Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

ảnh hưởng của chính sách gđgr đến người dân xã phúc trạch - huyện bố trạch – tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.49 KB, 61 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phúc Trạch là một xã miền núi với diện tích đất lâm nghiệp là khá lớn,
Tổng diện tích đất rừng của xã là 3.487 ha. Với tư cách là một tư liệu sản xuất
thì đất lâm nghiệp có vai trò rất lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, cũng như
sự thịnh vượng về nền kinh tế của nông thôn miền núi.
Việc khai thác và sử dụng tài nguyên rừng tại xã Phúc Trạch đã diễn ra
từ rất lâu. Ngoài việc khai thác gỗ người dân ở đây đã khai thác các sản phẩm
lâm sản ngoài gỗ như: song mây, lá nón, măng, các loại nấm…vừa làm thực
phẩm vừa buôn bán để tăng thu nhập. Ngoài ra người dân còn tổ chức săn các
loại động vật như: các loại khỉ, vượn, trăn, rắn, tắc kè, lợn rừng, gà… Khai
thác các cây thuốc chữa các bệnh thông thường và các loài cây làm cảnh như
mưng, sung, các loài lan Việc khai thác một cách không có quản lý từ trước
tới nay của người dân nơi đây đã dẫn tới tình trạng nguồn tài nguyên rừng
ngày càng suy giảm một cách nghiêm trọng.
Cũng chính vì điều đó mà công tác GĐGR trên địa bàn xã đã được chính
quyền và người dân quan tâm. Phần lớn diện tích đã được giao cho hộ, nhóm
hộ, và cộng đồng quản lý. Tuy nhiên, việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ còn
chậm, cộng với tập quán du canh lạc hậu, đời sống kinh tế khó khăn. Mức độ
nhận thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên rừng là chưa cao vì thế
sau khi được GĐGR do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên mức độ đầu
tư vào phát triển rừng còn thấp. Sau khi được GĐGR thì các hộ gia đình cũng
đầu tư thời gian khá nhiều cho việc trồng rừng và hạn chế bớt việc khai thác
rừng nên thu nhập từ rừng của các gia đình cũng giảm đáng kể. Cũng chính
điều đó đã làm ảnh hưởng khá lớn tới đời sống người dân nơi đây và gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn.
Như vậy mục tiêu của chính sách thì chưa thấy mà những bất cập của
chính sách thì đã được thể hiện rất rõ.
Vì vậy tôi đã tiến hành tìm hiểu đề tài “Ảnh hưởng của chính sách
GĐGR đến người dân xã Phúc Trạch - huyện Bố Trạch – tỉnh Quảng Bình”
để có thể nắm bắt được sự phụ thuộc của người dân vào rừng, biết được
những tác động của chính sách GĐGR tới sinh kế của người dân nơi đây


nhằm giúp người dân cũng như chính quyền ở đây biết được tình hình thực tế
1
đang diễn ra từ đó có được những hướng đi phù hợp nhằm đảm bảo được sinh
kế bền vững cho người dân, góp phần giảm sức ép lên khai thác tài
nguyên rừng.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu sinh kế của người dân sống phụ thuộc vào rừng tại xã.
- Tìm hiểu tình hình GĐGR tại xã Phúc Trạch.
- Xác định các ảnh hưởng của chính sách GĐGR đến sinh kế của người
dân nơi đây.
2
III. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
3.1. Tổng quan về sinh kế
Khái niệm về sinh kế
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sinh kế tuỳ theo quan điểm và bối
cảnh đưa ra định nghĩa
Theo Ellis Một sinh kế bao gồm tài sản (assets) - (tự nhiên, phương tiện
vật chất,con người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động, và việc tiếp cận
đến các tài sản và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã hội), tất cả cùng
nhau xác định sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận được
Theo DFID thì sinh kế có thể được mô tả là một tập hợp của việc sử
dụng các nguồn lực thực hiện các hoạt động để sống. Các nguồn lực có thể
bao gồm kỹ năng và khả năng (vốn con người) của một cá nhân, đất đai, tiết
kiệm và trang thiết bị (vốn tự nhiên, tài chính và vật chất), các nhóm hỗ trợ
chính thức hay các mạng lưới không chính thức hỗ trợ cho việc thực thi hoạt
động (vốn xã hội).
Tóm lại sinh kế là bao gồm năng lực tiềm tàng,tài sản và các hoạt động cần
có để kiếm sống.Đối với người dân sống phụ thuộc vào rừng ở đây là phụ thuộc
vào các nguồn lực.mà chủ yếu là phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
Một sinh kế được coi là bền vững nếu như nó có khả năng liên tục duy trì

hoặc nâng cao mức sống hiện tại mà không gây tổn hại đến cơ sở nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Để làm được điều này nó cần có khả năng vượt qua và
hồi phục những áp lực cũng như những cú sốc (ví dụ thảm họa thiên nhiên
hay khủng hoảng kinh tế).
Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi trường
ở cả hiện tại và tương lai.
Ngoài các hoạt động sản xuất nông nghiệp thì hầu như người dân ở đây
sống phụ thuộc vào rừng rất lớn.Tuy nhiên một thực tế là sự suy giảm của tài
nguyên rừng ở đây diễn ra ngày càng nghiêm trọng, với tình trạng như thế
thì liệu sinh kế của người dân ở đây co ổn định được không?có bền vững
không?
Sinh kế và thu nhập không đồng nghĩa nhưng liên quan chặt chẽ: Thành
phần và mức độ thu nhập (của cá nhân hoặc hộ) là kết quả trực tiếp và đo
đếm được của tiến trình sinh kế,thu nhập bao gồm tiền mặt và hiện vật (in-
3
kind/ non-moneytary), còn sinh kế là các hoạt động tạo ra thu nhập.Có sinh
kế thì có thu nhập và thu nhập duy trì và phát triển sinh kế.[7]
3.1.1 Khung sinh kế bền vững
Cũng có nhiều khái niệm khác nhau về khung phân tích sinh kế. Sau đây là
một vài khái niệm của các tổ chức đã từng sử dụng khung phân tích sinh kế.
Theo UNDP khung sinh kế là một cách để "hệ thống" những vấn đề phức
tạp xung quanh nghèo đói. Nó là một công cụ hữu ích trợ giúp cho công tác phát
triển và giảm đói nghèo. Tuy nhiên nó không phải duy nhất mà có rất nhiều các
khung phân tích khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh nghiên cứu và đối tượng tác
động cụ thể để đưa ra một khung phân tích sinh kế phù hợp nhất.
Theo DFID, khung phân tích sinh kế bền vững (SLA) là một công cụ trực
quan hóa được DFID xây dựng nhằm tìm hiểu các loại hình sinh kế. Mục đích
của nó là giúp người sử dụng nắm được những khía cạnh khác nhau của các loại
hình sinh kế, nhất là những yếu tố làm nảy sinh vấn đề hay những yếu tố tạo cơ
hội.

Theo quan điểm của tổ chức này khung sinh kế có thể chia làm năm hợp
phần chính: Bối cảnh tổn thương, các tài sản sinh kế, những chính sách thể chế
và tiến trình, các chiến lược sinh kế và các kết quả sinh kế. Các thành tố của một
sinh kế có mối quan hệ nhân quả và chiến lược sinh kế của con người chịu sự tác
động bởi các yếu tố bên ngoài. Điều này được thể hiện trong khung phân tích
sinh kế dưới đây.
4
Khung sinh kế đưa ra sự trực quan hoá về cách thức những yếu tố này gắn
kết với nhau như thế nào. Trên thực tế, các mối liên kết giữa chúng (thể hiện
bằng mũi tên trong khung chương trình) vẫn còn nhiều điều cần bàn đến, khi
chúng được dùng để thể hiện cách thức người dân chuyển từ các tài sản sinh kế
thành hoạt động như thế nào hoặc thể hiện cách thức các chính sách, thể chế và
tiến trình ảnh hưởng đến các hợp phần chính của sinh kế ra sao.
Có rất nhiều khung xinh kế được đưa ra trong đó khung sinh kế DFID là
công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích sinh kế và lập kế hoạch cho
các hoạt động phát triển.
Khung này được đánh giá không đơn thuần là công cụ phân tích mà người
ta xây dựng nó với dụng ý sẻ cung cấp nền tảng cho các hoạt động hướng đến
sinh kế bền vững.[7]
3.1.3 Các yếu tố tạo thành khung sinh kế bền vững theo DFID:
3.1.3.1 Bối cảnh tổn thương
Bối cảnh tổn thương đề cập đến phạm vi người dân bị ảnh hưởng và bị
lâm vào các loại sốc (mùa màng thất thu, lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh, xung đột,
lâm bệnh), xu hướng bao gồm cả xu hướng kinh tế xã hội và môi trường và
tính mùa vụ (sự dao động bao gồm dao động về giá cả thị trường và việc làm,
…)
Thể chế, chính
sách
-Chính sách và
pháp luật

-Các cấp chính
quyền
-Dịch cụ nhà
nước, tư nhân
-Luật tục, tập
quán
- chế cộngg
Bối cảnh tổn thương
-Sốc và khủng hoảng
-Những xu hướng
kinh tế-xã hội và môi
trường
-Sự dao động theo
chu kỳ thời vụ
Chiến lược sinh kế
những thay đổi
trong thực trạng
tài sản và chiến
lược sinh kế
Kết quả sinh kế
Thu nhập tốt
hơn
Đời sống nâng
cao
Khả năng tổn
thương giảm
An ninh lương
thực củng cố
Sử dụng tài
nguyên thiên

nhiên bền vững
Con người
Tài chính Tự nhiên
Vật chấtXã hội
5
Các thành phần chính của bối cảnh tổn thương.
Xu hướng: là một thanh tố chủ đạo trong bối cảnh tổng thương. Các xu
hướng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với các loại hình hình sinh
kế bền vững và kéo theo những thay đổi diễn ra trong một gia đoạn lâu hơn so
với những thay đổi do sốc hoặc thợi vụ tạo ra
Sốc: Sốc là một thành tố chủ yếu tạo ra bối cảnh tổn thương. Thường đó
là những sự kiện bất chợt có tác động lớn (theo cách tiêu cực) đối với các loại
hình sinh kế. Chúng không có qui tắc và rất đa dạng về cường độ. Sốc bao
gồm những sự kiện những thảm họa thiên tai, xung đột dân sự, mất việc, mùa
màng thất bát
Tính mùa vụ hay sự dao động: Đây là một yếu tố có biểu hiện rất rõ
bởi đặc trưng của nông thôn là sản xuất nông nghiệp, mà sản xuất nông
nghiệp có tính mùa vụ cao.
Sự suy giảm tài nguyên,sự biến đổi phức tạp của thời tiết, khí hậu, sự tác
động của thị trường những yếu tố này đã tác động rất lớn tới đời sống của
người dân nơi đây.
3.1.3.2 tài sản sinh kế
Tài sản sinh kế là một hợp phần chính trong khung phân tích sinh kế bền
vững, đây là những tài sản sinh kế mà các loại hình sinh kế được xây dựng
trên đó. Các tài sản này được chia làm năm loại (hay loại vốn), đó là: Vốn
con người, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn tự nhiên, vốn xã hội .
Vốn con người
Có thể nói đây là nhân tố quan trọng nhất. Bao gồm kỹ năng,kiến thức và
sự giáo dục của từng các nhân và các thành viên trong gia đình,sức khỏe, thời
gian và khả năng làm việc để họ đạt được những kết quả sinh kế.

Ở mức hộ gia đình thì nguồn lực con người là yếu tố về số lượng và chất
lượng sẳn có, yếu tố này thay đổi theo số lượng người trong hộ,kỹ năng lao
động, khả năng lãnh đạo, tình trạng sức khỏe …
Khi nói tới nguồn lực này của những hộ sống phụ thuộc vào rừng ở đây
thì nghiên cứu chú ý đến nhân khẩu,cơ cấu theo giới, số lao động của hộ,trình
độ lao độngvà trình độ học vấn của các thành viên trong gia đình…xét các
yếu tố này với các hoạt động sinh kế và các sinh kế của hộ.
Vốn xã hội
6
Vốn xã hội là một nhân tố quan trọng trong việc tiếp cận sinh kế,liên
quan đến mạng lưới xã hội, những mối quan hệ và sự tin cậy…sự gắn kết
trong cộng đồng để phát triển kinh tế giảm nghèo,dân chủ xã hội ngay cả vấn
đề quản lý tài nguyên…Vốn xã hội được xây dựng giữa những cá nhân, trong
cộng đồng và các cấp xã hội thông qua các tổ chức chính thống để tạo ra
những liên kết bền vững, mạng lưới và sự tin cậy lẫn nhau.
Vốn tự nhiên
Là các nguồn lực tự nhiên(của một hộ hoặc của cộng đồng) mà con
người trông cậy vào.
Việc đánh giá vốn tự nhiên cần phải tính đến những loại tài nguyên thiên
nhiên nào có trong khu vực và mức độ khó, dễ mà các nhóm xã hội có thể tiếp
cận với các nguồn tài nguyên đó.
Đồng thời cũng cần xem xét chất lượng của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên này và việc chúng thay đổi như thế nào theo thời gian. Khi xem xét vấn
đề sự thay đổi theo thời gian, cần khảo sát các xu hướng lâu dài cũng như sự
thay đổi giữa các mùa
Vốn tài chính
Là các nguồn lực tài chính mà con người có được như nguồn thu nhập tiền
mặt và các loại hình tiết kiệm khác nhau, tín dụng và các luồng thu nhập tiền mặt
như lương hưu, tiền do thân nhân gửi về hay những trợ cấp của nhà nước.
Đây là yếu tố trung gian cho sự trao đổi có ý nghĩa quan trọng đối với

việc sử dụng thành công các tài sản khác. Nguồn tài chính nghĩa là các nguồn
lực tài chính mà con người sử dụng để đạt được các mục tiêu sinh kế của
mình.có hai nguồn tài chính cơ bản đó là nguồn vốn sẵn có và nguồn vốn vào
thường xuyên.
-Nguồn sẵn có: tiền tiết kiệm, gửi ngân hàng,vật nuôi, gửi ngân hàng…
-Nguồn vốn vào thường xuyên : trợ cấp, các khoản tiền chuyển nhượng
từ nhà nước hoặc các khoản tiền gửi .
Xét về tài chính hộ là xem xét lượng tiền mặt mà hộ thu nhận được từ
các hoạt động sinh kế,các chi tiêu, tích lũy của các hộ trong năm…
Vốn vật chất:
Bao gồm các công trình hạ tầng và xã hội cơ bản và các tài sản của hộ
gia đình hỗ trợ cho sinh kế, như giao thông, hệ thống cấp nước và năng lượng,
7
nhà ở và các đồ dùng,dụng cụ trong gia đình, các công cụ máy móc phục vụ
sản xuất,…
Các công cụ này có thể là có thể một cá nhân hay một nhóm người sở
hữu, cũng có thể thuê hoặc mua, phổ biến là đối với các thiết bị phức tạp.
3.1.3.3 Thể chế và chính sách
Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà chính phủ lựa
chọn đối với lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà chính phủ tìm
kiếm và sự lụa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó
Chính sách theo GS PTS Đỗ Hoàng Toàn: " Chính sách quản lý nói
chung, chính sách kinh tế xã hội nói riêng là tổng thể các quan điểm, các
chuẩn mực, các biện pháp, các thủ thuật mà chủ thể quản lý ( trong pham vi
quốc gia đó là nhà nước) sử dụng nhằm tác động lên đối tượng và khách thể
quản lý để đạt đến những mục tiêu trong tổng số các mục tiêu chiến lược
chung của đất nước một cách tốt nhất sau một thời gian đã định.
Theo TS Đoàn Thị Thu Hà chính sách kinh tế xã hội là tổng thể các quan
điểm tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên
các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những

mục tiêu nhất định theo hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Các chính sách thể chế bao gồm các chính sách, luật lệ và những hướng
dẫn của nhà nước, những cơ chế, luật tục và phong tục của cộng đồng, các cơ
quan , tổ chức và dịch vụ nhà nước cũng như tư nhân, có những tác động lên
các tài sản và chiến lược của sinh kế. Đây là một phần quan trọng trong khung
phân tích sinh kế bền vững vì nó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận với các
nguồn lực sinh kế, những chiến lược sinh kế, lợi ích của người dân khi thực
hiện hoặc đầu tư một số hoạt động sinh kế nhất định. Ngoài ra, đây còn là
những yếu tố tác động lên cả các mối quan hệ để đạt được những điều kiện
sống tốt nhất.
Thể chế là các “luật lệ của một trò chơi ”một cách chính thức và không
chính thức. Những luật lệ này bao gồm tính chất sẵn có và rõ ràng về mặt
thông tin, các cơ chế thực thi luật lệ và các thoả thuận nhất trí giữa các bên và
các cơ chế khuyến khích để đem lại kết quả. Các thể chế thay đổi thường
chậm chạp hơn so với các chính sách và có thể giải thích cho các chi phí giao
dịch cao diễn ra dưới dạng kém hiệu quả, thiếu rõ ràng và tham nhũng xẩy ra
8
khi các chính sách mới được thực hiện trong một môi trường thể chế yếu kém.
Thế chế là một hợp phần của chính sách thể chế và tiến trình. Thuật ngữ
thể chế có thể được dùng theo nhiều cách khác nhau. Trong khung chương
trình SLA nó bao trùm hai yếu tố quan trọng sau đây:
Các tổ chức hoặc đơn vị hoạt động trong cả hai khu vực nhà nước và tư
nhân các cơ chế, luật lệ, phong tục mà thông qua đó con người và các tổ chức
tương tác với nhau (ví dụ: qui định của một trò chơi).
Ở nông thôn, chính sách có ảnh hưởng rất lớn đến sinh kế nói riêng và
đời sống nói chung đặc biệt là các chính sách về nông thôn nông nghiệp. Hiện
nay các chính sách về nông thôn và nông nghiệp đã và đang ngày càng được
hoàn thiện theo hướng tác động tích cực tới việc cải thiện đời sống người dân
nông thôn.
3.1.3.4 Chiến lược sinh kế

Sử dụng các loại vốn khác nhau để duy trì và đa dạng các hoạt động sinh kế
là một chiến lược được sử dụng trong số những loại vốn đó bởi những người
nghèo nông thôn ở các nước đang phat triển như một phương tiện để cải thiện
chất lượng sống mà không có sự thỏa hiệp cho tương lai của họ ( Ellis,1988 ).
Trong tác phẩm của Ellis nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hướng tiếp đến sự
liên kết giữa tài sản và việc lựa chọn hình thức sử dụng để theo đuổi các hoạt
động đó mà có thể tạo ra được thu nhập cần thiết cho cuộc sống.
Chiến lược sinh kế là các kế hoạch làm việc dài hạn của cộng đồng để
kiếm sống. Nó thể hiện sự đa dạng và kết hợp nhiều hoạt động và lựa chọn
mà con người tiến hành nhằm đạt được mục tiêu sinh kế của mình.
Như vậy khi xem xét về vấn đề chiến lược sinh kế của những người dân
sống phụ thuộc vào rừng ở xã phúc Trạch là tìm hiểu cách người dân Phúc
trạch sử dụng nguồn lực sinh kế để tạo ra nguồn thu nhập phục vụ cho sự duy
trì và phat triển đời sống.
Theo (Seppala, 1996) chiến lược sinh kế có thể chia làm 3 loại:
Chiến lược tích luỹ: là chiến lược dài hạn nhằm hướng tới tăng trưởng và
có thể là kết hợp của nhiều hoạt động hướng tới tích luỹ của cải và giàu.
Chiến lược tái sản xuất: là chiến lược trung hạn gồm nhiều hoạt động
tạo thu nhập, nhưng ưu tiên có thể nhắm tới hoạt động cộng đồng và an ninh
xã hội.
9
Chiến lược tồn tại: là chiến lược ngắn hạn, gồm cả các hoạt động tạo
thu nhập chỉ để tồn tại mà không có tích luỹ.
Khi xem xét về vấn đề chiến lược sinh kế của các hộ sống phụ thuộc vào
rừng ở đây nghĩa là tìm hiểu xem các cách thức người dân ở đây sử dụng các
nguồn lực sinh kế để tạo ra ngồn thu nhập phục vụ cho sự duy trì và phát triển
đời sống.
3.1.3.5 Kết quả sinh kế
Kết quả sinh kế là những thay đổi có lợi cho sinh kế của cộng đồng,nhờ
các chiến lược sinh kế mang lại, cụ thể là th nhập cao hơn, cuộc sống ổn định

hơn, giảm rủi ro, đảm bảo tốt hơn an toàn thực phẩm và sử dụng bền vững
hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên.[7]
3.2 Thực trạng về sinh kế và tài nguyên rừng
3.2.1 Rừng và sinh kế của người dân
Đối với người dân địa phương, rừng đóng vai trò rất quan trọng. Ngoài
việc cung cấp đất trong trường hợp thiếu đất, rừng cũng là nơi cung cấp cho
họ các nguồn năng lượng, lương thực, thuốc chửa bệnh cũng như các vật liệu
để làm nhà, đóng thuyền cũng như các loại rổ rá(Sato,2000). Sato cho rằng,
người dân sống dựa vào rừng ở hai khía cạch. Thứ nhất là phụ thuộc về thu
nhập, liên quan đến tổng thu nhập và thu nhập họ có được từ bán các sản
phẩm rừng, thứ hai là sự phụ thuộc về sinh kế, được tính toán bằng các loại
sản phẩm rừng sử dụng hằng ngày. Đối với người dân cả nước nói chung và
người dân miền núi nói riêng, rừng là một trong những nguồn thu nhập và
sinh kế của họ.
Rừng cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người
dân. Ví dụ của Raha ( dẫn trong Guha, 1989) cho thấy rằng rừng có ảnh
hưởng lớn đến đời sống tôn giáo và tinh thần.Guha viết (1989 : 29) [10]:
Sự phụ thuộc của người dân vùng núi vào tài nguyên rừng đã được thể
chế hóa thông qua rất nhiều thể chế xã hội và văn hóa. Thông qua tôn giáo,
văn hóa truyền thống, các cộng đồng bản địa đã tạo ra một vành đai bảo vệ
xung quanh rừng.
Tương tự như vậy, Gunawan (2000) cho rằng những hệ thống văn hóa và
tín ngưỡng của người Kasepuhan ở Sumatra, Inđônêxia có quan hệ chặt chẽ
với rừng. Người Kasepuhangawns rừng cũng như các loại cây cối và động vật
10
rừng với các lực lượng siêu nhiên. Khi được tôn trọng và dưới những lễ nghi
phù hợp, các thế lực này sẻ duy trì hòa bình và thịnh vượng cho cộng đồng.
Còn ngược lại sẻ làm các lực lượng siêu nhiên phẫn nộ. Như vậy, rừng là một
nơi linh thiêng, là nơi ở của tổ tiên và thần linh, nơi mà mọi người tìm kiếm
sự chỉ dẩn thần thánh và hướng tới hòa bình,phẩm hạnh và hòa hợp.

Tài nguyên rừng cung cấp một vài dạng của các loại vốn cho người dân
miền núi. Chúng đóng góp đáng kể vào th nhập của người dân, làm cho người
dân giàu có hơn bằng cách cung cấp cho họ nguồn sản phẩm và nguyên liệu,
bổ sung đầu vào cho các hoạt động nông nghiệp và giữ gìn sinh khối mà con
người có thể dựa vào đó để tồn tại trong những lúc khó khăn như khi mùa
màng thất bát, thất nghiệp hoặc các khó khăn khác.[10]
3.2.2 Sinh kế người dân ở vùng núi Việt Nam.
Việt nam có 45 tỉnh thành ( trong số 64 tỉnh thành của cả nước ) có một
phần hay toàn bộ diện tích thuộc vùng trung du- miền núi ( sau đây được gọi
chung là vùng núi hay vùng cao) với diện tích bằng 3/4 diện tích cả nước.
Khu vực này là nơi sinh sống của khoảng 25 triệu người, chiếm 1/3 dân số cả
nước, trong đó có cư dân của 53 trên 54 dân tộc anh em. Tài nguyên rừng là
nguồn đóng góp quan trọng nhất đối với cuộc sống của người dân nơi đây.
Sinh kế và cuộc sống của người dân vùng cao có thể bị ảnh hưởng bởi
bất kỳ một biến động nào từ rừng. Ở Việt Nam, diện tích rừng đã giảm từ
33% giai đoạn 1986-1999 ( Bộ NN&PTNT, 2000 trong Quang, 2003); trong
đó diện tích rừng già tự nhiên chỉ còn 6% diện tích đất của Việt Nam
(Dũng,1996 trong Poffenberger, 1998). Những con số ước tính gần đây cho
biết khoảng 200.000 ha rừng biến mất hàng năm do nhiều nguyên nhân khác
nhau ( Thắng, 1995 trong Rambo và cộng sự,1995). Diện tích đât cằn cũng
tăng lên với tỉ lệ 400% từ 3 triệu ha năm 1943 đến 12 triệu ha năm 1995 và
có thời gian đã chiếm 40% diện tích cả nước (Poffenberger,1999). Những
năm gần đây, nhờ một số chính sách và chương trình bảo vệ và phát triển
rừng, diện tích che phủ của rừng đã tăng lên đáng kể, chiếm tỉ lệ gần 30%,
nhưng chất lượng rừng thì vẫn tiếp tục bị suy giả. Sự suy giảm diện tích rừng
dẫn đến sự thiếu hụt lương thực,giảm các nguồn thu nhập, tác động xấu tới
điệu kiện kinh tế của người dân và tăng độ rủi ro cho khoảng 25 triệu người
dân sống phụ thuộc vào rừng.
11
Qua các thời kỳ Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách và

quy định để giải quyết những vấn đề này với những kết quả đạt được ở các
mức độ khác nhau.[10]
3.2.3 Quan điểm của Việt Nam về GĐGR
Ở Việt Nam, đất đai kể cả đất lâm nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, người
dân được giao quyền sử dụng. Vấn đề giao đất lâm nghiệp đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm từ những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ 20 như chỉ thị
29-CT/TW ngày 12 tháng 11 năm 1983 của Ban Bí thư, Luật đất đai 1987,
1993, 1998, 2001 và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 1991 và 2004. Gần đây,
nhà nước cũng đã chủ trương thực hiện xã hội hóa nghề rừng bằng việc thông
qua Luật Đất đai 2003, Luật Bảo vệ Phát triển rừng 2004 và chiến lược Phát
triển lâm nghiệp đến năm 2020. Việc đẩy mạnh vấn đề GĐGR cho cá nhân,
hộ nông dân, cộng đồng dân cư và các thành phần kinh tế ngoại quốc doanh là
bằng chứng rõ ràng thể hiện quan điểm của Nhà nước. Hiện nay có khoảng 24
triệu người dân sống ở miền núi với rất nhiều thành phần dân tộc khác nhau,
Nhà nước có chủ trương giao đất để góp phần cải thiện sinh kế bằng nghề
rừng, góp phần bảo vệ và phát triển rừng. Gần đây, Chính phủ cũng hoàn
thiện khung pháp lý để cho người nước ngoài, các công ty nước ngoài thuê
rừng để kinh doanh. Như vậy có thể nói quan điểm xã hội hóa lâm nghiệp với
nhiều thành phần tham gia của nhà nước là rõ ràng và khá thông thoáng.[3]
3.2.4 Các chính sách của nhà nước liên quan đến rừng
3.2.4.1 Chính sách giao đất trong giai đoạn những năm 1990 đến nay.
Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng ban hành năm 1991 đã cho phép giao đất
cho các hộ, đồng thời các hộ cũng có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thừa
kế, thế chấp, và chuyển đổi quyền sử dụng diện tích được giao. Nghị định
64/CP ban hành năm 1993, trao cho người dân quyền sử dụng đất lâu dài – 20
năm đối với đất trồng cây hàng năm và 50 năm đối với đất trồng cây lâu năm
và đất rừng, đối với các vùng miền núi còn có một số ưu tiên khác.
Nghị định 02/CP được thông qua vào tháng 1/1994, Nghị định 163/NĐ-
CP (Nghị định sửa đổi của Nghị định 02/CP), cho phép giao đất rừng đến các
hộ ở miền núi trong thời hạn 50 năm. Theo Nghị định 01/CP ban hành tháng

1/1995, những hộ ký cam kết chăm sóc và bảo vệ rừng với các lâm trường
quốc doanh sẽ được trả thù lao định kỳ bởi cơ quan chăm sóc và bảo vệ rừng.
12
Những điều luật mới này đã phần nào chuyển quyền quyết định sản xuất từ
chính quyền trung ương đến các hộ gia đình miền núi.
Theo nhiều nhà quan sát, hiệu quả chung nhất của những chính sách
này là sự suy giảm của hoạt động canh tác nương rẫy ở nhiều vùng miền
núi Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn hai nhân tố làm cho tình trạng khai thác rừng
trở nên trầm trọng hơn. Thứ nhất là do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường,
xuất hiện sau chính sách đổi mới năm 1986. thứ hai là sự tăng dân số
(Donovan và cộng sự, 1997). Sikor (1995) cho thấy mặc dù chương trình định
cư của Nhà nước được thực hiện với trên 1,9 triệu người vào năm 1990, tuy
nhiên chỉ có khoảng 30% trong số những người nhận được trợ giúp có thể xây
dựng được một hệ thống canh tác phù hợp để ổn định cuộc sống của họ. Bên
cạnh đó, 40% kết hợp canh tác cố định với du canh để có thể kiếm đủ ăn,
trong khi khoảng 30% còn lại không thể đáp ứng được các yêu cầu lương thực
tối thiểu của mình và tiếp tục tiến hành canh tác nương rẫy. Để đối phó với
tình trạng tăng dân số, những người canh tác nương rẫy mở rộng những mảnh
nương của họ đồng thời rút ngắn thời gian bỏ hoá dẫn đến áp lực ngày càng
lớn lên đất và rừng. Các cơ quan của Nhà nước không thể bảo vệ rừng trong
trường hợp này vì các chính sách của Nhà nước không cung cấp cho hơn 20
triệu người sống phụ thuộc vào rừng những phương thức kiếm sống khác.
Tại một số khu vực, các chính sách giao đất, tập trung vào giao đất cho
các hộ, chỉ làm tình trạng suy thoái rừng trở nên xấu hơn khi bắt buộc người
dân phải tìm các khu vực canh tác mới và bằng cách xoá bỏ quyền quản lý
của cộng đồng đối với các tài nguyên rừng (Bergeret, 1995 trong Sikor,
1998). Đối mặt với nhiều khó khăn trong thoả mãn các nhu cầu tối thiểu cũng
như các hoạt động tạo thu nhập truyền thống, người dân vùng núi gần như
không có lựa chọn nào khác ngoài việc khai thác rừng nhiều hơn nữa.

Việc thực hiện các chính sách của Nhà nước cũng mẫu thuẫn với các
cách thức sử dụng tài nguyên truyền thống. Lấy ví dụ tại một số bản vùng
cao, người dân không muốn nhận đất Nhà nước giao vì họ không muốn nhận
đất lâm nghiệp theo chính sách của Nhà nước, do chính sách Nhà nước chỉ
cho phép sử dụng đất vào mục đích lâm nghiệp mà không cho canh tác nương
rẫy.
13
Tại những khu vực này, các thông báo về một chương trình giao đất sắp
được thực hiện đã tạo ra hiện tượng khai thác rừng và đất rừng mạnh mẽ hơn
(Sikor, 1998 trong Poffenberger, 1999). [10]
3.2.4.2. Các chương trình bổ sung liên quan đến rừng.
Ngoài các chính sách và dự án đã nêu trên, Chính phủ còn xây dựng một
số các chương trình khác nhằm bổ sung, hoàn thiện cải cách trong hệ thống
giao đất giao rừng và sử dụng đất. Có hai chương trình ảnh hưởng lớn nhất là:
Chương trình 327 và Chương trình 661 hay Chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng. Tìm hiểu các chương trình này sẽ làm cho việc xem xét các chính sách
và chương trình hỗ trợ phát triển lâm nghiệp ở Việt Nam được hoàn chỉnh.
Chương trình 327
Đây là chương trình hỗ trợ phát triển lâm nghiệp được thành lập theo
Nghị định 327/CT của Hội đồng Bộ trưởng (nên còn được gọi là Chương
trình 327) ban hành vào tháng 9 năm 1992. Mục tiêu của chương trình là
nhằm khuyến khích việc trồng và bảo vệ rừng, cải thiện điều kiện sử dụng
đất, nâng cao mức sống của người dân địa phương (sống dựa vào rừng) và hỗ
trợ chương định cư.
Chương trình 327 hỗ trợ vốn cho 1.800 dự án của các địa phương (Viên
và cộng sự, 2001). Những dự án này hỗ trợ các hoạt động trồng cây trên đất
cằn, đất cát ven biển và trên loại rừng khác (ví dụ, rừng sản xuất, rừng phòng
hộ và rừng đặc dụng). Nhằm giảm nghèo và thúc đẩy định canh định cư, Nhà
nước đồng thời cũng hỗ trợ các hoạt động sản xuất như chăn nuôi, lương thực và
hoa màu, và cá. Mỗi gia đình trong vùng dự án được giao một khu vực cố định

để trồng, bảo vệ, chăm sóc, làm giàu và tái sinh rừng. Tương tự, đất được giao
cho các hộ để trồng lúa và hoa màu. Diện tích đất được giao cho các hộ tuỳ
thuộc vào tổng quỹ đất chung và lao động cũng như điều kiện kinh tế của gia
đình. Tuy nhiên, diện tích được giao cho mỗi hộ không được lớn 30 ha.
Kinh phí để thực hiện chương trình này được lấy từ ngân sách Nhà nước
và từ các quỹ được gây dựng từ thuế tài nguyên, vốn vay ngân hàng và tài trợ
từ các tổ chức quốc tế với tổng số tiền lên đến 68 triệu đô la Mỹ. Khoảng 60%
số này có thể được sử dụng vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết bị khoa học
và kỹ thuật, phúc lợi xã hội, trồng rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, cây giống
và hỗ trợ trong vòng 6 tháng đầu cho những người dân mới chuyển tới khu
14
vực mới. Số tiền này được cung cấp dưới dạng trợ cấp và không phải hoàn lại.
40% còn lại dành cho các hộ để tiến hành các hoạt động sản xuất và phải hoàn
trả, không lãi suất, khi các hoạt động của dự án bắt đầu thu lợi
Để hướng dẫn thực hiện Chương trình 327 và phát triển rừng nói chung,
các cơ quan Nhà nước như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch
và Đầu tư), Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng cục Địa chính (nay thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường), Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã thông qua
rất nhiều Thông tư và Chỉ thị. Những cơ quan này quy định các thủ tục hành
chính và chuyên môn nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, đồng thời phân công
trách nhiệm cho các cơ quan khác có liên quan.
Chỉ thị số 556/TTg của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực ngày 12/9/1995
đã điều chỉnh lại các hoạt động của Chương trình 327. Các hỗ trợ của Chương
trình được giới hạn lại cho các khu rừng đặc dụng và phòng hộ thông qua
trồng rừng và nông lâm kết hợp, và dựa chủ yếu vào người dân để thực hiện
dự án. Hỗ trợ trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây quanh nhà, ruộng và các
hoạt động tái định cư đã bị dừng lại, chỉ trừ trường hợp các hoạt động trên
nằm trong rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Chương trình đặt mục tiêu mỗi
năm trồng và chăm sóc 250.000 ha trong khoảng thời gian từ giữa năm 1996
đến 2010. Thêm vào đó, mô hình Nông lâm Kết hợp được chấp nhận trong

các khu rừng phòng hộ và đặc dụng gồm từ 40% đến 60% hỗn hợp của cây
địa phương, cây công nghiệp và các loại cây khác hoặc bao gồm các vạt rừng,
cỏ, cây công nghiệp hoặc cây ăn quả và cây lương thực. Tất cả các loại cây
địa phương đều là tài sản của Nhà nước, tuy nhiên người dân vẫn có thể được
hưởng 2/3 tổng sản lượng của các loại cây trồng khác cũng như các sản phẩm
hoa quả được trồng xen dưới tán rừng.
Chương trình 661
Các Quyết định 08/1997/QH10 và 661/QĐ-TTg được ban hành lần lượt
vào tháng 12/1997 và tháng 7/1998 nhằm xây dựng chương trình trồng rừng
quốc gia, thường được gọi là Chương trình 661, hay chương trình trồng 5
triệu ha rừng. Chương trình này thực chất là tiếp nối chương trình 327.
Chương trình có 3 mục tiêu cơ bản: (1) trồng mới 5 triệu ha rừng nhằm
tăng diện tích che phủ của rừng lên 43% trong giai đoạn 1998 đến 2010 (Bộ
NN&PTNT, 1998:9-10). Điều này góp phần vào bảo vệ môi trường, giảm
15
thiên tai, tăng lượng nước, bảo vệ nguồn gien và đa dạng sinh học; (2) sử
dụng đất trống như một công cụ sản xuất để tạo việc làm, góp phần xóa đói
giảm nghèo; định canh định cư; tăng thu nhập của người dân tại các vùng
nông thôn miền núi, đặc biệt là người dân tộc thiểu số và đảm bảo ổn định
chính trị và xã hội, quốc phòng và an ninh, đặc biệt tại khu vực biên giới; và
(3) cung cấp gỗ cho các hoạt động công nghiệp, củi và các sản phẩm rừng
khác cho nhu cầu trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu. Tóm lại, mục tiêu
của chương trình này nhằm biến rừng thành một nguồn đóng góp quan trọng
cho phát triển kinh tế-xã hội miền núi.
Những hướng dẫn thực hiện chương trình để thể hiện được những điểm
tích cực của chương trình và đã được lên kế hoạch cụ thể. Dự kiến diện tích
rừng trồng mới được chia làm 3 loại như sau:
Rừng phòng hộ: Khoảng 1 triệu ha rừng sẽ được khoanh nuôi tái sinh kết
hợp với trồng bổ sung tại các khu vực cần thiết.
Rừng đặc dụng: Khoảng 1 triệu ha rừng mới sẽ được phục vụ cho các

mục đích bảo vệ ở các khu vực xung yếu như đầu nguồn nước, khu vực đất
xói mòn ven biển và những khu vực cần khôi phục hệ sinh thái. Những hoạt
động này được tập trung tại các vùng miền núi phía bắc nơi có độ che phủ
rừng thấp và khu vực hay có lũ ở miền trung, trong đó có tỉnh Nghệ An.
Rừng sản xuất: Bao gồm 3 triệu ha trong đó khoảng 2 triệu ha cây rừng
của các hộ như cây keo, tre, thông và bạch đàn cùng với một số cây có giá trị
kinh tế cao hoặc được dùng cho các mục đích đặc biệt. Diện tích còn lại sẽ
được dùng cho các loài cây công nghiệp mang tính thương mại như cao su,
chè, cà phê, cây thuốc và cây ăn quả Chương trình sẽ được thực hiện thông
qua các dự án có sự tham gia của người dân địa phương.
Quyết định 661/QĐ-TTg nêu rõ “Nhân dân là lực lượng chủ yếu trồng,
bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng và hưởng lợi ích từ nghề rừng….)
Việc phân bổ quỹ cũng tương tự như Chương trình 327, bao gồm cả các
tiêu chí được đặt ra cho việc chi trả các hoạt động trồng và bảo vệ rừng. Ví
dụ, những hộ chăm sóc rừng đặc dụng và rừng phòng hộ được trả 50.000
đồng/năm/ha. Với những hoạt động như trồng mới rừng, đặc biệt trong các
khu vực cần khôi phục hệ sinh thái thì còn có thể được trả cao hơn (khoảng 2
triệu đồng/ha).
16
Việc giải quyết thủ tục giao đất giao rừng và trao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho “các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân” cũng được đặc biệt
quan tâm. Công việc này được dự định hoàn thành vào cuối năm 2000 (theo
Nghị định 24/1999/CT-TTg).
Tuy nhiên, liệu các chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền sở
hữu đất của người dân có giúp tạo ra sinh kế bền vững cho người dân miền
núi không? Làm thế nào mà những chính sách này làm cho người dân chuyển
từ canh tác nương rãy tự cung tự cấp sang định canh? Sự chuyển đổi này đã
làm thay đổi đời sống của người dân như thế nào? Hệ thống canh tác nào đã
xuất hiện trong hệ thống sử dụng đất mới được hình thành từ các chính sách
về đất đai? Trước khi trả lời các câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy cùng

nhau xem xét phản ứng của người dân đối với những chính sách này như thế
nào.[10]
3.2.5 Các chương trình,dự án liên quan đến rừng đã và đang tiến
hành tại xã Phúc Trạch
Các chương trình trồng rừng của chính phủ được tiến hành (327 ; 661) đã
nâng diện tích rừng trồng sản xuất lên 1.810,6 ha (2008). Các chương trình
này đã đưa lại một số thành công nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề còn tồn tại.
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một chương trình kinh tế - xã hội –
sinh thái trọng điểm của Nhà nước Việt Nam theo đó sẻ trồng mới 5 triệu
hecta rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1988 đến
năm 2010 nhằm nâng cao độ che phủ của rừng Việt Nam lên mức 43% vào
năm 2010.
Ở Phúc Trạch chương trình này đã kết thúc vào năm 2006 sau khi lâm
trường Bố Trạch giao hết diện tích đất sản xuất cho UBND xã. Nhưng sau khi
nhận đất xã đã tiến hành đo đạc lại toàn bộ diện tích được giao thì diện tích đó
đã tăng lên 686,03 ha.
Phúc Trạch là một xã nằm trong chương trình 135 của chính phủ là một
trong những chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt
Nam triển khai từ năm 1998. Hằng năm xã vẫn nhận được nguồn vốn đầu tư
từ chương trình 135 để phục vụ cho phát triển kinh tế và xã hội của xã.
Ngày 22-2-2008, Chương trình lương thực vì sự tiến bộ của Quảng Bình
và tổ chức Counterpart ( là một tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ hoạt động
17
ở Việt Nam từ năm 1996) tại Việt Nam cùng đối tác là UBND huyện Bố
Trạch đã mở tuyến du lịch cộng đồng tại thôn Chày Lập, xã Phúc Trạch
(thông qua gói tài trợ 97.000 USD của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ).Tuyến du
lịch này được quản lý và thực hiện do người dân địa phương, trước mắt là tại
một số hộ gia đình ở thôn Chày Lập, xã Phúc Trạch.
Được bắt đầu nghiên cứu từ tháng 3 đến tháng 7-2008, đến cuối năm
2008 tuyến du lịch đã đi vào hoạt động. Dự án tuyến sinh thái nước Moọc

bước đầu sẻ thu nhận 10 người ở thôn Chày Lập, đào tạo họ thành các hướng
dẫn viên du lich. Sau giai đoạn đầu đưa vào hoạt động, sẻ có hội thảo đánh
giá trước khi mở rộng sang các bước tiếp theo, trong đó có 20 hộ ở thôn Chày
Lập sẻ đăng ký làm dịch vụ nhà nghỉ, cho thuê thuyền, xe đạp, xe máy, khuôn
vác, vận chuyển, nấu ăn
Với tuyến du lịch sinh thái suối nước Moọc, những người dân ở đây đang
thực sự cảm thấy việc bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh thái chính là bảo vệ
cuộc sống của chính mình.[6]
18
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Chọn điểm và chọn hộ nghiên cứu
Điểm nghiên cứu:
Xã Phúc Trạch là một trong những xã có diện tích rừng khá lớn, cuộc
sống của người dân nơi đây phụ thuộc vào rừng là khá lớn. Vì thế khi chính
sách GĐGR được tiến hành thì xã Phúc trạch sẻ là một trong những xã chịu
ảnh hưởng rất lớn từ chính sách vì thế tôi chọn xã Phúc Trạch để nghiên cứu
nhằm tìm hiểu rõ những tác động tiêu cực của chính sách đến người dân nơi
đây để tìm ra những giải pháp khắc phục.
Hộ nghiên cứu: Những hộ sống chủ yếu phụ thuộc vào rừng ở xã Phúc
Trạch. Tiến hành phỏng vấn 30 hộ trong đó có 15 hộ tham gia vào chính sách
GĐGR, 15 hộ không tham gia vào chính sách đó.
4.2 Các phương pháp thu thập thông tin
Để thực hiện đề tài này tôi kết hợp phương pháp thu thập thông tin thứ
cấp và thu thập thông tin sơ cấp, cụ thể như sau:
4.2.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Tìm hiểu các nguồn tài liệu tại thư viện, trên internet và tiếp cận cán bộ
địa phương tôi để thu thập và nghiên cứu các nguồn tài liệu sau:
- Nghiên cứu tài liệu chung: Phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn có
liên quan đến sinh kế, nghề rừng, khác thác lâm sản…mà các nhà nghiên cứu
khác đã thực hiện đã được in thành sách, báo, tạp chí hoặc đăng tải trên

internet.
- Các báo cáo của địa phương: Thông qua cuộc gặp với cán bộ xã lấy các
báo cáo vê tình hình kinh tế - xã hội: Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết
HĐND xã năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ phát triện kinh tế năm
2011. Báo cáo hiện trạng diện tích các loại đất loại rừng. Báo cáo kết quả thực
hiện quỷ đất năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất năm 2011…
4.2.2 Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn người am hiểu : Phỏng vấn cán bộ kiểm lâm, cán bộ lâm
trường, cán bộ địa chính của vùng để lấy những thông tin liên quan đến nguồn
tài nguyên rừng ở đây,mức độ quản lý và khai thác rừng nhằm biết được thực
trạng về rừng ở đây, tìm hiểu rõ mức độ khai thác và suy giảm tài nguyên
rừng.
19
- Phỏng vấn hộ : Sử dụng bảng hỏi bán cấu trúc để phỏng vấn 30 hộ nói
trên nhằm mục đích thu thập những thông tin về các hoạt động sinh kế, về
việc khai thác rừng của các hộ, mức độ sống phụ thuộc vào rừng của các hộ.
- Thảo luận nhóm: Tiến hành thảo luận nhóm hai lần, nhằm tìm hiểu thực
trạng khai thác các sản phẩm rừng ở xã, tìm ra những ảnh hưởng của chính
sách tới đời sống của người dân nơi đây.
- phỏng vấn sâu: phỏng vấn những người có nguồn thu nhập chủ yếu từ rừng,
thu thập thông tin về các sản phẩm từ rừng được khai thác, nguồn thu nhập từ
rừng.
4.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Tất cả các số liệu điều tra được mã hoá, nhập và xử lý thông kê bằng các
phép tính trên phần mềm Excel.
Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp phân tích: Phân tích định tính và
phân tích định lượng nhằm phân tích thực trạng và sự tác động của các yếu tố.
20
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1 Điều kiện tự nhiên

5.1.1 Vị trí địa lý và địa hình
Phúc Trạch nằm ở phía Tây-Bắc của huyện Bố Trạch. Cách thị trấn Hoàn
Lão 40km, cách thành phố Đồng Hới 55km về phía Tây-Bắc.
Bản đồ vị trí xã Phúc Trạch – huyện Bố Trạch:
Phúc trạch có đường ranh giới giáp với Lâm Trạch ở hướng Tây Bắc,
giáp với Liên Trạch ở hướng đông, giáp với Hưng trạch ở hướng Đông Nam,
ở hướng Nam Đông thì giáp với Sơn Trạch và Xuân Trạch, còn hướng Tây
Nam thì giáp với Thượng Trạch.
Phía Tây là các dãy núi đá nối liền nhau độ cao từ 500-1000m. Phía
Đông là đồi núi đất có độ cao từ 200-300m. Khu vực ở giữa là vùng thấp hơn
hai bên, có độ cao hơn mặt nước biển khoảng 100m.
Hệ thống khe Ngang chảy giữa xã Phúc Trạch (theo hướng Đông – Tây),
rồi đổ về sông Troóc (chảy theo hướng Bắc – Nam). Sông Troóc và sông
Chày (chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc) hợp với nhau tạo thành sông
21
Son ngay trên đất xã Phúc Trạch. Về mùa khô các con suối nhỏ đều bị cạn,
đất đai khô cằn về mùa mưa thì thường bị ngập úng.
5.2. Thông tin kinh tế - xã hội tại xã Phúc Trạch
5.2.1 Đất đai và dân số
Bảng 1: Nguồn lực về đất đai và dân số
Đơn vị tính Số lượng
Tổng diện tích đất tự nhiên Ha 6.022,35
Đất sản xuất nông nghiệp Ha 741
Diện tích đất rừng của xã Ha 3.487
Bình quân số nhân khẩu trên hộ Người 4,8
Tổng dân số của xã Người 10.328
Số người trong độ tuổi lao động Người 5.592
Số người tham gia khai thác rừng Người 1.400
( nguồn: đại diện UBND xã)
Tổng diện tích tự nhiên của xã theo thống kê năm 2010 là: 6.022,35ha

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp là rất ít (741ha) so với tổng diện tích
đất tự nhiên của xã hiện có. Và sản xuất lúa nước không phải là mặt mạnh của
khu vực.
Bên cạnh đó ta nhận thấy rằng xu hướng diện tích trồng ngô, đậu lạc tăng
hằng năm và diện tích trồng sắn giảm một cách rõ rệt,trong những năm gần
đây hầu như không còn thu nhập từ việc trồng sắn. Sở dĩ có hiện tượng này là
do thị trường tiêu thụ ngô và đậu lạc trong những năm gần đây ổn định và sự
thu mua không ổn định của Nhà máy sản xuất tinh bột Quảng Bình dẫn đến
người dân không còn hào hứng với việc sản xuất sắn như ngày đầu mới thành
lập nhà máy.
Diện tích đất rừng của xã có 3.487ha, trong đó có 1.156ha là rừng đặc
dụng (diện tích thuộc VQG Phong Nha-Kẻ Bàng quản lý), 2.331ha là đất rừng
sản xuất. Theo thống kê 2008 thì diện tích rừng phòng hộ là 377ha nhưng tới
2010 thì diện tích rừng phong hộ đã không còn. Với con số hơn 2.331ha đất
rừng sản xuất tưởng chừng như có thể đáp ứng cho nhu cầu trồng rừng của
người dân. Tuy nhiên thực tế lại không như vậy vì trong đó đã có tới hơn
700ha là núi đá không có cây, hơn 200ha đang trong tình trạng tranh chấp với
xã Liên Trạch cùng với đất đai ở khu vực hầu hết thuộc vào nhóm nghèo chất
22
dinh dưỡng thì diện tích đất sản xuất không đáp ứng được nhu cầu của người
dân là một điều tât yếu.
Toàn xã có 12 thôn với 2.123 hộ, trung bình mỗi hộ có 4,8 nhân khẩu.
Trong một hộ thường có từ 2-3 thế hệ cá biệt có những hộ có đến 4 thế hệ
cùng chung sống (do việc kết hôn và sinh con sớm).
Dân số: Theo số liệu cuối năm 2009 Phúc Trạch có 10.328 người, trong
đó tổng số nữ: 4.995 người. Mật độ dân số cao: 171,5 người/km
2
gấp 2,05 lần
so với mật độ trung bình của toàn huyện Bố Trạch (83,6 người/km
2

). Chứng
tỏ rằng Phúc Trạch là xã có sức ép dân số cực lớn và với mức độ tập trung
dân số lớn như thế chúng ta cũng thấy rằng đây là một xã phát triển hơn một
số xã còn lại trong vùng đệm.
Lao động: số dân trong độ tuổi lao động: 5.592 người, trong đó lao động
nữ: 2.699 người. Số lao động tham gia vào khai thác rừng là 1.400 người.
Phần lớn các lao động này là lao động thủ công, lao động có kỹ thuật trình độ
cao chỉ chiếm con số rất nhỏ. Trình độ dân trí thấp là điều kiện khó khăn cơ
bản để áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở xã. Hiện tượng di
chuyển cơ học xảy ra và có xu hướng ngày càng gia tăng. Chủ yếu là lực
lượng lao động trẻ vào các tỉnh phía Nam làm thuê trong các nhà máy như:
may công nghiệp, dày da xuất khẩu và trồng cà phê ở các tỉnh cao nguyên.
5.3 Các hoạt động sản xuất
5.3.1. Các chỉ tiêu kinh tế
5.3.1.1 Cơ cấu kinh tế:
Bảng 3: Cơ cấu thu nhập của xã năm 2010
Ngành Tổng thu nhập (tỷ đồng) Tỷ lệ (%)
Nông-Lâm-Thủy sản 19,630 47,99
Dịch vụ tổng hợp 9,650 23,59
Thu khác ngoài Nông nghiệp 11,620 28,42
(Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2010)
Qua những số liệu trên chúng ta thấy rõ được đặc trưng sự phát triển
kinh tế của xã, nông nghiệp và lâm nghiệp vẫn là nghành thu nhập chủ đạo.
Trong 47,99% thì thu nhập của lâm nghiệp là chiếm phần lớn, thu nhập từ
nông nghiệp cũng tương đối cao, riêng thu nhập từ thủy sản thì rất thấp. Đó
cũng là điều tất yếu vì đây là một xã miền núi, diện tích lâm nghiệp lớn, số
23
người tham gia vào khai thác rừng là khá lớn. Còn riêng về thủy sản thì việc
đánh bắt chỉ diễn ra ở một số hộ, còn việc nuôi trồng thủy hải sản thì hầu như
là không có, giai đoạn sau này chỉ có một số hộ tiến hành nuôi nhưng thu

nhập từ nó cũng không đáng kể.
Kết quả điều tra 30 hộ cho ta biết cả 30 hộ đều có thu nhập từ trồng
trọt, 24 hộ có nguồn thu nhập từ chăn nuôi. Một số hộ còn có nguồn thu từ
buôn bán, làm thuê, đánh bắt thủy hải sản…và một số nghành khác. Rõ ràng
nền kinh tế của xã là nền kinh tế thuần nông nghiệp.
Trong nông nghiệp thì có sự phát triển hơn về lĩnh vực chăn nuôi và
sản xuất các sản phẩm cây trồng mang tính chất vùng đồi như: lạc, ngô,
chuối…so với sản xuất lúa nước. Diện tích đất sản xuất Nông nghiệp theo đầu
người của xã là 0.073(ha). Với tổng diện tích canh tác lúa nước của xã chỉ
66.02(ha) trong đó hầu hết là diện tích sản xuất một vụ (vụ Đông-Xuân) vụ
còn lại không có nước nên không thể canh tác. Vì đất nghèo chất dinh dưỡng,
năng suất lúa không cao nên thủy lợi không được đầu tư. Chính vì điều này
mà sản lượng bình quân theo đầu người hằng năm của xã Phúc Trạch tương
đối thấp.
Trong lâm nghiệp thì rừng được các hộ khai thác chủ yếu là rừng sản
xuất, các sản phẩm được khai thác chủ yếu là gỗ, ngoài ra các hộ còn khai
thác các loại động vật và lâm sản ngoại gỗ. Thu nhập từ rừng đóng vai trò rất
lớn trong tổng thu nhập của hộ.
Mặc dù đóng góp gần 25% tổng thu nhập của xã nhưng nghành dịch vụ
của xã phát triển không đồng đều mà chỉ tập trung ở khu vực chợ Troóc chủ
yếu là buôn bán và sửa chửa xe máy và các loại máy móc, một số khác tham
gia vào dịch vụ du lịch mà chủ yếu nhất là chở khách đi thuyền vào động.
VI. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG RỪNG VÀ CHÍNH
SÁCH GIAO ĐẤT GIAO RỪNG TẠI XÃ.
6.1 Thực trạng quản lý và sử dụng rừng
Theo UBND thì có khoảng 1400 hộ gia đình trong xã có tham gia vào
khai thác gỗ. Cán bộ xã xác nhận không thể đánh giá được nguồn thu nhập
của người dân vào khai thác rừng tuy nhiên họ có thể nắm được con số lao
động có tham gia vào khai thác rừng nên con số này là tương đối chính xác.
24

Trước khi giao đất giao rừng kết quả phỏng vấn cho thấy có 25 người
trong 30 người được phỏng vấn cho biết công việc giành nhiều thời gian nhất
của họ là khai thác các sản phẩm từ rừng. Những lao động này chủ yếu là lao
động nam giới và nằm trong độ tuổi từ 29 – 55 tuổi và thời gian khai thác
rừng luôn từ 9 – 10 tháng trong năm và từ 20 – 25 ngày trong tháng điều này
cho thấy việc khai thác các sản phẩm từ rừng là nguồn sống chủ yếu của một
số lượng lớn các hộ trong xã. Vì những lao động này chủ yếu là các lao động
chính trong gia đình. Với trình độ văn hóa tương đối thấp 7 – 12,vả lại việc
học thường được bỏ dở để đi khai thác rừng kiếm ăn vì vậy việc dành nhiều
thời gian cho việc khai thác các sản phẩm rừng là điều tất yếu.
Trong 30 hộ được phỏng vấn thi bình quân cứ một hộ có hơn 2 lao động
người tham gia vào khai thác rừng. Hầu hết những lao động nam chính trong
gia đình đều tham gia vào khai thác rừng điều này cho chúng ta thấy sự phụ
thuộc rất lớn vào rừng của các hộ gia đình ở đây. Công việc chính của họ ở
đây chủ yếu là khai thác rừng để kiếm sống. Ngoài việc khai thác rừng để
kiếm sống thì những công việc khác ở đây bao gồm lao động làm thuê, làm
nông, thợ xây, lai xe thuê, thủ công mỹ nghệ…
Rừng được khai thác hầu hết được người dân trả lời là rừng sản xuất tuy
nhiên trên thực tế thì cả rừng đặc dụng, rừng phòng hộ cũng bị khai thác, các
sản phẩm được khai thác chủ yếu là dùng để bán kiếm tiền trang trải trong
cuộc sống của gia đình.
Việc khai thác rừng ở xã hầu như diễn ra quanh năm với các sản phẩm
được khai thác chủ yếu được phân ra làm 3 nhóm, bao gồm: nhóm lâm sản
ngoại gỗ, nhóm động vật và nhóm gỗ.
Bảng 4: Tỷ lệ số hộ tham gia vào khai thác sử dụng tài nguyên rừng
Nhóm săn bắn động vật Nhóm khai thác LSNG Nhóm khai thác gỗ
20% 18% 62%
(Nguồn: Đại diện UBND xã và thảo luận nhóm)
Kết quả điều tra và xử lý số liệu cho thấy, sản phẩm hiện nay có số hộ
tham gia nhiều nhất đó là gỗ chiếm 62% tổng số hộ trong vùng. Lâm sản được

khai thác hầu hết là để bán. Các sản phẩm gỗ được khai thác chủ yếu là lim,
sến, gọ, trắc, chua…các loại gỗ này là mục tiêu chính của các đối tượng khai
thác chuyên nghiệp tìm đến để khai thác. Phương pháp khai thác không có gì
25

×