Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

đánh giá thực trạng chất dinh dưỡng dưới các trạng thái rừng trồng khác nhau tại núi luốt - xuân mai - chương mĩ - hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.02 KB, 57 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
“Đất là lớp tơi xốp của lớp vỏ trái đất có khả năng tạo ra sản phẩm của
cây trồng”, là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Môi trường đất được coi là cả một thế giới sinh động, một
hệ sinh thái phức tạp có quy luật phát sinh và phát triển theo không gian và thời
gian. Trong quá trình phát triển đó, ngoài các yếu tố phát sinh nội tại thì đất còn
chịu sự ảnh hưởng của quần xã thực vật.
Rừng và đất rừng có mối quan hệ mật thiết và có sự tác động qua lại lẫn
nhau, đây là lĩnh vực nghiên cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm. Có thể nói,
đất rừng là tấm gương phản ánh các hoạt động sống xảy ra trong rừng: chuyển
hóa năng lượng, tích lũy, trao đổi chất
Một trong những nhân tố ảnh hưởng quyết định tới sự sinh trưởng và
phát triển của cây rừng là tính chất đất, đặc biệt là chất dinh dưỡng trong đất.
Trong quá trình phân giải và chuyển hóa, chất dinh dưỡng khoáng thường tập
trung ở tầng đất mặt. Hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng khác nhau thì sinh
trưởng và phát triển của cây rừng sẽ khác nhau và ngược lại sự sinh trưởng và
phát triển của cây rừng cũng ảnh hưởng rất lớn tới hàm lượng chất dinh dưỡng
trong đất.
Việc nghiên cứu, đánh giá chất dinh dưỡng trong đất là vấn đề phức tạp
và khá mới mẻ trong điều kiện đất đai và rừng trồng Việt Nam. Những năm gần
đây, trồng rừng cải tạo đất được chú trọng và quan tâm nhiều hơn nhưng hiệu
quả đạt được chưa cao, chất dinh dưỡng trong đất bị suy giảm mạnh dẫn đến đất
bị suy thoái, mất dần khả năng sản xuất. Theo số liệu điều tra thì ngày nay chất
dinh dưỡng giảm đi đáng kể, đất đồi núi rất hiếm nơi nào có tỷ lệ hữu cơ 3 - 4%,
lân tổng số 0,3 – 0,4%, dung tích hấp thụ cao với trị số 20 - 30% miliđương
lượng, những con số này hiện nay chỉ còn ở đất feralit. Nguyên nhân là do phá
rừng làm nương rẫy, quá trình canh tác không hợp lý, sử dụng phân bón một
cách bừa bãi, phương thức khai thác không phù hợp, hoặc trồng rừng chưa chú ý
tới bảo vệ đất
1
Khu rừng nghiên cứu thực nghiệm núi Luốt thuộc địa bàn quản lý của


trường Đại học Lâm nghiệp. Đây là nơi lý tưởng phục vụ cho việc thực hành,
thực tập và nghiên cứu của sinh viên, giảng viên cũng như các cán bộ công nhân
viên trong trường. Tại đây, rừng được trồng dưới nhiều trạng thái khác nhau.
Trước đây, hoàn toàn là các rừng thuần loài keo, thông, bạch đàn sinh trưởng
và phát triển khá tốt và đồng đều.
Trong 1 vài năm gần đây, với mục đích bổ sung vào danh mục cây trồng
tại khu vực, đồng thời nâng cao độ che phủ và cải tạo tầng tán, các nhà kĩ thuật
lâm sinh đã đưa vào trồng thêm một số loài cây bản địa dưới tán. Đánh giá về
chất lượng cho thấy sinh trưởng của cây rừng tại các vị trí là không đồng đều.
Điều này cho thấy, rừng tại khu vực phần nào đã bị ảnh hưởng bởi các tác động
của con người, hoặc chịu sự tác động bởi các nhóm nhân tố sinh thái, đặc biệt là
chất lượng dinh dưỡng đất.
Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để có thể bảo vệ, cải tạo chất lượng
của rừng trồng, đồng thời nâng cao độ phì và chất dinh dưỡng trong đất đang là
vấn đề quan tâm lớn hiện nay đối với khu vực nghiên cứu.
Cũng từ những lí do đó, để góp phần vào nghiên cứu chất dinh dưỡng
trong đất và đề xuất các giải pháp có hiệu quả cao, tôi đã mạnh dạn tiến hành
thực hiện khoá luận tốt nghiệp:
“Đánh giá thực trạng chất dinh dưỡng dưới các trạng thái rừng trồng
khác nhau tại Núi Luốt - Xuân Mai - Chương Mĩ - Hà Nội”.
2
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chất dinh dưỡng trong đất là yếu tố quan trọng không thể tách rời khi
nghiên cứu về đất rừng. Cây rừng lấy chất dinh dưỡng từ đất để sinh trưởng và
phát triển, đồng thời cũng làm thay đổi các tính chất đó của đất. Xung quanh
việc nghiên cứu tác động qua lại hai chiều này, đã có rất nhiều các công trình
lớn phải kể đến.
1.1. Trên thế giới
Năm 1962, VM.Fridland đã tiến hành nghiên cứu về các nguyên tố vi

lượng trong đất ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả đã phân tích 35 nguyên tố vi
lượng trong đất bằng phương pháp quang phổ với độ nhạy 1/10000 kết quả là 1
số nguyên tố không phát hiện thấy hoặc chỉ có ở mức vạch. Các nghiên cứu về
vi lượng trong đất còn rất ít và chưa có nhiều thành tựu lớn đặc biệt trong lĩnh
vực lâm nghiệp.
Năm 1968, Các vấn đề dinh dưỡng thực vật, Dz.P.Samklif nhận xét: ”Khi
nồng độ PO
4
-
, PO
3
-
trong dung dịch đất cao, trong khi sự xâm nhập ion NO
3
-
thì
ngược lại. Trong các đất axit tích lũy các dạng Al
3+
, Mn
2+
di động ảnh hưởng
xấu đến sự trao đổi chất giữa tế bào rễ và dung dịch đất. Dzhikuklai cho rằng:
“Thường là các đặc điểm lý tính của đất ảnh hưởng đến sinh trưởng và sự hút
dinh dưỡng của cây lâu năm mạnh hơn là thành phần hóa học đất, hơn nữa các
nhân tố lý tính này được phản ánh vào các tài liệu phân tích hóa học của cây”.
Theo Harper (1974): Hàm lượng đạm tổng số trong đất nhiều khi khá lớn
nhưng cây trồng vẫn bị đói đạm bởi vì hàm lượng đạm dễ tiêu rất thấp. Lúc đầu
sự cố định đạm của cây chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh trưởng và phát triển nên
phải cần đến đạm của đất. Nếu hàm lượng đạm dễ tiêu trong đất thấp không đủ
cho cây sử dụng thì cây sẽ bị lão hóa nhanh và không hình thành nốt sần.

Năm 1987, Basu.P.K&Aparajita Mandi nghiên cứu ảnh hưởng của rừng
bạch đàn lai với tính chất đất rừng. Kết quả cho thấy độ phì đất dưới rừng bạch
đàn đã được cải thiện thay đổi theo tuổi của cây rừng. Chất hữu cơ và dung
3
lượng cation trao đổi tăng đáng kể, trong khi đó đạm tổng số tăng rất ít. Ngược
lại độ chua của đất lại giảm đi so với ban đầu.
Năm 1989, Chakraborty.R.N và Chakraborty.D đã nghiên cứu về sự thay
đổi tính chất đất dưới rừng Keo lá tràm ở các tuổi 2, 3 và 4. Các tác giả cho rằng
rừng trồng Keo lá tràm cải thiện đáng kể một số tính chất độ phì đất như: độ
chua đất biến đổi từ 5,9 - 7,6, khả năng giữ nước của đất tăng từ 22,9 lên 32,7,
chất hữu cơ tăng từ 0,82% lên 2,7%, đạm tăng từ 0,36% lên 0,5% và đặc biệt
màu sắc của đất cũng biến đổi một cách rõ rệt từ màu nâu vàng sang màu nâu.
Năm 1993, Marquez.O, Hernander.R, Torres.A và Fanco.W nghiên cứu
chất dinh dưỡng trong đất dưới rừng Tếch trồng thuần loài ở các tuổi 2, 7, 12.
Tác giả cho thấy đất dưới các rừng trồng Tếch ở các tuổi khác nhau đã có sự
thay đổi đáng kể. Cụ thể là lượng Ca
2+
, Mg
2+
, pH và dung lượng cation trao đổi
đạt cao nhất ở rừng Tếch 12 tuổi. Tuy nhiên lượng lân dễ tiêu lại giảm một cách
rõ rệt theo tuổi, trong khi đó lượng kali dễ tiêu lại biến động tăng đáng kể.
Năm 1998, Alfredson.H, Condron.L.M, Clarholm.M & Davis.M.R nghiên
cứu về sự biến đổi độ chua của đất và chất hữu cơ khi chuyển hình thức và sử
dụng đất từ đất trảng cỏ che phủ sang rừng lá kim. Kết quả nghiên cứu khẳng
định rằng sau 17 năm trồng rừng lá kim thì đạm tổng số, cation trao đổi giảm, độ
chua thay đổi tăng ở tầng 20 - 30cm. Tác giả cũng cho rằng Al
3+

di động và độ

chua trao đổi là những yếu tố dễ bị thay đổi do việc trồng rừng.
Những công trình này mới chỉ là những bước đầu nghiên cứu hàm lượng
một số nguyên tố hóa học tồn tại trong đất, mang tính định tính, còn rất nhiều
hạn chế và không đồng bộ. Cách tiếp cận chủ yếu phổ biến là nghiên cứu đặc
điểm tính chất của đất dưới một trạng thái rừng hoặc loài cây nào đó nên không
thể áp dụng các kết quả nghiên cứu một cách rộng rãi trong thực tiễn.
Những năm gần đây thì nghiên cứu dinh dưỡng trong đất là lĩnh vực
nghiên cứu thu hút nhiều nhà khoa học, có hướng nghiên cứu theo chiều sâu và
đầu tư hơn.
Trong những năm gần đây Trung Tâm Lâm Nghiệp Quốc Tế (CIFOR) đã
tiến hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở các
4
nước nhiệt đới. CIFOR đã tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng bạch đàn,
keo thuần loài trên các lập địa khác nhau và các loài cây trồng khác nhau ảnh
hưởng khác nhau đến chất dinh dưỡng, độ phì nhiêu, cân bằng nước, sự phân
hủy thảm mục và chu trình dinh dưỡng khoáng.
Một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học trường đại học
Illinois ở Urbana - Champaign và 8 viện khoa học khác đã làm rõ được vấn đề
chất dinh dưỡng trong đất. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các chất dinh dưỡng trong
đất ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bố cây trong rừng nhiệt đới. Sau đó, các nhà
khoa học so sánh bản đồ phân bố của 10 chất dinh dưỡng thiết yếu trong đất với
bản đồ loài cây của tất cả các cây với đường kính hơn 1 cm. Kết quả là mỗi khu
vực rất khác biệt với nhau, nhưng tại mỗi khu vực, các nhà khoa học đã tìm ra
được bằng chứng cho thấy rằng, thành phần của đất ảnh hưởng một cách đáng
kể nơi những loài cây nào đó mọc: Sự phân bố không gian của từ 36 đến 51%
loài cây có mối quan hệ rất lớn với sự phân bố của chất dinh dưỡng trong đất.
1.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về đất rừng, song những
thành tựu đầu tiên phải kể đến là sự đóng góp của Nguyễn Ngọc Bình (1968,
1970, 1979, 1986). Tác giả đã tổng quát những đặc điểm cơ bản của đất dưới các

đai rừng, kiểu rừng, loại rừng ở miền Bắc Việt Nam. Những nghiên cứu đó cho
thấy hàm lượng chất hữu cơ trong đất nhiều hay ít ảnh hưởng tới sự sinh trưởng
của cây rừng và ngược lại, mỗi loại rừng lại có khả năng tích lũy chất hữu cơ
một cách khác nhau. Tác giả còn nghiên cứu về quá trình tích lũy chất hữu cơ
trong đất rừng, đặc điểm về thành phần mùn trong các loại đất rừng, đồng thời
nghiên cứu ảnh hưởng của các loại đất rừng khác nhau đến quá trình tích lũy
chất hữu cơ và đặc điểm thành phần mùn của đất.
Năm 1985, Ngô Đình Quế khi nghiên cứu đặc điểm đất trồng Thông nhựa
và ảnh hưởng của thông nhựa tới độ phì đất đã cho kết quả như sau: Sau 8 - 10
năm trồng, Thông nhựa bước đầu cho thấy tính chất hóa học đất có sự thay đổi
nhưng không nhiều, khả năng tích lũy mùn ở rừng thấp, độ chua thủy phân tăng.
Tuy nhiên lý tính của đất được cải thiện đáng kể.
5
Bên cạnh những nghiên cứu về nhóm các chỉ tiêu đa lượng của đất thì
những nghiên cứu về các nguyên tố vi lượng ở trong nước cũng giống như trên
thế giới, các công trình nghiên cứu còn có nhiều hạn chế. Ở Việt Nam, nghiên
cứu về vấn đề này có Vũ Cao Thái (1977), Phan Đình Thái (1983). Kết quả thu
được như sau:
- Mangan (Mn): Tỷ lệ Mn biến động 0,001- 0,03%, hàm lượng Mn có trị
số cao ở đất Feralit mùn trên núi đá, đất nâu đỏ trên núi đá vôi, bazan. Hàm
lượng Mangan dễ tiêu Mn
2+
trong khoảng <1mg/100g đất với đất bạc màu, đất
phèn còn tới khoảng 4mg/100gđất với đất phát triển trên đá vôi.
- Kẽm (Zn): Tỷ lệ khá cao trong đất khoảng 0,01 - 0,03% đặc biệt tầng đất
mặt. Tuy nhiên, kẽm dễ tiêu khá thấp trung bình khoảng 0,08ppm.
- Đồng (Cu): Tỷ lệ có mặt trong tất cả các đất khoảng 0,002%
- Bo: Hàm lượng rất thấp trong các loại đất.Hàm lượng Bo chỉ khoảng 0,1
- 0,5 ppm.
Năm 1988, tác giả Hoàng Xuân Tý đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng

của rừng Bồ Đề đến độ phì của đất. Tác giả theo dõi diễn biến những đặc điểm
của đất dựa trên việc chia đất làm 5 nhóm: Nhóm độ chua, nhóm chất hữu cơ,
nhóm chất dễ tiêu, nhóm tính chất vật lý và độ ẩm của đất. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trên 4 nhóm đều giảm trong đó có 3 nhóm giảm mạnh hơn: Nhóm chất
hữu cơ, nhóm lý tính, nhóm chất dễ tiêu. Tiếp đó, nhóm tính chất vật lý cũng
xấu đi rõ rệt nhất là độ xốp và sức chứa nước. Đất ban đầu càng tốt thì sự giảm
sút độ xốp và sức chứa nước càng rõ rệt. Điều đó chứng tỏ chất dinh dưỡng
trong đất liên quan đến sinh trưởng của cây Bồ Đề và ngược lại sinh trưởng của
Bồ Đề đã làm suy thoái đất.
Năm 1997, Nguyễn Trường và Vũ Văn Hiển nghiên cứu ảnh hưởng của
thảm thực vật rừng đến tính chất hóa học của đất ở Bắc Sơn đã kết luận rằng:
Tính chất hóa học thay đổi phụ thuộc vào độ che phủ của thảm thực vật. Ở nơi
có độ che phủ thấp đất bị chua hóa, tỷ lệ mùn và hàm lượng các chất dễ tiêu thấp
hơn nhiều so với những nơi đất được che phủ tốt.
6
Năm 1998, Nguyễn Vy trong cuốn Độ phì nhiêu thực tế đã viết: “Hiểu
biết về độ phì nhiêu thực tế chính là cơ sở để sử dụng đất hợp lý để đầu tư theo
chiều sâu, thâm canh. Theo các tác giả Việt Nam thì Lân là yếu tố hạn chế năng
suất đứng hàng đầu hiện nay. Nói cách khác Việt Nam hiện nay đang thiếu Lân
trầm trọng và phân lân trở thành chiến lược trong sản xuất Nông Lâm Nghiệp ở
nước ta.
Năm 1999, theo kết quả của Nguyễn Đình Thành cho rằng Bạch Đàn ở
tuổi 3 - 6 trồng ở các dạng địa hình khác nhau chưa có biểu hiện làm khô kiệt
nước và chất dinh dưỡng đất quá mạnh và ngược lại một số tính chất lý hóa học
của đất phần nào được cải thiện tốt hơn so với đất trống đã bỏ hoang hóa trong
cùng một dạng lập địa và cùng độ cao.
Năm 2000, kết quả của Nguyễn Văn Hòa tại Huyện EA Súp - Đắc Lắc đã
khẳng định khả năng cải tạo đất của cây Điều. Tác giả cho thấy đất dưới rừng
Điều 5 tuổi đã biến đổi theo hướng tích cực, dung trọng, tỷ trọng, độ xốp cải
thiện đáng kể. Lượng mùn và các chất dinh dưỡng tổng số đều tăng so với đối

chứng và đặc biệt độ chua tầng đất giảm rõ rệt.
Năm 2001, luận văn tiến sĩ Khoa học Lâm nghiệp của Vũ Tấn Phương đã
tiến hành nghiên cứu quan hệ giữa sinh trưởng cây Keo lai với một số tính chất
đất ở Ba Vì. Tác giả nghiên cứu diễn biến độ phì của đất và ảnh hưởng của nó
tới sinh trưởng loài cây Keo lai. Kết quả thu được: một số tính chất đất tầng mặt
(0 - 20cm) có quan hệ với chỉ tiêu chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực
là chặt chẽ hơn so với một số tính chất đất tầng 30 - 50cm. Theo tác giả một số
tính chất của đất đã tác động rõ rệt D
1.3
, Hvn, có nghĩa là các tính chất đất tác
động đến sinh trưởng của cây một cách tổng hợp trong mối quan hệ ảnh hưởng
lẫn nhau.
Năm 2002, Vũ Văn Thuận khi nghiên cứu về đất dưới tán rừng trồng
Chiêu Liêu tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Lâm Sinh Cầu Hai - Phú Thọ
đã cho thấy: Tương quan giữa sinh trưởng D
1.3
, Hvn của Chiêu Liêu với nhóm
các tính chất vật lý của đất chặt chẽ hơn so với nhóm chất N, P, K dễ tiêu, nhóm
độ chua và hàm lượng mùn, đạm tổng số trong đất. Hai chỉ tiêu sinh trưởng trên
7
có mối quan hệ chặt chẽ với độ no bazơ, tổng bazơ trao đổi, độ xốp và hàm
lượng P
2
O
5
trong đất.
Dưới các trạng thái rừng khác nhau thì tính chất hóa học đất, chất dinh
dưỡng cũng khác nhau và cũng có sự biến đổi nhiều. Các công trình nghiên cứu
đã tiến hành công phu và tỷ mỉ dưới nhiều trạng thái và ở nhiều nơi thu được
nhiều kết quả có giá trị trong sản xuất Lâm nghiệp.

Năm 2002, theo kết quả nghiên cứu: “Đặc tính hóa học của đất trong các
trạng thái thực bì ở Hoành Bồ - Quảng Ninh” của Trần Đinh Lý và Nguyễn Thế
Hưng cho thấy mùn trong các mẫu đất được phân tích rất khác nhau và khả năng
tích lũy mùn từ 0,83% - 4,71%. Quy luật chung của sự biến đổi hàm lượng mùn
theo chiều sâu phẫu diện. Tuy nhiên mức độ giảm ở các trạng thái thực bì không
giống nhau. Nhìn chung hàm lượng mùn trong đất không lớn. Nếu tính hàm
lượng mùn trung bình cho cả 3 tầng thì trạng thái rừng có hàm lượng mùn từ
2,82% - 3,85%, các loại hình thảm cây bụi có từ 1,38% - 2,59% giá trị trung
bình khoảng 2,35%.
Theo kết quả nghiên cứu năm 2005 của Nguyễn Văn Luận tại Núi Luốt,
hàm lượng các chất dinh dưỡng ở tầng mặt khu vực nghiên cứu từ nghèo đến
trung bình. Hàm lượng mùn là 2,86 % và NH
4
+
là 4,46 mg/100gđất được đánh
giá là trung bình. Hàm lượng K
2
O là 6,53mg/100gđất và P
2
O
5
là 0,33
mg/100gđất được đánh giá là đất nghèo lân và kali (Theo Trần Công Tấu, dẫn
theo Tài nguyên Đất, NXB ĐHQG Hà Nội). Ngoài ra tác giả nhận định rằng tại
khu vực nghiên cứu thì hàm lượng mùn, NH
4
+
, K
2
O, P

2
O
5
tăng thì rất có lợi cho
cả cây trồng và đất rừng. Còn ngược lại, độ chua thủy phân tăng và độ no bazơ
giảm sẽ là yếu tố rất gây bất lợi cho khu vực.
Cũng theo kết quả của Lương Thương Huyền năm 2008, tại Núi Luốt thì
hàm lượng đạm, lân cũng ở mức nghèo và giảm đi một lượng đáng kể, điều này
gây bất lợi cho đất cũng như cây trồng. Khu vực hàm lượng các chất đã ở mức
nghèo nay lại càng thiếu hụt nghiêm trọng. Hàm lượng đạm từ 4,46 mg/100g
chỉ còn 3,25 mg/100g đất, lân từ 0,33 mg/100g xuống còn 0,16 mg/100g đất.
Điều này có thể cho thấy rằng đạm và lân là các nguyên tố dễ bị suy giảm, xói
8
mòn rửa trôi dưới tác dụng của thời tiết, địa hình, nhu cầu sử dụng của thực vật
và thiếu những biện pháp tác động tích cực tác động vào đất rừng cải thiện hàm
lượng các chất này
Một điều thuận lợi tại khu vực hàm lượng mùn và kali tăng cao hơn
nhưng kali vẫn ở mức nghèo với 6,75 mg/100g đất, còn hàm lượng mùn thì đạt
ở mức giàu với 5,16 %. Có thể do theo thời gian lớp thảm mục dày hơn, khả
năng tích lũy mùn lớn, quá trình mùn hóa diễn ra mạnh cùng với sự thay đổi thời
tiết về nhiệt độ, lượng mưa làm cho quá trình tạo mùn thuận lợi.
Cũng nghiên cứu về cây Keo lá tràm nhưng tại Kỳ Sơn - Hòa Bình thì
hàm lượng các chất dưới rừng keo cũng ở mức nghèo nhưng thấp hơn rất nhiều
so với hàm lượng các chất dưới rừng keo lá tràm tại Núi Luốt. Điều này cho
thấy khu vực nghiên cứu khác nhau dẫn đến tính chất của đất cũng như sinh
trưởng của loài cũng khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Trung
Thương năm 2007: Hàm lượng mùn có 3,49 %, NH
4
+
có 3,67 mg/100g đất, K

2
O
có 2,1 mg/100g đất, P
2
O
5
có 0,37 mg/100g đất.
Dựa vào sự khác biệt dựa hàm lượng các chất tại 2 khu vực ta có thể
khẳng định ở những địa hình khác nhau, khu vực khác nhau thì hàm lượng các
nguyên tố dinh dưỡng trong đất dưới trạng thái rừng không giống nhau.
Đối với Thông Mã Vĩ cũng tương tự theo kết quả nghiên cứu của Trần
Trung Thương năm 2007: Hàm lượng mùn có 3,14 %, NH
4
+
có 3,13 mg/100g
đất, K
2
O có 2,08 mg/100g đất, P
2
O
5
có 0,31 mg/100g đất. Như vậy, hàm lượng
các chất dinh dưỡng trong đất thuộc mức nghèo. Theo tác giả thì đất trồng
Thông Mã Vĩ làm giảm độ chua thủy phân, giảm độ no bazo, đạm, lân, kali dễ
tiêu ít.
Cũng theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Tuyết Phương năm 2009 đối
với Thông Mã Vĩ tại Trạm Tấu - Yên Bái : Hàm lượng mùn có 6,31 mg/100g
đất, NH
4
+

có 4,72 mg/100g đất, K
2
O có 8,85 mg/100g đất, P
2
O
5
có 0,59 mg/100g
đất. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất cũng tương đối lớn. Hàm lượng
mùn thuộc mức giàu, đạm thuộc mức trung bình còn lại lân và kali thì nghèo.
Cùng loài cây trồng nhưng đất rừng ở Yên Bái có hàm lượng các chất dinh
9
dưỡng cao hơn so với tại Hòa bình có thể do Yên Bái nằm trong khí hậu nhiệt
đới và á nhiệt đới gió mùa trên núi, đất ở đây có quá trình phong hóa mạnh. Đất
tại khu vực thuộc nhóm đất xám phát triển trên đá Gnai. Còn ở Hòa Bình là đất
Feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ Phiến thạch sét.
Chứng tỏ rằng tại các khu vực khác nhau đá mẹ hình thành nên đất khác
nhau sẽ ảnh hưởng tới tính chất và hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong đất.
Nhận xét:
Từ tổng quan cho thấy vấn đề nghiên cứu các tính chất và các nguyên tố
dinh dưỡng trong đất đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả trong và
ngoài nước. Những nghiên cứu này hết sức đa dạng, phong phú và có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn sản xuất. Mọi nghiên cứu đều nhằm mục tiêu chung
là trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đề ra các phương án sử dụng đất rừng
hợp lí, hiểu quả và bền vững nhất.
Song các công trình này chưa đồng bộ chỉ ở một số địa điểm chưa mang
tính khái quát, toàn diện. Các công trình đánh giá thực trạng chất dinh dưỡng
dưới tán rừng còn ít. Những công trình tiếp theo cần có sự quan tâm, đầu tư
nghiên cứu hơn về thực trạng chất dinh dưỡng trong đất rừng.

10

PHẦN II
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở xác định thực trạng chất dinh dưỡng dưới trạng thái rừng trồng
ở các vị trí khác nhau tại khu vực Núi Luốt - Xuân Mai - Chương Mĩ - Hà Nội
nhằm đề xuất một số giải pháp cải tạo, bảo vệ và sử dụng đất rừng tại khu vực
một cách hợp lí và bền vững.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận tiến hành nghiên cứu tính chất dưới rừng trồng Keo, Thông và
rừng hỗn loài tại khu vực Núi Luốt - Xuân Mai - Chương Mĩ - Hà Nội.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
*Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tính chất đất ở độ sâu 0 – 20cm tại các
vị trí và các trạng thái rừng trồng khác nhau.
* Giói hạn về địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong giới hạn khu vực rừng nghiên cứu thực
nghiệm Núi Luốt - Xuân Mai -Chương Mĩ - Hà Nội.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Mô tả đặc điểm hình thái phẫu diện đất tại các vị trí nghiên cứu.
- Nghiên cứu đặc điểm chất dinh dưỡng dưới các trạng thái thái rừng
trồng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của địa hình tới chất dinh dưỡng trong đất.
- Đánh giá ảnh hưởng của thực vật tới sự hình thành của thực vật tới sự
hình thành chất dinh dưỡng trong đất
- Đề xuất hướng cải tạo, bảo vệ và sử dụng đất rừng một cách hợp lý, bền
vững hơn.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận

11
Nhân tố thực vật có vai trò vô cùng quan trọng đối với đất rừng. Thực
vật vừa sử dụng các chất dinh dưỡng trong đất dưới dạng dễ tiêu thông qua bộ rễ
và cũng đồng thời có thể trả lại cho đất các nguyên tố dinh dưỡng (đạm,
cácbon ) hoặc các nguyên tố khác thông qua quá trình trao đổi với đất hoặc vật
rơi rụng. Kết quả là chất dinh dưỡng khoáng dần tập trung ở tầng mặt. Thực vật
thường lấy chất dinh dưỡng để sử dụng ở tầng đất mặt nên quá trình sinh trưởng
của cây sẽ có mối quan hệ mật thiết hơn với các tính chất đất ở tầng mặt. Vì vậy,
để nghiên cứu thực trạng chất dinh dưỡng dưới rừng đề tài tập trung nghiên cứu
chất dinh dưỡng của đất ở độ sâu 0 - 20cm.
Đất được hình thành chủ yếu do 6 nhân tố: Đá mẹ, địa chất, địa hình,
thực vật và sự tác động của con người. Đất có quá trình phát sinh phát triển và
có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Theo quá trình lịch sử cùng sự tác
động mạnh mẽ của các nhân tố đã hình thành nhiều loại đất có các tính chất
khác nhau. Trong đất có nhiều các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho cây rừng
bao gồm cả các chất đa lượng (N, P, K, Ca, Mg, S ) và các chất vi lượng (Fe,
Mn, Bo, Zn ), các chất dễ tiêu và các chất khó tiêu được gọi là chất dinh dưỡng
trong đất. Theo sự biến đổi của các quy luật tự nhiên cùng các yếu tố thì các chất
dinh dưỡng trong đất có thể được tích lũy hoặc bị suy giảm đi nhiều.
Trong phạm vi nghiên cứu coi các yếu tố là đồng nhất, khác nhau về sinh
vật và địa hình. Trạng thái rừng trồng khác nhau thì chất dinh dưỡng dưới rừng
cũng khác nhau. Ở những vị trí địa hình khác nhau đất sẽ có những tính chất
không giống nhau và sẽ ảnh hưởng khác nhau đến sinh trưởng phát triển đến cây
trồng.
Để thấy rõ mối quan hệ giữa đất và cây rừng làm cơ sở đánh giá việc lựa
chọn loài cây phù hợp và sử dụng đất rừng một cách hợp lý cải thiện chất dinh
dưỡng trong đất nên tiến hành nghiên cứu một số tính chất đất ở tầng mặt ở các
vị trí khác nhau.
2.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp
2.4.2.1. Phương pháp thừa kế số liệu

12
- Kế thừa số liệu về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu như: vị trí địa
lý, địa hình, khí hậu
- Kế thừa số liệu về lịch sử rừng trồng trước đó.
2.4.2.2. Phương pháp điều tra thực địa
- Khảo sát toàn bộ khu vực nghiên cứu
- Thiết lập các ô tiêu chuẩn (OTC) nghiên cứu: Thông qua kết quả khảo
sát, đánh giá điều kiện chung của khu vực nghiên cứu, tương ứng với mỗi đai
cao khác nhau, tiến hành thiết lập các OTC điển hình tạm thời ở các vị trí chân,
sườn, đỉnh dưới các trạng thái rừng trồng khác nhau với kích thước mỗi OTC là
500m
2
(25m×20m). Để đánh giá đồng đều về thực trạng chất dinh dưỡng dưới
các trạng thái rừng khác nhau, với mỗi vị trí địa hình có 3 OTC được lập (trong
đó có 1 OTC đại diện cho rừng trồng Thông thuần loài, 1 OTC đại diện cho
rừng Keo trồng thuần loài, 1 OTC đại diện cho rừng trồng hỗn loài), tổng số
OTC nghiên cứu là 9 ô.
- Mô tả hình thái phẫu diện đất:
Ở trung tâm của mỗi OTC, tiến hành đào 1 phẫu diện đất đại diện, sau đó
mô tả các chỉ tiêu hình thái đất theo bảng mô tả của Bộ môn Khoa học Đất -
Trường Đại học Lâm nghiệp.
+ Xác định độ dày tầng đất bằng thước dây, độ chính xác đến cm.
+ Xác định độ chặt bằng dao nhọn chuyên dùng.
+ Xác định tỉ lệ đá lẫn, kết von theo phương pháp ước lượng.
+ Xác định màu sắc của đất bằng phương pháp mục trắc.
+ Xác định thành phần cơ giới đất bằng phương pháp xoe con giun
+ Xác định độ ẩm của đất bằng phương pháp nắm đất trong lòng bàn tay.
+ Xác định kết cấu đất theo hình dạng, kích thước hạt đất.
- Lấy mẫu đất phân tích:
Tương ứng với mỗi OTC, tiến hành lấy mẫu đất để xác định các chỉ tiêu

hoá học đất. Mẫu đất lấy để phân tích được lấy dựa theo phương pháp lấy mẫu
của CHLB Đức (1990): Lấy mẫu tổng hợp từ nhiều mẫu riêng lẻ. Mẫu tổng hợp
được lấy từ 9 mẫu riêng lẻ trong đó 1 mẫu lấy ở trung tâm của OTC và 8 mẫu
13
còn lại lấy theo 8 hướng: Đ, T, N, B, ĐN, ĐB, TN, TB. Do đề tài tập trung vào
việc đánh giá chất dinh dưỡng nên mẫu được lấy ở độ sâu 0 - 20cm.
Phương pháp lấy mẫu theo sơ đồ:
Mẫu đất tổng hợp lấy khoảng 1-1,5kg ở cùng độ sâu 0-20cm và với
lượng bằng nhau từ các mẫu riêng lẻ.
2.4.3. Phương pháp nội nghiệp
2.4.3.1. Xử lý mẫu đất
Các mẫu đất lấy về cần phải hong khô trong không khí, băm nhỏ (1-
1,5cm) và phơi khô trong bóng râm, thoáng gió và không có hóa chất.
Sau khi đất được hong khô thì đập nhỏ rồi nhặt các tạp vật, rễ cây, xác
côn trùng sau đó giã và rây qua rây có đường kính 1mm, riêng đối với mẫu đất
dùng để phân tích hàm lượng mùn thì rây qua rây đường kính 0,25mm.
2.4.3.2. Phân tích mẫu đất trong phòng thí nghiệm
* Các tính chất hóa học cơ bản cuả đất được phân tích theo các phương pháp
sau:
1
7 6
5
3
4
29
8
14
- Xác định đạm tổng số theo phương pháp của Kjeldhall.
- Xác định hàm lượng mùn bằng phương pháp Chi-U-Rin.
- Xác định độ chua thủy phân của đất theo phương pháp theo Kappen &

Gilcovic.
- Xác định độ chua trao đổi.
- Xác định pH
H2O
, pH
KCl
bằng máy đo pH metter.
* Phân tích hàm lượng nguyên tố dinh dưỡng đa lượng dễ tiêu trong đất bằng
máy hấp phụ quang phổ.
- Xác định hàm lượng đạm dễ tiêu (NH
4
+
) bằng phương pháp so màu.
- Xác định hàm lượng kali dễ tiêu (K
2
O) bằng dung dịch axeton amon
sau đó đo K
+
trên quang kế ngọn lửa.
- Xác định hàm lượng Lân dễ tiêu (P
2
O
5
) theo phương pháp của Olsen.
2.4.3.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu nghiên cứu để đánh giá được đặc điểm định tính và định
lượng thông qua hóa nghiệm phân tích trong phòng thí nghiệm với các dụng cụ,
hóa chất được chuẩn hóa bằng các chỉ tiêu kĩ thuật chính xác để xác định tính
chất và các nguyên tố cần thiết nghiên cứu trong đất.
- Xác định hàm lượng mùn bằng phương pháp Chi-U-Rin:

% mùn (M) =
a
TKNVVo ***724.1*003.0*)( −
Trong đó:
Vo: Số ml muối Morh dùng chuẩn thí nghiệm trắng
V: Số ml muối Morh dùng chuẩn mẫu
N: Nồng độ đương lượng dd muối Morh
T: Hệ số điều chỉnh muối Morh
K: Hệ số khô kiệt
a: Số gam đất dùng để phân tích
- Các số liệu về đất sau khi được tính toán bằng các công thức sẽ được lập thành
các bảng biểu hoặc được biểu diễn bằng hình vẽ, đồ thị.
15
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.Vị trí địa lý
Khu vực nghiên cứu thực nghiệm Núi Luốt trường Đại học Lâm Nghiệp
nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tây, cách thị xã Hoà Bình 45 km về phía Đông Nam và
cách Quận Hà Đông 35km về phía Tây Bắc.
Toạ độ địa lý:
22
0
50

3
’’
độ vĩ Bắc.
105
0

30

45
’’
độ kinh Đông.
- Phía Đông giáp quốc lộ 21A.
- Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hoà Sơn huyện Lương Sơn tỉnh Hoà Bình.
- Phía Nam giáp thị trấn Xuân Mai và quốc lộ 6.
- Phía Bắc giáp đội 6 nông trường chè Cửu Long.
3.1.2. Địa hình
Khu vực nghiên cứu có địa hình tương đối đơn giản, gồm hai quả đồi nối
tiếp chạy dài theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Một đỉnh có độ cao 133m so với
mặt nước biển, đỉnh kia cao 76m. Độ dốc trung bình của khu vực nghiên cứu là
15
0
.
Nhận xét: Địa hình cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn
tới chất dinh dưỡng của rừng. Độ dốc của khu vực cũng tương đối nên hiện
tượng xói mòn xảy ra thường xuyên. Địa hình thì không quá phức tạp nên có thể
thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp chống xói mòn mà có tác dụng tốt
trong bảo vệ và giữ các chất dinh dưỡng trong đất.
3.1.3. Khí hậu thuỷ văn
Theo kết quả nghiên cứu của trạm khí tượng thuỷ văn Ba Vì - Hà Tây từ
năm 2000 cho thấy: Khu vực Xuân Mai hàng năm có hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10.
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Trong thời gian này
lượng mưa nhỏ hơn lượng bốc hơi.
16
Bảng 3.1: Đặc điểm khí hậu khu vực nghiên cứu
Tháng Nhiệt độ (

0
C) Độ ẩm (%) Lượng mưa
(mm)
1 17,41 80,8 15,89
2 18,04 83,3 24,84
3 20,26 85,2 44,38
4 24,39 83,5 90,42
5 25,86 82,5 224,67
6 28,32 81,4 245,03
7 28,12 83,4 311,47
8 27,71 85,3 263,62
9 26,56 83,1 197,99
10 25,29 81,7 155,19
11 22,6 79,9 38,85
12 18,91 79,1 24,42
Trung bình 23,6225 82,433 136,4
(Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn Trường Đại học Lâm nghiệp – Hà Nội)
+ Chế độ nhiệt:
- Nhiệt độ trung bình năm là 23,62
0
C.
- Nhiệt độ tháng nóng nhất (tháng 6): 28,32
0
C.
- Nhiệt độ tháng lạnh nhất (tháng 1): 17,41
0
C.
+ Chế độ mưa:
- Lượng mưa trung bình năm là 136,4 mm. Phân bố không đều qua các
tháng trong năm.

- Lượng mưa trung bình tháng cao nhất (tháng 7); 311,47 mm
- Lượng mưa trung bình tháng thấp nhất (tháng 1): 15,89 mm
- Số ngày mưa trong năm: 210 ngày
+ Độ ẩm không khí:
- Khu vực nghiên cứu có độ ẩm không khí tương đối cao nhưng phân bố
không đều giữa các tháng trong năm.
- Độ ẩm không khí trung bình năm 82,43%.
- Tháng có độ ẩm không khí trung bình cao nhất (tháng 8): 85,3 %.
- Tháng có độ ẩm không khí trung bình thấp nhất (tháng 12): 79,1 %.
(Tất cả số liệu trên đều được tính trung bình trong 10 năm tính từ 1997- 2006.
Số liệu do trạm khí tượng thuỷ văn trường Đại học Lâm nghiệp cung cấp).
17
+ Chế độ gió:
Khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của hai luồng gió chính:
- Gió Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Gió Đông Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7.
Ngoài ra từ tháng 4 đến tháng 6 khu vực còn chịu ảnh hưởng của gió phơn
Tây Nam (gió Lào).
Nhận xét: Nhìn chung, điều kiện khí hậu, thuỷ văn của khu vực Núi Luốt
mang các đặc điểm tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của hệ
thực vật.
3.1.4. Đất đai thổ nhưỡng
Nhóm đất của khu vực nghiên cứu là đất feralit màu nâu vàng phát triển
trên đá mẹ Poocfiarit, tầng đất từ trung bình đến dày, số diện tích đất tầng mỏng
chiếm tỷ lệ rất ít, những nơi tầng đất dày tập trung chủ yếu ở chân hai quả đồi,
sườn Đông Nam quả đồi thấp (76m so với mặt nước biển), và sườn phía Tây
Nam quả đồi cao (133m so với mặt nước biển). Tầng đất mỏng tập trung ở đỉnh
đồi, sườn phía Đông Bắc quả đồi thấp, sườn Tây Bắc quả đồi cao. Những nơi
tầng đất mỏng tỷ lệ đá lẫn càng lớn. Đá lộ đầu chủ yếu tập trung ở khu vực gần
đỉnh và đỉnh 133m.

Nhìn chung đất khá chặt, đặc biệt là những lớp đất mặt ở khu vực chân
đồi và những lớp đất sâu của khu vực đỉnh và yên ngựa. Kết von thật và giả
được thấy ở khắp nơi trong khu vực, có những nơi kết von thật chiếm tới 60% -
70% trọng lượng đất. Điều này chứng tỏ có sự tích luỹ sắt khá phổ biến và trầm
trọng trong đất, ở một số nơi, đá ong được phát hiện với mức độ nhiều hoặc ít.
Đá ong chủ yếu tập trung ở chân đồi phía Tây Nam, Đông Nam đồi cao. Hàm
lượng mùn trong đất nhìn chung thấp, điều đó chứng tỏ quá trình tích luỹ mùn
rất kém.
Những điều đã trình bày ở trên phần nào nói lên mức độ feralit hoá rất
mạnh trong khu vực núi Luốt.
Trong những năm trước đây, quá trình xói mòn và rửa trôi khá nghiêm
trọng. Điều đó được thể hiện qua kết cấu phẫu diện đất: Tầng A thường mỏng có
18
tỷ lệ sét cao nên khi mưa rất dính và phổ biến là tầng AB hoặc AP (từ 5-10cm).
Tầng B nằm trong khoảng từ 10 -110 cm có tỷ lệ sét 25% - 26%. Tầng C thường
dày và một số đá lẫn đã bị phong hoá tạo ra tầng BC xen kẽ. Đất có hàm lượng
chất dinh dưỡng cao, hàm lượng mùn từ 2 - 4%, độ ẩm của đất từ 6 - 9%. Tỷ lệ
đá lẫn trong đất ở mức độ trung bình.
Nhận xét: Đất đai là nhân tố sinh thái quan trọng quyết định sự tồn tại và
phát triển của sinh vật, trong đó có hệ thực vật. Điều kiện đất đai khu vực núi
Luốt - Trường Đại học Lâm Nghiệp, nhìn chung vẫn mang tính chất đất rừng.
Tuy nhiên do sự tác động lớn của con người nên độ dày tầng đất còn thấp, hàm
lượng dinh dưỡng chưa cao, quá trình xói mòn diễn ra mạnh, nên đã phần nào
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của hệ thực vật nơi đây.
3.1.5.Đặc điểm về động - thực vật
Trước năm 1984, thực vật trong khu vực chủ yếu là cây bụi thảm tươi,
những loài cây chủ yếu bao gồm: Sim, Mua, Bồ cu vẽ, Cỏ tranh, cỏ Lào, Trinh
nữ, …
Sau năm 1984, Trường Đại học Lâm nghiệp đã tiến hành trồng rừng với
các loài cây chủ yếu như: Thông đuôi ngựa, Keo lá tràm, Keo tai tượng, Bạch

đàn trắng. Một vài năm trở lại đây, trường đã tiến hành trồng bổ sung các loại
cây có nguồn gốc từ rừng tự nhiên nhằm bảo tồn nguồn gen và bảo tồn da dạng
sinh học. Độ che phủ và độ tàn che ở đây khá cao khoảng 70%.
Theo ghi nhận rừng thực nghiệm Núi Luốt có khoảng 342 loài thực vật
bậc cao có mạch, thuộc 257 chi và 90 họ. Thực vật khu vực rất da dạng về dạng
sống và 7 nhóm giá trị.
Tài nguyên động vật: Tại khu vự có 156 loài động vật có xương sống
thuộc 10 bộ, 60 họ và 104 giống trong đó có 21 loài động vật quý hiếm
Tài nguyên côn trùng: Đã phát hiện 409 loài thuộc 87 họ và 10 bộ côn trùng. Bộ
Cánh Vẩy xác định có 208 loài, 135 giống, 30 họ. Có 8 loài côn trùng quý hiếm
Tài nguyên nấm: Phát hiện 123 loài thuộc 36 họ, 10 lớp, 4 ngành phụ.
Ngành phụ nấm đảm và Nấm bất toàn là những ngành phụ chủ yếu.
3.2. Điều kiện dân sinh kinh tế -xã hội
19
Khu nghiên cứu thực nghiệm núi Luốt- Trường Đại học Lâm nghiệp chủ
yếu nằm trên địa bàn xã Hoà Sơn - huyện Lương Sơn- tỉnh Hoà Bình. Đây là
một xã miền núi với 3.822 nhân khẩu trong đó dân tộc Mường chiếm 58,85%,
dân tộc Kinh chiếm 41,15%. Người dân ở đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp,
diện tích đất lâm nghiệp chiếm 543 ha nhưng nghề rừng chưa được phát triển.
Do là khu rừng duy nhất ở khu vực nên núi Luốt chịu sức ép nhiều mặt từ mọi
phía. Ngoài các hoạt động tích cực vào rừng còn có các hoạt động tiêu cực diễn
ra thường xuyên. Việc chăn thả gia súc còn theo kiểu tự do, ý thức bảo vệ rừng
của người dân còn thấp.
Bên cạnh đó nằm trong khu vực thị trấn Xuân Mai có các đơn vị bộ đội,
các trường đào tạo. Đặc biệt là Trường Đại học Lâm nghiệp – trung tâm đào tạo
cán bộ kỹ thuật của ngành, trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật
Lâm nghiệp, do vậy đã có ảnh hưởng tích cực đến bảo vệ và phát triển tại khu
vực nghiên cứu thực nghiệm.
Nhận xét chung: Nhìn chung đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu
tương đối đồng nhất về đá mẹ, địa chất, cùng sự tác động của con người và cũng

có nhiều thuận lợi cho hệ động- thực vật thể hiện qua sự phong phú, đa dạng về
số lượng chủng loại của chúng trong khu vực nghiên cứu. Đất tại khu vực là đất
feralit màu nâu vàng phát triển trên đá mẹ Poocfiarit, hàm lượng các chất đinh
dưỡng trong đất tương đối thấp, mang đặc tính của đất đồi núi Việt Nam. Do tại
khu vực có tập đoàn cây trồng tương đối đa dạng, mỗi loài cây trồng có nhu cầu
chất dinh dưỡng khác nhau nên cũng trả lại cho đất lượng chất hữu cơ khác
nhau. Bên cạnh đó, đây là địa bàn thực tập và nghiên cứu của Trường nên rừng
thường xuyên bị ảnh hưởng của các hoạt động của con người. Thêm vào đó là
các hoạt động chăn thả gia súc bừa bãi, hoạt động lấy củi, quét lá dẫn tới tính
chất đất bị ảnh hưởng rõ rệt đặc biệt là hàm lượng các chất dinh dưỡng trong
đất.
20
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu hình thái phẫu diện đất tại khu vực nghiên cứu
Phẫu diện đất là mặt cắt thẳng góc theo phương dây dọi từ mặt vỏ ngoài
cùng của trái đất đến tầng mẫu chất. Phẫu diện đất là bức tranh phản ánh quá
trình hình thành và phát triển của đất hay nói cách khác tất cả những quá trình
trong đất đều để lại dấu vết trong nó. Ở những độ sâu khác nhau trong đất những
21
tầng đất được hình thành rõ rệt. Đặc điểm phân lớp đó là đặc điểm quan trọng
của đất mà cũng nhiều tính chất vật lý hóa học và độ phì của đất phụ thuộc vào
nó.
Hình thái phẫu diện đất dưới rừng là một minh chứng cụ thể cho những
đánh giá ở trên. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây rừng sẽ làm
thay đổi đặc điểm của hình thái đất, tầng A tơi xốp hơn, màu sắc đậm hơn, cải
thiện về tính chất ẩm, tính chất nhiệt và cải thiện kết cấu đất. Cùng một loại đất
nhưng dưới trạng thái rừng khác nhau, vị trí địa hình khác nhau thì đặc điểm
hình thái cũng có sự khác nhau rõ rệt.
Để nhận xét khách quan hơn về tính chất dinh dưỡng đất, khóa luận tiến

hành mô tả 1số phẫu diện đất đại diện dưới rừng tại các vị trí nghiên cứu khác
nhau. Kết quả thu được như sau:
4.1.1. Phẫu diện KCĐ1
Thời tiết đợt điều tra: nắng ráo; vị trí: chân đồi. Độ dốc 8
0
, hướng dốc:
Đông Nam, Độ cao tuyệt đối: 25m, dạng địa hình: tương đối bằng phẳng; đá mẹ:
Poocfiarit; thực vật: rừng trồng thuần loài Keo, độ tàn che 0,8, cây bụi thảm
tươi: cỏ lá Tre, cỏ Lào, Dương xỉ, độ che phủ 90%, độ cao trung bình 0,3m,
nước ngầm sâu, xói mòn mặt: yếu; đá lộ đầu nằm rải rác.
Tên đất ngoài thực địa: Đất Feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ
Poocfiarit.
Đặc điểm các tầng phát sinh:

22
Tầng A: Từ 0 - 50cm, có màu nâu, hơi ẩm, kết
cấu viên hạt, tơi xốp, có phân giun, có nhiều rễ
cây, tỷ lệ đá lẫn ít. Giữa tầng A và tầng B có sự
chuyển lớp rõ rệt về màu sắc.
Tầng B: Từ 50 - 92cm, đất có màu nâu nhạt, hơi
khô, kết cấu viên hạt, độ chặt: hơi chặt, thành phần
cơ giới: thịt trung bình, không có chất lẫn vào, tỉ lệ
đá lẫn 10%, Chuyển lớp rõ về màu sắc.
- Tầng C: Từ 92 -120cm, có màu vàng nhạt, hơi
khô.
0cm
50cm
92cm
120cm
A

B
C
Tầng A: Từ 0 - 50cm, có màu nâu đậm, đất hơi
ẩm, kết cấu viên hạt, tơi xốp, có phân giun, có
nhiều rễ cây, tỷ lệ đá lẫn ít. Giữa tầng A và tầng
B có sự chuyển lớp rõ rệt về màu sắc.
Tầng B: Từ 50 - 92cm, đất có màu nâu nhạt,
hơi khô, kết cấu viên hạt, độ chặt: hơi chặt,
thành phần cơ giới: thịt trung bình, không có
chất lẫn vào, tỉ lệ đá lẫn 10%, Chuyển lớp rõ về
màu sắc.
- Tầng C: Từ 92 -120cm, có màu vàng nhạt, hơi
khô.
0cm
50cm
92cm
120cm
A
B
C
4.1.2. Phẫu diện TCĐ2
Thời tiết đợt điều tra nắng ráo; vị trí: chân đồi; địa hình: Độ dốc 8
0
, độ cao
tuyệt đối: 25m, hướng dốc: Tây Nam, dạng địa hình: tương đối bằng phẳng; đá
mẹ: Poocfiarit; thực vật: rừng thuần loài thông, độ tàn che 0,6, cây bụi thảm
tươi: cỏ lá Tre, cỏ Lào, Dương xỉ, cỏ Roi ngựa, độ che phủ 70%, độ cao trung
bình 0,5m, nước ngầm sâu, xói mòn mặt: yếu; đá lộ đầu rải rác.
Tên đất ngoài thực địa: Đất Feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ
Poocfiarit.

- Tầng B
k
: Từ 22-74 cm có màu nâu, hơi ẩm, rễ cây ít; kết cấu viên, hạt; độ chặt:
hơi chặt; thành phần cơ giới: thịt trung bình; chất lẫn vào: không có; chất mới
sinh: kết von trung bình (25%); chuyển lớp rõ ràng.
- Tầng C: Từ 74 -110cm, màu vàng nhạt, đất chặt.
4.1.3. Phẫu diện HLCĐ3
23
Tầng A: Từ 0-22cm có vàng xám, hơi ẩm, kết
cấu: viên, hạt; độ chặt: chặt; thành phần cơ
giới: thịt trung bình; chất mới sinh: phân giun,
rễ cây trung bình, tỷ lệ đá lẫn ít (10%). Giữa
tầng A và tầng B có sự chuyển lớp rõ rệt về
màu sắc.
A
Bk
C
0cm
22cm
74cm
110cm
Thời tiết đợt điều tra nắng ráo; vị trí: chân đồi; địa hình: Độ dốc 8
0
, hướng
dốc: Tây Nam, độ cao tuyệt đối: 27m; dạng địa hình: tương đối bằng phẳng; đá
mẹ: Poocfiarit; thực vật: rừng trồng hỗn loài; độ tàn che 0,6; cây bụi thảm tươi:
cỏ lá Tre, Cỏ Lào, Dương xỉ, độ che phủ 70%, độ cao trung bình 0,5m, nước
ngầm sâu, xói mòn mặt: yếu; đá lộ đầu rải rác.
Tên đất ngoài thực địa: Đất Feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ
Poocfiarit.

* Đặc điểm hình thái phẫu diện:
4.1.4. Phẫu diện KSĐ1
Thời tiết đợt điều tra nắng ráo; vị trí: sườn đỉnh 76m; hướng dốc: Tây
Nam; dạng địa hình: sườn thoải; độ dốc 20
0
; đá mẹ: Poocfiarit; thực vật: rừng
trồng thuần loài Keo; độ tàn che 0,7; cây bụi thảm tươi: cỏ lá Tre, cỏ Lào,
24
Tầng A: từ 0 -28cm; màu nâu vàng; đất hơi
ẩm; kết cấu: viên, hạt; độ chặt: hơi chặt; đất
hơi ẩm, có phân giun, có nhiều rễ cây, tỷ lệ đá
lẫn ít. Giữa tầng A và tầng B có sự chuyển lớp
rõ rệt.
- Tầng B
k
: Từ 28-75cm; có màu vàng nâu, hơi
khô; kết von nhiều (30%); kết cấu đất: viên,
hạt; độ chặt: hơi chặt; thành phần cơ giới: thịt
trung bình, không có chất lẫn vào. Chuyển lớp
rõ về kết von.
- Tầng BC: Từ 75-90cm; màu vàng nhạt; đất
hơi khô; rễ cây: không có; chất lẫn vào: không
có; đất chặt.
-Tầng C: Từ 90-120cm, mẫu chất có màu xám
xanh, hơi khô.
90cm
120cm
75cm
A
B

k
BC
C
0cm
28cm
Dương xỉ; độ che phủ 70%, độ cao trung bình 0,5m, nước ngầm sâu, xói mòn
mặt: trung bình; đá lộ đầu rải rác.
Tên đất ngoài thực địa: Đất feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ
Poocfiarit.
4.1.5. Phẫu diện TSĐ2
Thời tiết đợt điều tra nắng ráo; vị trí: chân đồi; địa hình: Độ dốc 19
0
,
hướng dốc: Đông Đông Bắc, dạng địa hình: dốc thoải; đá mẹ: Poocfiarit; thực
vật: rừng thuần loài thông, độ tàn che 0,6, cây bụi thảm tươi: cỏ lá Tre, Mâm
25
- Tầng A: Từ 0- 10cm; có vàng đậm; đất hơi
ẩm; kết cấu: viên hạt; độ chặt: chặt; thành
phần cơ giới: thịt trung bình, chất mới sinh:
phân giun; rễ cây: trung bình; tỷ lệ đá lẫn ít
(10%). Giữa tầng A và tầng B có sự chuyển
lớp rõ rệt về màu sắc.
- Tầng B
1K
: Từ 10- 40cm; có màu nâu nhạt,
hơi ẩm; rễ cây ít; kết cấu: viên, hạt; độ chặt:
hơi chặt; thành phần cơ giới: thịt trung bình;
chất lẫn vào: không có; kết von nhiều (35%),
chuyển lớp rõ ràng.
Tầng B

2K
: Từ 40- 85cm; có màu nâu nhạt, hơi
ẩm; rễ cây ít; kết cấu: viên hạt; độ chặt: hơi
chặt; thành phần cơ giới: thịt trung bình; chất
lẫn vào: không có, kết von trung bình (25%).
- Tầng C: Từ 85-110cm, màu vàng xám, hơi
ẩm; độ chặt: chặt.
0cm
14cm
85cm
110cm
A
B
1k
C
B
2k
40cm

×