ giới hóa cao từ khâu xử lý
nguyên liệu đến thu hái chế biến đều do máy móc thực hiện. Năng suất trung
bình đạt từ 40 – 60% so với nguyên liệu ban đầu.
Khu vực Châu Á bao gồm Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan, Hàn Quốc,
Trung Quốc…Triển khai sản xuất nấm theo mô hình trang trại vừa và nhỏ,
đặc biệt là ở Trung Quốc nghề trồng nấm đã thực sự đi vào từng hộ nông dân.
Sản lượng nấm Mỡ, nấm Hương của Trung Quốc luôn đứng đầu thế giới
[2]
.
2.3 Một số điểm khái quát về ngành hàng sản xuất nấm ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu và phát triển nghề sản xuất nấm ăn ở Việt Nam bắt đầu
từ những năm 70 của thế kỷ 20.
- Năm 1984 thành lập và phát triển ngành sản xuất nấm ăn thuộc Đại học
tổng hợp Hà Nội.
- Năm 1985 được tổ chức FAO tài trợ và UBND thành phố Hà Nội quyết

định thành lập trung tâm sản xuất giống nấm Tương Mai - Hà Nội.
- Năm 1986 tổ chức FAO tài trợ UBND thành phố Hồ Chí Minh quyết
định thành lập xí nghiệp nấm thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có một số
đơn vị khác như: Công ty nấm Thanh Bình (tỉnh Thái Bình), xí nghiệp nấm
(thuộc tổng công ty rau quả Vegetexco), các công ty liên doanh sản xuất và
chế biến nấm ở miền Nam (công ty Meko ở Cần Thơ, Đà Lạt…)
Kể từ năm 1990, ở Việt Nam sản xuất nấm được xem là một ngành mang
lại hiệu quả kinh tế cao thu hút được nhiều sự tham gia của bà con nông dân.
Các loài nấm chính được sản xuất ở các trang trại miền Nam là nấm Sò và
nấm Rơm, còn ở miền Bắc bao gồm các loại nấm như nấm Hương, nấm Tai
Mèo, nấm Linh Chi. Trong những năm qua, sản xuất hàng năm đạt 1500 tấn
nấm tươi. Các vùng sản xuất nấm chính ở Việt Nam là Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình, Hưng Yên và Hà Nam (vùng đồng bằng sông Hồng có một số
lượng lớn nấm Hương), Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tây Ninh có quy mô lớn về
sản xuất nấm Rơm. Vùng sản xuất nấm Tai Mèo chính là Long Khánh tỉnh
Đồng Nai.
Khảng 60% số lượng nấm được bán cho thị trường trong nước chủ yếu là
sản phẩm nấm tươi, 40% còn lại được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài
với giá trị hàng năm đạt 40 tiệu USD. Các sản Phẩm nấm xuất khẩu chủ yếu
được đóng hộp và xuất khẩu bằng đường biển sang thị trường Hoa Kỳ, Nhật
Bản và Ý.
[4]
Hiện nay, việc trồng nấm được xem là nghề mang lại hiệu quả kinh
tế cao, sản lượng nấm tăng theo cấp số nhân qua các năm. Từ năm 1990, mới
đạt được vài trăm tấn nấm Rơm/năm, đến năm 2003 đã đạt được trên 40.000
tấn nấm Rơm/năm… Mỗi năm, cả nước sản xuất được khoảng 150.000 tấn
nấm nguyên liệu. Các tỉnh phía Nam đã và đang sản xuất nấm Rơm muối
đóng hộp với sản lượng hàng nghìn tấn/năm và xuất khẩu. Thị trường tiêu thụ
nấm ăn lớn nhất hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và các nước Châu Âu.
Mức tiêu thụ bình quân tính theo đầu người của Châu Âu và Châu Mỹ là 2 - 3

kg nấm/năm; ở Nhật, Úc khoảng 4 kg nấm/năm… Bên cạnh đó, ngay ở thị
trường trong nước, lượng nấm tiêu thụ cũng vài chục nghìn tấn/năm.
Nấm Rơm là loại thực phẩm được xếp vào loại rau sạch rất giàu dinh
dưỡng, có thể thay thế thịt, cá. Vì vậy, lượng cung của nấm luôn thấp hơn
nhu cầu. Ở nước ta, cụ thể là Đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng to lớn
để phát triển nghề nấm Rơm. Trong những mặt hàng rau xuất khẩu năm 2009,
kim ngạch xuất khẩu nấm luôn đạt cao nhất. Theo số liệu thống kê của Tổng
cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nấm 11 tháng trong năm 2009 đạt 17 triệu
USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ 2008.
2.4 Tình hình sản xuất và tiêu thụ nấm Rơm ở Huế
Hiện nay, trong số 10 loài nấm được sản xuất rộng rải ở các tỉnh thì nấm
Rơm được trồng nhiều nhất.
Nấm Rơm được dùng như một loại thực phẩm tươi giàu dinh dưỡng.
Mặc dù chi phí sản xuất và giá bán của nấm Rơm tương đối cao so với các
loại rau khác nhưng nó vẫn được sử dụng tương đối rộng rãi.
Ngoài các hộ gia đình, những khách hàng thường xuyên mua nấm tươi
chính là những khách sạn, nhà hàng phục vụ các món ăn đặc sản. Nấm Rơm
được chế biến thành nhiều món ăn ngon và cũng có thể chế biến kết hợp với
các loại thực phẩm khác như cá, tôm, thịt lợn, thịt gà.
Nghề trồng nấm ở Thừa Thiên Huế phát triển từ những năm 90 song quy
mô nhỏ lẻ, chủ yếu mang tính tự phát. Hiện nay hầu hết các huyện đều có
người trồng nấm. Nấm được phổ biến ở các huyện như Phú Vang, Quảng
Điền, Hương Trà, Hương Thuỷ…Nhu cầu về nấm trong tỉnh và cả nước ngày
càng tăng, hiện nay Thừa Thiên Huế cũng đã có sự quan tâm cho nghề nuôi
trồng nấm. Thị trường tiêu thụ nấm Rơm của tỉnh Thừa Thiên Huế là rất lớn,
số đông người dân theo đạo Phật do đó lượng tiêu thụ nấm là rất cao.
Ngày 13/01/2003 UBND Tỉnh đã có quyết định số 53/QĐ – UB về việc
ban hành quy định “ Một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư cho các làng
nghề trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”. Đây sẽ là cơ hội cho các ngành nghề
truyền thống, tiểu thủ công nghiệp nói chung và sản xuất nấm nói riêng ngày

càng phát triển.
2.5 Tình hình sản xuất nấm Rơm tại huyện Phú Vang
Huyện Phú Vang là vùng trọng điểm lúa của cả tỉnh, diện tích lúa hàng
năm trên 10.000 ha. Trong những năm qua huyện đã tích cực chuyển đổi cơ
cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển ngành nghề
để tăng thu nhập cho nông dân. Được biết nấm Rơm là nguồn thức ăn có giá
trị dinh dưỡng cao, thức ăn sạch, việc sản xuất nấm Rơm còn tận dụng nguồn
nguyên liệu sẵn có tại địa phương, giải quyết nguồn lao động nhàn rỗi, ngoài
ra bã nấm sau thu hoạch sẽ làm phân hữu cơ cho các cây trồng. Vì vậy từ năm
2002 đến nay được sự chỉ đạo và hỗ trợ của UBND huyện, phòng nông
nghiệp phối hợp với trung tâm Khuyến nông khuyến lâm tỉnh tổ chức nhiều
lớp tập huấn, thực hiện các mô hình thâm canh nấm Rơm ở các xã Phú
Lương, Phú Đa và Vinh Thái. Nên nghề sản xuất nấm Rơm phát triển rất
mạnh, tuy nhiên bà con nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn như không chủ
động về nguồn giống, sản phẩm chủ yếu bán cho các tư thương nên nhiều khi
bị ép giá so với thị trường.
Tóm lại, nghề nấm hình thành cách đây hơn 10 năm, với ban đầu chỉ có
số ít hộ tham gia nhưng sau khi có hiệu quả mọi người đã mạnh dạn nhân
rộng ra, kết hợp với các chương trình khuyến nông về nấm của tỉnh, của
huyện như: Tập huấn kĩ thuật, thực hiện mô hình thâm canh nấm Rơm, nấm
Sò ở Phú Lương, Phú Đa… Số lượng hộ sản xuất ngày càng tăng lên với quy
mô lớn hơn. Huyện đã có dự án thành lập nghề nấm ở 3 thôn vùng trên của xã
Phú Lương, có các dự án xây dựng cơ sở sản xuất meo nấm ở HTX Phú
Lương 1 và Phú Đa, dự án xây dựng cơ sở chế biến nấm Rơm đóng hộp, nấm
Rơm sấy khô ở xã Phú Đa, các chương trình hỗ trợ cho người sản xuất như
vay vốn qua hội phụ nữ, hội nông dân huyện…, tạo điều kiện cho bà con yên
tâm sản xuất nâng cao thu nhập cho gia đình, thực hiện chủ trương phát triển
nông nghiệp nông thôn, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành
nghề giải quyết lao động lúc nông nhàn. Đồng thời góp phần cải thiện cuộc
sống cho người dân thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở huyện nhà.

PHẦN 3
NỘI DUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những hộ gia đình trồng nấm Rơm ở xã Phú
Lương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi: Xã Phú Lương, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 1-5 năm 2011.
3.3 Nội dung nghiên cứu:
3.3.1 Những thông tin chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Phú
Lương
3.3.2 Lịch sử hình thành mô hình nấm Rơm và thực trạng sản xuất nấm Rơm
ở Phú Lương
3.3.2.1 Lịch sử hình thành mô hình nấm Rơm
3.3.2.2 Thực trạng sản xuất nấm Rơm ở xã Phú Lương
3.3.3 Thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ nấm Rơm
3.3.3.1 Thuận lợi, khó khăn trong sản xuất của người dân
3.3.3.2 Cách khắc phục khó khăn của người dân
3.3.4 Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình trồng nấm Rơm
3.3.4.1 Hiệu quả về mặt kinh tế
3.3.4.2 Hiệu quả về mặt xã hội
3.3.4.3 Hiệu quả về mặt môi trường
3.4 Phương pháp nghiên cứu:
3.4.1 Phương Pháp chọn mẫu:
- Khảo sát trực tiếp 30 hộ trồng nấm Rơm tại 3 thôn Vĩnh Lưu, Lê Xá
Đông, Đông B của xã Phú Lương, chọn ngẫu nhiên mỗi thôn 10 hộ có trồng
nấm Rơm. Vì tại 3 thôn này tập trung nhiều hộ trồng nấm Rơm, tổng số hộ
trồng nấm Rơm của 3 thôn này chiếm tới 26% số hộ toàn xã.
- Tiêu chí chọn mẫu: Phải là hộ trồng nấm Rơm, bao gồm cả 2 loại hộ:
Nghèo và không nghèo (các hộ được phân loại theo tiêu chuẩn mới của Bộ

Lao động thương binh và xã hội).
3.4.2 Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp:
- Thu thập thông tin liên quan đến xã Phú Lương thông qua các tài liệu
thống kê, các báo cáo tổng kết của xã Phú Lương.
- Tập hợp và tham khảo thông tin thông qua các tài liệu, sách báo, mạng
internet
3.4.3 Phương Pháp thu thập thông tin sơ cấp:
- Phỏng vấn các hộ gia đình thông qua bảng hỏi bán cấu trúc.
- Phỏng vấn sâu chủ tịch xã, phó chủ tịch xã và các người liên quan.
3.4.4 Phương pháp xử lý, tổng hợp số liệu:
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2003.
- Phân tích định tính và định lượng để mô tả, phân tích các chỉ tiêu
nghiên cứu.
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Vị trí địa lý,điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Phú
Lương
4.1.1 Vị trí địa lý
Xã Phú Lương là một xã vùng ven thành phố, cách thành phố Huế
khoảng 10 km, có vị trí địa lý thuận lợi:
+ Phía Đông giáp với xã Phú Đa.
+ Phía Tây giáp với xã Phú Hồ, xã Thủy Châu của Hương Thủy.
+ Phía Nam giáp với xã Thủy Lương của Hương Thủy.
+ Phía Bắc giáp với xã Phú Hồ, Phú Xuân.
Do có vị trí giáp với các xã khác nên thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế,
văn hóa, xã hội. Đặc biệt, xã có đường tỉnh lộ 10 chạy ngang qua, càng thuận
tiện cho việc lưu thông, trao đổi buôn bán giữa các vùng.
4.1.2 Đặc điểm tự nhiên của xã Phú Lương
4.1.2.1 Địa hình, đất đai
Là một xã đồng bằng, hàng năm thường bị ngập úng vào mùa mưa, bị

hạn vào mùa khô. Điều này đã ảnh hưởng nhiều đến việc sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất nấm Rơm nói riêng của xã.
Phú Lương có một phần diện tích thuộc vùng đất trũng, chủ yếu ở 2 hợp
tác xã Phú Lương II và III nên sản xuất nấm gặp nhiều khó khăn ở đây
chủ yếu sản xuất nông nghiệp, sản xuất nấm ở 2 hợp tác xã này chủ yếu thích
hợp từ tháng 4 đến tháng 10. Hợp tác xã Phú Lương I nằm ở vùng cao hơn
nên có nhiều thuận lợi hơn để trồng nghề nấm phát triển, người dân ở vùng
này trồng nấm quanh năm.
Bảng 1: Tình hình sử dụng đất của xã Phú Lương
Hình thức sử dụng Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)
1. Đất nông nghiệp 1.154,37 63,74
2. Đất lâm nghiệp 55,00 3,04
3. Đất nuôi trồng thủy
sản
26,30 1,45
4. Đất ở 96,00 5,30
5. Đất chuyên dùng 226,21 12,49
6. Đất chưa sử dụng 241,34 13,98
Tổng diện tích 1.811,00 100,00
(Nguồn: Phòng thống kê xã Phú Lương)
4.1.2.2 Khí hậu thời tiết
Xã Phú Lương cũng như các xã khác của huyện Phú Vang đều chịu sự
chi phối chung của khí hậu nội chí tuyến nhiệt đới gió mùa, có ảnh hưởng của
khí hậu đại dương, vì vậy có những đặc trưng về thời tiết, khí hậu là: Nhiệt độ
cao đều quanh năm (25
0
C – 39,8
0
C), lượng mưa biến động theo mùa khá rõ
ràng (mùa mưa và mùa khô) và chịu ảnh hưởng nhiều của bão. Nằm trong

vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm của vùng ven biển, có hai mùa mưa,
nắng rõ rệt. Mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các
tháng 9, 10, 11 và 12 gây úng lụt ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cũng
như đời sống của nhân dân. Mùa nắng gió Tây - Nam khô nóng oi bức, bắt
đầu từ tháng 3 đến tháng 8, lượng bốc hơi cao nhất là từ tháng 2 đến tháng 4
(lúc nước thủy triều thấp). So với các vùng khác của huyện Phú Vang, xã Phú
Lương nằm trong tiểu vùng có điều kiện khí hậu thời tiết thuận lợi để phát
triển nghề trồng nấm Rơm, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân.
4.1.3 Đặc điểm kinh tế - xã hội
4.1.3.1 Dân số
Dân số của xã có 6.581 người với 1.343 hộ gia đình, trong đó số hộ làm
nông nghiệp là 1.131 hộ, chiếm 84,29%, hộ phi nông nghiệp là 212 hộ, chiếm
15,78%, qua đó ta nhận thấy được các hộ gia đình của xã Phú Lương phần lớn
tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp, thu nhập chính là từ nghề nông.
Tỷ lệ tăng dân số năm 2010 là 1,11% giảm 0,01% so với năm 2009.
Tỷ lệ sinh con thứ 3 là 23,52% giảm 2,4% năm 2009.
Qua đó, ta thấy được xã Phú Lương trong năm 2010 đã làm tốt công tác
tuyên truyền, đảm bảo kế hoạch hóa gia đình cho hầu hết người dân. Đặc biệt,
công tác đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân quan tâm hơn nữa để đảm
bảo sức khỏe cho trẻ em và để trẻ có điều kiện phát triển toàn diện cũng được
xã chú trọng. Song hiện nay, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao 15,7%,
giảm 0,77% so với năm 2009
[1]
.
4.1.3.2 Lao động, việc làm
Năm 2010, xã đã đưa 01 lao động đi làm việc ở nước ngoài đạt 12,5%
chỉ tiêu huyện giao, ngoài ra còn tạo điều kiện cho nhiều lao động tham gia
làm việc ở các công ty trong và ngoài tỉnh. Hơn nữa, việc sản xuất nấm Rơm
của xã đang ngày càng phát triển, hiện nay thì toàn xã đã có 566 hộ trồng nấm
Rơm với hơn 900 vòm, đây là nguồn thu nhập chính của người dân, tạo ra

công ăn việc làm ổn định, nâng cao mức sống, tăng kinh tế hộ gia đình. Và
trong năm nay đã có chủ trương chính sách xây dựng làng nghề trồng nấm
của xã Phú Lương, hiện vốn đầu tư ban đầu là 200 triệu, đây cũng là bước đầu
khởi sắc, đem lại hy vọng lớn đối với người lao động. Việc quy hoạch lại cơ
sở hạ tầng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng dịch vụ để từng bước đưa một vùng
trồng nấm lâu đời thành một làng nghề phục vụ cho du lịch, ẩm thực sẽ là
thuận lợi lớn trong việc giải quyết việc làm cho người dân trong những năm
sắp tới
[1]
.
4.1.3.3 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
-Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Xã đã tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả việc phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cùng một số ngành nghề có trên địa
bàn như cơ khí phục vụ nông nghiệp, mộc, nề, may mặc…
Hơn nữa, xã đã duy trì thực hiện việc ứng dụng KHKT vào sản xuất meo
nấm Sò và nấm dược liệu có giá trị kinh tế cao.
- Về sản xuất nông nghiệp
+ Trồng trọt:
Bảng 2: Diện tích đất trồng trọt qua 2 năm 2009, 2010
Loại cây Năm 2009 Năm 2010
Tổng diện tích gieo trồng (ha) 2.218,40 2.241,67
Diện tích Lúa (ha) 2.200,40 2.232,67
Diện tích màu và cây công nghiệp (ha) 18,00 9,00
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội 2009, 2010 xã Phú Lương)
Tổng diện tích gieo trồng năm 2010 là 2.241,67 ha. Trong đó diện tích
lúa: 2.232,67 ha đạt 100% kế hoạch, tăng 0,7% năm 2009; Nguyên nhân tăng
diện tích gieo trông lúa là do chuyển từ diện tích màu sang.
Do triển khai có hiệu quả tăng năng suất cuối vụ đạt năng suất 61,89
tạ/ha tăng 1,14% so với kế hoạch, sản lượng 13.819 tấn đạt 101,52% kế

hoạch.
Diện tích màu và cây công nghiệp năm 2010: 9 ha.
+ Chăn nuôi:
Đối với lĩnh vực nuôi cá nước ngọt, trong năm thực hiện được 01 vụ với
9,6 ha, tổng thu 750.000 đồng – 800.000 đồng/ha. Hiện tại, công tác nuôi các
được nhân dân hưởng ứng chưa cao do nhiều nguyên nhân như kỹ thuật nuôi
cá còn thiếu, việc đầu ra không được ổn định. Bên cạnh đó, bờ bao khoanh
vùng, thửa cũng chưa được đảm bảo.
Việc tích cực trong công tác khuyến nông, đưa con giống, đảm bảo nuôi
gia súc, gia cầm đúng kĩ thuật, phòng trừ dịch bệnh đã phát triển chăn nuôi
của xã.
Đến nay đàn trâu có 85 con giảm 103 con so với năm 2009.
Đàn bò có 70 con giảm 45 con so với cùng kỳ năm trước.
Đàn lợn có 6.500 con tăng 1.490 con (lợn nái 330 con).
Tổng đàn gia cầm là 89.000 con tăng 1500 con.
Đặc biệt trong năm 2009, xã đã phát triển 02 trang trại chăn nuôi lợn và
gà công nghiệp, 09 trang trại chăn nuôi thủy cầm. Ước tính tổng thu nhập tăng
lên hàng trăm triệu đồng, đây là mô hình mới làm ăn có hiệu quả, cần nhân
rộng trên địa bàn toàn xã.
- Cơ sở hạ tầng, giao thông, thủy lợi
Cơ sở hạ tầng đang ngày càng nâng cấp, xã đã triển khai xây dựng nhiều
dự án như 02 hội trường của thôn Lê Xá Trung và Lương Lộc, xây dựng hoàn
thành và đưa vào sử dụng công trình chợ của xã tại thôn Khê Xá, phục vụ cho
giao lưu buôn bán. Tiến hành xây dựng cầu quán Đông A, triển khai thực hiện
xong 1,5 km bê tông nông thôn ….
- Về lĩnh vực giáo dục - thông tin văn hóa
Ngành giáo dục ở xã Phú Lương trong những năm gần đây đã được
chính quyền địa phương, cơ quan đoàn thể quan tâm đầu tư đúng mức. Ngành
giáo dục và đào tạo của xã có nhiều chuyển biến tích cực, cơ sở vật chất
(trường lớp, dụng cụ học tập ), phục vụ cho dạy và học các cấp học, ngành

học được xây dựng và phát triển, được lãnh đạo xã quan tâm và vận động
nhân dân bỏ ra hàng trăm triệu đồng để đầu tư.
- Y tế
Y tế của xã trong năm qua ổn định, hoạt động có hiệu quả, hoàn thành
100% kế hoạch chương trình tiêm chủng mở rộng, triển khai có hiệu quả
chương trình mục tiêu quốc gia chống các bệnh xã hội, thực hiện chính sách
BHYT cho tất cả các đối tượng, làm tốt công tác khám và chữa bệnh tại trạm
y tế
[1]
.
4.2 Lịch sử hình thành mô hình nấm Rơm và Thực trạng sản xuất nấm
Rơm ở Phú Lương
4.2.1 Lịch sử hình thành mô hình nấm Rơm
Nghề trồng nấm Rơm ở Phú Lương đã có hơn 10 năm nay, ban đầu là tự
phát nhưng sau đó nhận định thấy đây là một nghề có hiệu quả kinh tế, hợp
tác xã Phú Lương 1 đã đầu tư thuê thầy ở HTX Hương ở Phú Yên hướng dẫn
thêm về khâu kĩ thuật làm nấm Rơm cho bà con xã viên. Tham gia đợt tập
huấn này có 45 người tham gia. Từ năm 2002 đến nay được sự chỉ đạo và hỗ
trợ của UBND huyện, phòng nông nghiệp huyện phối hợp với Trung tâm
Khuyến nông khuyến lâm tỉnh cũng tổ chức được nhiều lớp tập huấn trên địa
bàn toàn xã. Nhận thấy đây là nghề tạo được thu nhập nên bà con toàn xã
tham gia học hỏi, trồng thử dần dần nghề trồng nấm Rơm đã phát triển ra toàn
xã Phú Lương. Vào đầu năm 2004, HTX Phú Lương 1 cử xã viên Nguyễn
Thụ đi học tập kỹ thuật trồng nấm Linh Chi, Sò, Mộc Nhĩ ở Viện Di truyền
học Hà Nội và thực nghiệm trồng nấm Linh Chi ở Hợp tác xã Hương ở tỉnh
Phú Yên. HTX cũng tổ chức được nhiều lớp tập huấn về trồng nấm Sò và
Mộc Nhĩ. Đây có thể nói là một bước ngoặt cho sự phát triển nghề trồng nấm
ở xã Phú Lương nói riêng và cả huyện Phú Vang nói chung, khi không chỉ
nấm thực phẩm được trồng mà cả nấm dược phẩm cũng được HTX Phú
Lương 1 tiếp cận.

4.2.2 Thực trạng sản xuất nấm Rơm ở xã Phú Lương
Việc sản xuất nấm Rơm của xã Phú Lương ngày càng phát triển trong
những năm gần đây. Qua đó ta thấy được, những năm gần đây đã có sự đầu tư
đáng kể cho nghề trồng nấm Rơm của toàn xã, mỗi hộ gia đình đã tăng số
lượng vòm nấm từ 1, 2 đến 3 vòm. Qua các năm, năng suất cũng tăng nhưng
không đáng kể, phần lớn người dân ít chú trọng vào việc nâng cao kĩ thuật
trồng nấm Rơm, chỉ dựa vào kinh nghiệm làm nấm lâu năm.
Bảng 3: Năng suất, sản lượng nấm Rơm Xã Phú Lương (2007-2010)
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2007 2008 2009 2010
Tổng số hộ Hộ 450 480 510 566
Số lượng vòm Vòm 668 751 865 900
Năng suất BQ Tạ/vòm 2,85 2,96 3,08 3,15
Sản lượng Tấn 190,3 222,2 266,4 277,8
(Nguồn: Phòng thống kê xã Phú lương 2010)
Nghề làm nấm Rơm phát triển ở xã Phú Lương trong khoảng 10 năm
qua. Nghề làm nấm ra đời phát triển bên cạnh các nghề phụ như chăn nuôi và
chằm nón của những người dân trong xã. Toàn xã có 566/1343 hộ tham gia
hoạt động trồng nấm, chiếm 42,1%. Đặc biệt ở thôn Lê Xá Đông có 120 hộ
tham gia, Đông B hơn 80, Vĩnh Lưu 150, tổng số hộ trồng nấm của 3 thôn
này chiếm tới 26% số hộ toàn xã.
Bảng 4: Số hộ tham gia sản xuất nấm Rơm ở các thôn của xã Phú Lương
năm 2010
Thứ
tự
Thôn Tổng số hộ của
thôn
Số hộ sản xuất
nấm Rơm
Tỷ lệ (%)
1 Giang Trung 91 36 39,5

2 Giang Đông A 85 13 15,3
3 Giang Đông B 123 83 67,5
4 Giang Tây 129 32 24,8
5 Khê Xá 99 40 40,4
6 Lê Xá Đông 215 120 55,8
7 Lê Xá Trung 57 6 10,5
8 Lê Xá Tây 211 36 17,0
9 Lương Lộc 129 50 38,8
10 Vĩnh Lưu 205 150 73,2
Tổng 1.343 566 42,1
(Nguồn: Phòng thống kê xã Phú Lương 2010)
4.3 Đặc điểm các hộ trồng nấm Rơm khảo sát tại Phú Lương
4.3.1 Tình hình nhân khẩu, lao động của các hộ điều tra
Bảng 5: Tình hình nhân khẩu, lao động của các hộ điều tra
(Tính BQ/hộ)
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng Tỉ trọng (%)
Số nhân khẩu Khẩu 5,23 100,0
Số lao động LĐ 2,07 39,5
Số khẩu/lao động Khẩu/LĐ 2,53 -
Tuổi của chủ hộ Tuổi 49,67 -
Năm sản xuất
nấm Rơm
Năm 7,80 -
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
Qua số liệu điều tra, ta thấy số nhân khẩu BQ/hộ là 5,23 khẩu, Số lượng
lao động trong gia đình là 2,07 chiếm 39,5%, mỗi nhà có từ 2 đến 3 lao động
đây là lực lượng lao động chính để phát triển kinh tế hộ gia đình. Hầu hết số
lượng lao động trong gia đình làm nông nghiệp, chứng tỏ nghề nông mang lại
thu nhập chủ yếu cho người dân, một phần nhỏ làm các ngành nghề phụ khác
cũng góp phần không nhỏ để nâng cao cuộc sống gia đình. Nhưng vào những

ngày mùa họ cũng tham gia sản xuất nông nghiệp.
Số khẩu/LĐ là 2,53 điều này cho thấy cứ mỗi lao động trong gia đình
phải gánh vác, nuôi trung bình thêm 1,53 khẩu, do đó có nhiều khó khăn, tạo
động lực cho việc ngày càng nâng cao thu nhập ổn định cuộc sống gia đình
của người dân.
Số năm kinh nghiệm là 7,8 năm, chứng tỏ người dân bắt đầu trồng nấm
Rơm cũng đã lâu. Nếu như được chính quyền địa phương đầu tư về kĩ thuật,
giống, vốn thì chắc chắn cùng với kinh nghiệm sẵn có của mỗi hộ gia đình, sẽ
phát triển được hoạt động trồng nấm ở xã Phú Lương.
4.3.2 Tình hình sử dụng đất
Diện tích BQ/hộ của địa phương là 21,25 sào, trong đó đất ở là 1,52 sào
chiếm 7,15%, trong 1,52 sào đó sử dụng làm nhà chỉ 0,17 sào chiếm 11,36%,
còn 88,64% còn lại sử dụng để sản xuất nấm Rơm, trồng một số cây ăn quả
dài và ngắn ngày, rau, đậu…Tùy theo diện tích đất vườn nhà và khả năng sản
xuất mà mỗi hộ đầu tư từ 1 đến 3 vòm nấm, cũng đem lại một phần thu nhập
cho gia đình. Đất canh tác là 19,73 sào chiếm 92,85%. Diện tích đất canh tác
được mỗi hộ gia đình xã Phú Lương phần lớn sử dụng cho việc trồng lúa, cứ
mỗi hộ trung bình có 19,5 sào ruộng, thu hoạch mỗi năm 2 vụ, đem lại thu
nhập chính cho người dân.
Bảng 6: Tình hình sử dụng đất của các hộ điều tra (tính BQ/hộ)
Chỉ tiêu Diện tích (sào) Cơ cấu (%)
Tổng diện tích
21,25 100,00
1 Đất ở
1,52
7,15
1.1 Đất làm nhà
0,17 11,36
1.2 Đất vườn
1,35 88,64

2 Đất canh tác
19,73 92,85
2.1 Đất trồng lúa
19,50 98,82
2.2 Đất màu,nuôi cá
0,23 1,18
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
4.3.3 Quy mô trồng nấm Rơm của các hộ điều tra
Bảng 7: Quy mô trồng nấm của các hộ điều tra
Số vòm nấm Số hộ Tỉ lệ (%)
2 Vòm 28 93,3
3 Vòm 2 6,7
Tổng 30 100,0
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
Trong 30 hộ điều tra, có 28 hộ trồng 2 vòm nấm chiếm 93,3% tổng số, có
2 hộ làm 3 vòm chiếm 6,7%. Nhìn chung, phần lớn người dân xem đây là
nghề phụ mang lại giá trị kinh tế cao. Họ trồng 2 vòm nấm chủ yếu, quy mô
dần được mở rộng thêm. Một số nhà đã tạo cho mình 3 vòm nấm, sử dụng
nguồn lực gia đình, thuê lao động ngoài, cùng với lượng rơm sẵn có sau mỗi
vụ thu hoạch để sản xuất nấm Rơm, góp phần tăng năng suất, sản lượng cho
mỗi lứa nấm, nâng cao thu nhập cho gia đình.
4.3.4 Tình hình đầu tư sản xuất nấm Rơm
Bảng 8: Chi phí làm một vòm nấm
( Đvt: 1.000đ)
Loại chi phí Đơn vị
tính
Số lượng Đơn giá Thành tiền
Tre Cây 50 15 750
Rơm Sào 2 20 40
Dây buộc Kg 2 40 80

Đinh Kg 3 20 60
Nilon Kg 10 40 400
Lao động Công 6 100 600
Khác - - - 100
Tổng cộng 2.030
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
Bảng trên phản ánh tình hình đầu tư chi phí cho việc làm 1 vòm nấm, để
có thể đạt hiệu quả cao, năng suất cao, người trồng nấm cần chú ý, quan tâm
đến công đoạn làm nhà vòm, bởi vì nhiệt độ trong vòm nấm phải được đảm
bảo và thời gian sử dụng bình quân cho 1 nhà vòm là khoảng 3 năm do vậy
phải thường xuyên tu sữa để đảm bảo nhiệt độ nhà vòm thích hợp. Qua các hộ
đã điều tra, bình quân họ bỏ ra đầu tư chi phí khoảng 2.030.000 đồng cho 1
nhà vòm, tiền công làm vòm tổng cộng 600.000, tiếp theo là chi phí cho việc
mua nilon phủ và tre. Đối với nilon phủ, mùa nắng người trồng nấm thường
sử dụng 1 lớp nilon, vì mùa này nhiệt độ thường cao, còn vào mùa mưa thì
người dân dùng 2 lớp nilon phủ để tăng giữ nhiệt độ nhà vòm tốt hơn. Đối với
việc dùng tre cho làm vòm, một số nhà tận dụng tre trong vườn, giảm bớt tiền
mua tre, cũng đỡ một phần chi phí, bởi tiền mua tre cũng khá cao. Việc đầu tư
làm nhà vòm đúng quy cách, kĩ thuật sẽ góp phần nâng cao sản lượng nấm
cho mỗi lứa trong năm.
Bảng 9: Chi phí cố định của các hộ khi sản xuất nấm Rơm
(Đvt: 1.000đ)
Hạng mục Số lượng Chi phí
đơn vị
Tổng chi phí
Vòm - - 2.030
Máy bơm nước (Cái) 1 1.500 1.500
Bình phun nước (Cái) 1 70 70
Khuôn (Cái) 2 30 60
Nylon gói bánh Rơm (Kg) 15 40 600

Dây buột bánh Rơm (kg) 1 40 40
Tổng cộng 4.300
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
Bảng 10: Chi phí trung gian sản xuất nấm một lứa nấm Rơm
(tính BQ lứa/vòm)
(Đvt: 1.000đ)
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Mùa nắng Mùa mưa
Số
lượng
Đơn
giá
Thành
tiền
Số
lượng
Đơn
giá
Thành
tiền
Meo giống Bánh meo 60 2,5 150 80 2,5 200
Rơm Sào 2,2 20 44 2,7 20 54
Vôi Kg 10 2 20 10 2 20
Thuê nhân công
Công 1 100 100 1 100 100
Nước Khối 10 2,5 25 10 2,5 25
Điện Chữ - - - 10 1,2 12
Tổng cộng - - 339 - - 411
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

Qua số liệu điều tra 30 hộ trồng nấm của xã Phú Lương, thấy rằng có sự
khác biệt về mức đầu tư chi phí giữa 2 vụ: Mùa nắng và mùa mưa.
Đối với vụ mùa nắng, người dân đầu tư chi phí trung gian BQ/vòm/lứa là
339 nghìn đồng. Trong đó, người dân chi khoảng 150 nghìn đồng cho việc
mua meo giống. Chi phí này khá cao trong tổng chi phí trung gian. Họ sử
dụng trung bình khoảng 60 bánh meo/vòm/lứa để dùng cho 400 - 450 bánh
rơm/vòm/lứa. Song chất lượng của meo giống thường không ổn định, số
lượng cũng theo mùa.
Phần lớn, người dân sử dụng công gia đình trong quá trình sản xuất,
chăm sóc và thu hoạch. Bên cạnh nguồn rơm sẵn có sau vụ thu hoạch lúa,
người dân cũng phải mua thêm rơm từ các xã lân cận.
Đối với vụ mùa mưa, chi phí trung gian BQ/vòm/lứa là 411 nghìn đồng
tăng khoảng hơn 70 nghìn đồng so với vụ mùa nắng. Vào mùa này, người dân
sản xuất trung bình khoảng 500 bánh rơm/vòm/lứa. Do mùa mưa nhiệt độ
thấp, nên việc phát triển của nấm gặp nhiều hạn chế, tỷ lệ nấm phát triển thấp
nên người dân đầu phải tăng số lượng bánh rơm lên để tạo nhiệt cho vòm
nấm. Hơn nữa, vào mùa mưa, việc sản xuất của người dân cũng gặp nhiều
khó khăn, họ phải chi tiền thêm cho than, điện, lò sưởi…
4.3.5 Tình hình tiêu thụ nấm Rơm
4.3.5.1 Hình thức tiêu thụ
Sơ đồ 1: Mô hình chuỗi cung nấm Rơm
(Nguồn: Số liệu điều tra 2011)
Theo điều tra phỏng vấn của 30 hộ trồng nấm Rơm, phần lớn 95% sản
phẩm nấm được người dân bán thẳng cho người thu gom tại địa phương, rất ít
hộ đem sản phẩm của mình bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Do lượng nấm
Rơm mỗi ngày thu hoạch cũng thất thường, việc thu gom, mua bán giá cả
cũng gặp không ít khó khăn cho cả người sản xuất và người đi thu mua.
Vào thời điểm thu hoạch sản phẩm, người dân phần lớn chịu nhiều thiệt
thòi về giá cả hoặc bị ép giá, song những khi hụt hàng lại được nhận tiền mặt
ngay, và có quyền bán cho người thu gom nào trả giá cao hơn. Đối với một số

Người
sản xuất
Người thu
gom tại địa
phương
Người thu
mua tại chợ
đầu mối
Người bán
lẻ
Người tiêu
dùng
30 %
70%
95 %
5 %
90%
10%
hộ, thay vì bán cho các nhà thu gom ở địa phương, một số hộ tự mình đem
sản phẩm đến bán ở chợ địa phương. Tuy vất vả nhưng họ tránh được việc
mua ép giá, và cũng giảm mức chênh lệch giá do bỏ qua đối tượng trung gian
thu gom. Hình thức này không phát triển nhiều bởi hiện nay quy mô làm nấm
của hộ gia đình cũng không lớn chỉ làm nhỏ lẽ, mỗi hộ làm từ 1-3 vòm nấm,
sản xuất lại không tập trung nên sản lượng thu hoạch một lần rất nhỏ, nếu đi
bán ở ngoài cũng không bỏ công đi chợ. Vì vậy khi thấy bán cho các tư
thương giá rẻ quá hoặc thu hoạch chậm thì mới đưa ra chợ bán.
Theo điều tra thực tiễn ở xã Phú Lương, nhận thấy rằng 30% người thu
gom tại địa phương cũng làm người bán buôn nhỏ.
Tác nhân thu gom chủ yếu là những người ở vùng lân cận, cùng xã. Phần
lớn, họ đi thu mua ở những hộ quen, việc thu mua vào lúc sáng sớm. Lấy nấm

xong họ vận chuyển nấm đi bán lại cho người thu gom lớn ở chợ Đông Ba,
Bãi Dâu. Một số bán lại một sản lượng nhỏ nấm cho người bán lẻ ở địa
phương.
Việc thu mua của nhà bán buôn ở chợ đầu mối khá đơn giản, sáng sớm
họ đã chuẩn bị mọi thứ cho một đợt thu gom nấm với sản lượng khá lớn như
cân, các khay đựng nấm, trải bạt Sản lượng nấm mỗi ngày là 300-500 kg, có
lúc rất nhiều đến 1 - 2 tấn. Đến khi người đi thu mua nấm ở các địa phương
đến, mà phần đông là người thu gom nấm của xã Phú Lương, họ chỉ việc cân
kg rồi trả tiền vì đã có ấn định hoa hồng sẵn.
4.3.5.2 Giá cả sản phẩm
Bảng 11: Giá bán nấm Rơm bình quân trên kg
(Đvt:1.000đ)
Giá bán
Mùa nắng Mùa mưa
Trung bình
cả năm
Ngày thường 30,0 80,0 55,0
Các ngày đặc
biệt(30, mồng 1,
14, rằm)
50,0 120,0 85,0
Giá trung bình
32,5 85,5 59,0
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)
Về giá cả thông thường ổn định, sự chênh lệch giá qua các khâu trung
gian lớn, đối với hình thức người sản xuất bán trực tiếp cho các tư thương thì
chênh lệch giá cả thường ít hơn do người bán là người quyết định giá. Còn
hình thức bỏ mối thì người thu gom chỉ với vai trò là người vận chuyển, hầu
hết người sản xuất và các khâu trung gian đều không biết trước giá cả của sản
phẩm mình là bao nhiêu, giá cả do các đại lý ở chợ đầu mối quyết định: Giá

cao hay thấp phụ thuộc vào thị trường, nếu thị trường hụt nấm thì các đại lý sẽ
trả giá cao và ngược lại dư nấm thì giá rẻ. Do thị trường không hoàn hảo,
cùng với truyền thống bỏ mối của người dân nên hiện tượng ép giá thường
xuyên xảy ra, người sản xuất không có quyền quyết định giá cả của sản phẩm
mình. Trong thời gian gần đây, nhiều hộ gia đình sản xuất với quy mô lớn, họ
đã làm chủ phần nào của giá cả của mình nhờ vào kinh nghiệm bố trí quá
trình sản xuất cho nấm ra vào trúng ngày lễ, kịp thời nắm bắt các thông tin thị
trường để có thể bán sản phẩm với giá cao nhất.
Qua số liệu điều tra từ các nông hộ, các chủ đầu mối, các đại lý cho thấy
giá cả nấm bình quân vào mùa nắng khoảng 32.500đ/kg, vào mùa mưa
khoảng 85.500đ/kg. Giá cả rất bấp bênh, thường tăng cao vào mùa đông
(tháng 10 – 12 âm lịch) do điều kiện thời tiết không thuận lợi, lượng nấm
cung ứng ra thị trường ít (khoảng 40% so với các tháng khác). Giá cả không
những thay đổi theo mùa, còn thay đổi theo các ngày trong tháng. Thông
thường giá nấm vào ngày đặc biêt (ngày 30, 1, 14, 15) so với ngày thường
chênh lệch khoảng 20.000 đến 30.000 đồng, giá thường cao vào những ngày
này do ở Huế có truyền thống phật giáo nhu cầu sử dụng nấm để chế biến các
món chay của người dân tăng cao, nên giá cả cũng tăng lên.
Để ổn định thị trường, hạn chế tình trạng ép giá, chính quyền địa phương
nên có các biện pháp thiết thực như thành lập các trung tâm thu gom bảo vệ
giá cả cho người sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường ra ngoại
tỉnh…Tạo điều kiện cho người dân yên tâm sản xuất để nghề nấm ngày càng
phát triển.
4.4 Hiệu quả kinh tế của hoạt động trồng nấm Rơm
Bảng 12: Năng suất, sản lượng nấm Rơm của các hộ trồng nấm năm 2010
( tính TB/lứa/Vòm)
Chỉ tiêu Đơn vị tính Mùa nắng Mùa mưa Cả năm
Năng suất Kg 32,00 11,33 21,50
Sản lượng Kg 494,58 176,08 665,67
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

Việc trồng nấm phụ thuộc nhiều vào thời tiết, vào mùa nắng khoảng từ
tháng 4 đến tháng 9 dương lịch, nhiệt độ thuận lợi cho nấm phát triển, nên
năng suất cũng đạt khá cao và ổn định, trung bình mỗi hộ có đến 32
kg/vòm/lứa nấm. Ngược lại vào mùa mưa thường có lụt lội bắt đầu từ khoảng
tháng 9 trở đi, người dân gặp khó khăn lớn trong việc ủ nấm, chăm sóc nấm
vào những ngày mưa, bão. Do vậy năng suất cũng chỉ đạt được 11,33
kg/vòm/lứa.
Sản lượng TB/vòm/vụ mùa nắng đạt được 494,58 kg, song vào mùa mưa
sản lượng nấm chỉ đạt TB/vòm trung bình khoảng 176,08 kg. Và tổng sản
lượng TB/vòm/năm đạt được 665,67 kg.
Qua đó, ta thấy được sự chênh lệch giữa năng suất, sản lượng qua 2 mùa
là khá cao. Sự ảnh hưởng của thời tiết cũng đã làm giảm năng suất, sản lượng,
gây không ít khó khăn cho người dân. Do đó, cần nâng cao kĩ thuật, đầu tư
thêm các trang thiết bị, tư liệu sản xuất cùng với việc chú trọng hơn khâu
chăm sóc bảo vệ nấm trong những ngày thu hoạch vào mùa mưa sẽ giúp giảm
bớt ảnh hưởng của thời tiết, nâng cao năng suất nấm, đem lại giá trị cao.

×