Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

đánh giá thực trạng và các giải pháp phát triển sản xuất tại hợp tác xã dịch vụ mây tre đan bao la xã quảng phú, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 77 trang )

MỤC LỤC
Nội dung Trang
MỤC LỤC i
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU iii
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ iv
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT v
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
1.2.1. Mục tiêu tổng quát 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
2.1.1. Lý luận chung về hiệu quả sản xuất 3
2.1.2. Lý luận chung về kinh tế HTX 8
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 11
2.2.1. Thực tiễn phát triển kinh tế Hợp Tác Xã 11
2.2.2. Thực tiễn phát triển hàng Mây tre đan 16
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 20
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 20
3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 20
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 20
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
3.5. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THÔNG TIN DỮ LIỆU 21
3.6. CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU 21
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
i
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HTX BAO LA 24
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 24
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 26


4.1.3. Tình hình chung về HTX mây tre đan Bao La 31
4.2. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT HÀNG MÂY TRE ĐAN TẠI HỘ GIA
ĐÌNH 34
4.2.1. Quy mô sản xuất 34
4.2.2. Nguồn nguyên liệu 36
4.2.3. Công cụ và các công đoạn trong đan lát 38
4.2.4. Hiệu quả sản xuất hàng mây tre đan 40
4.2.5. Thị trường đầu ra 45
4.3. PHÁT TRIỂN HÀNG MÂY TRE THEO HƯỚNG MỚI TẠI HTX BAO
LA 49
4.3.1. Tổ chức sản xuất, kĩ thuật, công cụ và nguyên liệu 49
4.3.2. Sản phẩm và giá bán 51
4.3.3. Thị trường của sản phẩm mới 53
4.3.4. Hiệu quả bước đầu 55
4.4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HÀNG MÂY TRE ĐAN 57
4.4.1. Nhận định chung 57
4.4.2. Các giải pháp phát triển 59
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 63
5.1. KẾT LUẬN 63
5.2. KIẾN NGHỊ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT Nội dung Trang
1 Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan của Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2006 18
2 Bảng 2: Thống kê chăn nuôi của thôn Bao La 29
3 Bảng 3: Ước lượng nguyên liệu tiêu thụ/năm và giá theo các nguồn
khác nhau 37
4 Bảng 4: Các loại công cụ trong sản xuất mây tre đan 38

5 Bảng 5: Chi phí, năng suất và thu nhập của hoạt động đan lát 41
6 Bảng 6: Chi phí và thu nhập của hoạt động trồng Lúa, Lạc, Mía 42
7 Bảng 7: Một số sản phẩm và giá bán qua các mối giao dịch 47
8 Bảng 8: Giá bán một số loại sản phẩm điển hình của HTX 52
9 Bảng 9: Chi phí sản xuất của HTX Bao La trong chu kì sản xuất
5/2007 đến 30/04/2008 55
10 Bảng 10: Đánh giá hiệu quả kinh tế trong chu kì sản xuất 5/2007
đến 30/04/2008 55
iii
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
STT Nội dung Trang
1 Bản đồ: Bản đồ địa giới hành chính tỉnh Thừa Thiên Huế 24
2 Biểu đồ 1: So sánh doanh thu trung bình từ các hoạt động sản xuất
chính ở nhóm hộ điều tra 28
3 Biểu đồ 2: So sánh thu nhập hỗn hợp TB/hộ của hoạt động trồng
trọt và mây tre đan 44
4 Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức và quản lý của HTX theo quy định của
luật HTX Năm 2003 32
5 Sơ đồ 2: Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm truyền thống năm 2007 45
6 Sơ đồ 3: Sơ đồ mạng lưới tiêu thụ sản phẩm mới của HTX Bao La 53
iv
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
DT : Doanh thu
EP : Lãi ròng
FAHA : The Hue Fine Arts and Handicraft Association
(Hiệp hội hàng thủ công mỹ nghệ Huế)
GO : Giá trị sản xuất
HTX : Hợp tác xã
IC : Chi phí trung gian
LMHTX : Liên minh hợp tác xã

MI : Thu nhập hỗn hợp
PP : Phương pháp
SP : Sản phẩm
TB : Trung bình
TC : Tổng chi phí
UBND : Ủy ban nhân dân
VA : Giá trị gia tăng
v
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay ở nước ta nói chung cũng như trên địa bàn Nông nghiệp nông
thôn nói riêng, vấn đề dư thừa lao động, thiếu công ăn việc làm đã trở nên
trầm trọng, gay gắt do quỹ đất nông nghiệp ngày càng hạn hẹp. Chúng ta
không hoàn toàn hy vọng giải quyết nạn thất nghiệp, thiếu việc làm chỉ bằng
sự phát triển của Công nghiệp, dịch vụ trong nước hoặc sự đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài. Chính vì vậy giải quyết việc làm cho lao động Nông nghiệp bằng
việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống là một phương pháp
có ý nghĩa cả về kinh tế lẫn văn hoá - xã hội. Nó vừa góp phần tạo công ăn
việc làm thu hút lao động nhàn rỗi, nâng cao năng suất lao động, thu nhập và
đời sống người dân nông thôn. Vừa tạo tiền đề cơ sở để hình thành nền đại
Công nghiệp, tác phong Công nghiệp hoá và làm thay đổi bộ mặt nông thôn
cũng bằng sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp. Ngành thủ công mỹ nghệ
với những sản phẩm tinh xảo, khéo léo được xuất khẩu sang nhiều nước trên
Thế giới, còn phần nào thể hiện tài năng và giá trị văn hoá, tinh thần của con
người Việt Nam.
Làng Bao La, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền là một trong những
vùng quê có lịch sử lâu đời ở Thừa Thiên Huế. Nghề mây tre đan đã gắn bó
với người dân nơi đây từ bao đời, từ đó cũng tạo ra những giá trị văn hóa riêng
đặc trưng cho nông thôn nơi đây. Người dân tham gia sản xuất mây tre đan
chiếm tỷ lệ rất lớn (hơn 80% số dân trong làng). Thu nhập từ các hoạt động

đan lát của làng nghề tuy không cao nhưng chiếm một vị trí quan trọng trong
thu nhập và chi tiêu hàng ngày của các hộ gia đình. Tuy nhiên, tình hình sản
xuất hàng mây tre đan của người dân còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc cần
phải giải quyết. Một số hộ đã có hiện tượng bỏ nghề truyền thống. Trên thị
trường có ngày càng nhiều các sản phẩm tiêu dùng có thể thay thế các sản
phẩm đan từ tre của làng nghề càng làm cho nghề đan ở đây thêm khó khăn
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về bảo vệ và phát triển làng
nghề, tháng 5 năm 2007 HTX mây tre đan Bao La đã được thành lập với
nhiệm vụ là làm trung gian dịch vụ và sản xuất các sản phẩm mây tre đan có
1
chất lượng cao. Do mới thành lập nên kinh nghiệm sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm đang còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên đã chứng tỏ vai trò quan trọng
trong đổi mới sản phẩm và đưa sản phẩm ra thị trường. Để tìm hiểu thực trạng
của nghề mây tre đan nơi đây tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực
trạng và các giải pháp phát triển sản xuất tại Hợp tác xã Dịch vụ mây tre
đan Bao La xã Quảng phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu tổng quát.
Trên cơ sở phân tích đánh giá các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động sản
xuất hàng Mây tre tại HTX Bao La, đánh giá đúng thực trạng để từ đó đề xuất
các giải pháp phát triển nghề Mây tre tại đây.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá quy mô, kĩ thuật các vấn đề liên quan của sản xuất mây tre
đan tại HTX Bao La.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế, hiệu quả văn hóa xã hội của nghề đan trong
HTX.
- Xác định những khó khăn, thuận lợi khi tiến hành sản xuất mây tre
đan.
- Đề ra những giải pháp khả thi nhằm khuyến cáo góp phần phát triển
sản xuất mây tre đan.

2
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Lý luận chung về hiệu quả sản xuất
Có nhiều quan điểm về hiệu quả sản xuất song tựu trung lại hiệu quả
của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều có thể khai thác trên ba khía cạnh
chính là hiệu quả văn hóa, xã hội, kinh tế. Trong những năm gần đây người ta
còn xem xét tới hiệu quả môi trường. Đó là những vấn đề mà một hay nhiều
hoạt động sản xuất kinh doanh có thể tác động theo hai hướng tích cực và tiêu
cực. Đối với hoạt đội Mây tre đan cũng vậy những hiệu quả sản xuất đó nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của nghề.
2.1.1.1. Hiệu quả văn hóa, xã hội và môi trường
Hiệu quả xã hội là phản ánh những tác động của hoạt động sản xuất
kinh doanh đến các yếu tố xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng là khả
năng giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương. Tác động đến cơ
cấu lao động, sự di chuyển của dân cư. Thông qua có có những tác động tích
cực hay tiêu cực, để đánh giá sự phù hợp của loại hình sản xuất. Ở đây đi xem
xét hoạt động mây tre đan có tác động như thế nào đến cơ cấu lao động của
địa phương, khả năng tạo công ăn việc làm.
Những hoạt động sản xuất kinh doanh có những tác động nhất định đến
đời sống văn hóa của người dân địa phương. Nó tác động tới sự tồn tại và phát
triển của các thiết chế văn hóa, phong tục tập quán của người dân. Đặc biệt là
sự phát triển của các làng nghề có lịch sử hàng trăm năm thì sự ảnh hưởng của
nó tới văn hóa địa phương là không nhỏ. Nó có thể ảnh hưởng tới sự cố kết
cộng đồng, thói quen sinh hoạt của người dân.
Hầu hết các hoạt động sản xuất đều có ảnh hưởng tới môi trường, sự tác
động này thường là theo chiều hướng tiêu cực. Tuy nhiên có những hoạt động
ảnh hưởng nhiều có hoạt động ảnh hưởng ít. Điều này thể hiện ở chỗ những
biến đổi của các yếu tố môi trường như đất, nước, không khí, sinh vật Đối
với hoạt động mây tre đan có sử dụng nguồn nguyên liệu là Mây và Tre khai

thác từ tự nhiên nên nó sẽ có những tác động nhất định đến môi trường.
3
2.1.1.2. Hiệu quả kinh tế
- Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh chất lượng các
hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý, khai thác và sử dụng các
nguồn lực của các nhà quản lý. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về
hiệu quả kinh tế. Theo giáo sư Nguyễn Tiên Mạnh thì: “ Hiệu quả kinh tế của
một hiện tượng (hay quá trình) kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để đạt được mục tiêu xác
định.”[11]
Hồ Vính Đào cho rằng: “hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích kinh tế là
so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao
động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được” [11].
Còn theo Farsell (1957), Fchult (1964), Rizzo (1979) và Elli (1993) thì
cho rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi so sánh giữa kết quả đạt được
với chi phí bỏ ra (nhân lực, vật lực, tài lực…) [11].
Tóm lại, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ tổ
chức, quản lý kinh tế. Chất lượng khai thác các nguồn lực trong quá trình tái
sản xuất để đạt được mục tiêu để ra ban đầu.
- Bản chất của hiệu quả kinh tế.
Mặc dù các nhà kinh tế học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu
quả kinh tế, song họ đều thống nhất về bản chất của hiệu quả kinh tế. Rằng
người sản xuất muốn có lợi nhuận thì phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó
là: nhân lực, vật lực, tài lực và tiến hành so sánh kết quả đạt được sau quá
trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra thì có được hiệu quả kinh tế. Sự
chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được càng cao thì hiệu quả kinh tế
càng lớn và ngược lại.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả tạo ra được là tổng hợp
của nhiều yếu tố đầu vào và môi trường ngoại cảnh. Có nhiều cách khác nhau

để đạt được cùng một kết quả, và do tính mâu thuẫn giữa khả năng hạn hẹp về
các nguồn lực với nhu cầu vô hạn của con người mà ta cần đánh giá kết quả
của quá trình sản xuất kinh doanh. Để đạt được kết quả đó cần có các hoạt
động gì? Chi phí bao nhiêu? Vấn đề đặt ra ở đây là để đạt được kết quả đó thì
4
hoạt động thế nào để chi phí thấp nhất? Hay với khoản chi phí đó (nguồn lực
đó) thì làm như thế nào để cho kết quả là cao nhất? Đó là vấn đề và bản chất
của hiệu quả kinh.
- Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế.
Trên cơ sở kết quả đạt được và chi phí bỏ ra ta có thể xác định được
hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế có thể được tính toán, thể hiện qua nhiều
tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu phân tích và kết quả tính toán.
Chẳng hạn với mục tiêu là sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội
thì dùng chỉ tiêu giá trị sản xuất. Hay với doanh nghiệp, trang trại phải thuê
nhân công thì phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận, còn đối với nông hộ thì dùng chỉ
tiêu giá trị gia tăng hay thu nhập hỗn hợp.
Tùy vào hoàn cảnh, mục tiêu mà hiệu quả kinh tế có thể được tính toán,
phân tích theo các phương pháp khác nhau, nhưng phải tuân theo các nguyên
tắc sau:
+ Nguyên tắc về sự thống nhất giữa mục tiêu và chỉ tiêu hiệu quả. Theo
nguyên tắc này thì chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải thống nhất với mục tiêu, chỉ
tiêu được đưa ra dựa trên cơ sở mục tiêu đánh giá hiệu quả.
+ Nguyên tắc về sự thống nhất giữa các lợi ích. Một phương án được
xem là có hiệu quả nhất khi nó kết hợp hài hòa giữa các lợi ích kinh tế, xã hội
và môi trường.
+ Nguyên tắc về tính chính xác khoa học. Đây là nguyên tắc cơ bản,
then chốt trong phân tích hiệu quả kinh tế. Nguyên tắc này đòi hỏi những căn
cứ tính toán hiệu quả kinh tế phải được xác định một cách chính xác, khoa
học, tránh chủ quan, tùy tiện.
+ Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế. Nguyên tắc này đòi hỏi

việc tính toán hiệu quả kinh tế phải dựa trên những số liệu thực tế, đơn giản,
dễ tính toán, dễ hiểu.
Thông thường, các nhà kinh tế học tính toán hiệu quả kinh tế theo hai
phương pháp sau:
Phương pháp xem xét tổng thể: Hiệu quả so sánh về mặt lượng giữa giá
trị sản xuất và chi sản xuất. Phương pháp này có hai dạng là dạng thuận và
dạng nghịch.
5
Dạng thuận: H = Q/C. Dạng nghịch: H = C/Q.
Trong đó: Q : Tổng giá trị sản xuất
C : Tổng chi phí sản xuất
H : Hiệu quả kinh tế
Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các
nguồn lực. Xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu
kết quả, hay để sản xuất một đơn vị kết quả cần tiêu tốn bao nhiêu nguồn lực.
Vì vậy phương pháp này giúp ta so sánh ở các quy mô khác nhau cho ta
hiệu quả khác nhau như thế nào.
Phương pháp xem xét hiệu quả cận biên. Đây là phương pháp so sánh
phần sản phẩm tăng thêm với chi phí tăng thêm. Phương pháp này cũng gồm
hai dạng là:
Dạng thuận: H
b
= Q/ C. Dạng nghịch: H
b
= C/ Q
Trong đó: H
b
: Hiệu quả cận biên
Q : Kết quả thu thêm
C : Chi phí bỏ ra thêm

Phương pháp này nghiên cứu đầu tư theo chiều sâu, đầu tư thâm canh,
đầu tư cho tái sản xuất mở rộng. Nó xác định kết quả thu thêm một đơn vị cần
tăng thêm bao nhiêu đơn vị nguồn lực, hay khi tăng thêm một đơn vị nguồn
lực thì thu được thêm bao nhiêu đơn vị kết quả.
Tùy vào mục đích nghiên cứu, phân tích mà ta chọn phương pháp phân
tích hiệu quả kinh tế cho phù hợp. Thông thường ta nên dùng cả hai phương
pháp để việc xem xét đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn.
- Một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả trong sản xuất kinh doanh nói chung và trong hoạt động Mây
tre đan nói riêng là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ quản lý, sử dụng các
nguồn lực. Dựa vào các đặc trưng cơ bản của hoạt động Mây tre đan mà việc
nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh tế trong hoạt động này sử dụng các tiêu chí
sau:
Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ mà
hoạt động đan lát tạo ra được trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
6
Giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị hàng hóa mà nông hộ hộ xã viên hoặc HTX
làm ra trong năm đó.
Giá trị gia tăng (VA): Là toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động đan
lát trong một thời kỳ (1 năm): VA = GO - IC.
Trong đó IC là chi phí trung gian, bao gồm: Chi phí vật chất như chi phí
nguyên vật liệu chính, công cụ rẻ tiền hàng năm, chi phí tài sản cố định trong
hoạt động đan lát này coi như bằng không.
Thu nhập hỗn hợp (MI): Là 1 bộ phận của giá trị gia tăng sau khi đã trừ
đi thuế nông nghiệp. Đây là thành phần thu nhập thuần túy bao gồm công lao
động của nông hộ.
MI = VA - C1 - T
Trong đó VA là giá trị gia tăng, C1 là chi phí khấu hao tài sản cố định.
T là thuế nông nghiệp.
Tuy nhiên đối với đặc thù hoạt động mây tre đan ở Bao La C1 và T coi

như bằng không nên MI = VA.
Trên cơ sở so sánh các yếu tố đầu vào với đầu ra, xem xét trên khía
cạnh hiệu quả kinh tế trong đan lát, tôi áp dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh tế như sau:
Thu nhập hỗn hợp (MI) là toàn bộ thu nhập hỗn hợp từ đan lát trong
năm. Nghiên cứu (2007).
Chi phí trên thu nhập: Là chỉ tiêu đánh giá xem mỗi đồng chi phí đầu tư
cho đan lát trong một năm mang lại bao nhiêu đồng thu nhập.
Chi phí/thu nhập = TC/MI
Với TC tổng chi phí mua nguyên liệu, chi phí khác.
Lãi ròng (lãi thực kí hiệu: EP): Là phần còn lại sau khi lấy thu nhập hỗn
hợp (lãi gộp) trừ đi chi phí lao động sống. Thể hiện bằng công thức.
Lãi ròng = thu nhập hỗn hợp - chi phí lao động sống.
Chi phí trên lãi ròng: Là chỉ tiêu phản ảnh xem mỗi đồng vốn bỏ ra thu
về bao nhiêu đồng lãi ròng.
Thu nhập hỗn hợp trên công đan: Là chỉ tiêu đánh giá xem giá trị ngày
công của hoạt động đan lát là bao nhiêu.
Thu nhập/công đan = MI/Tổng công đan.
7
2.1.2. Lý luận chung về kinh tế HTX
2.1.2.1. Tính tất yếu khách quan về sự ra đời của vấn đề hợp tác trong sản
xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Những hộ tiểu nông, những hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp không thể
không hợp tác lại với nhau, trước những diễn biến phức tạp của điều kiện tự
nhiên; trước sự chèn ép của các cơ sở kinh doanh lớn trong cùng lĩnh vực hoạt
động. Sự liên kết tự nhiên đó đã gắn bó những người sản xuất nhỏ trong các tổ
chức kinh tế (được gọi là hợp tác xã) theo yêu cầu sản xuất của họ.
C. Mác nói rằng đối với “nghề nông hợp lí” thì phải có “bàn tay của
người tiểu nông sống bằng lao động của mình” hoặc phải có “sự kiểm soát của
những người sản xuất có liên quan với nhau”. Khi nói về sự liên kết của những

người nông dân, F. Ănghen cũng chỉ rõ: “Liên hiệp kinh tế của nông dân với
hiệp hội mà trong đó có thể ngày càng giảm bớt sự bóc lột lao động làm thuê,.
Những hiệp hội đó dần sẽ chiếm được đa số áp đảo những bộ phận cấu thành
của hiệp hội sản xuất toàn xã hội ” khi nói về tính chất tất yếu của sự hợp tác
trong nông nghiệp, Cauki chỉ ra: chính sự phát triển của lực lượng sản xuất
của nền nông hộ đã dẫn đến nhu cầu hợp tác phong phú và nhiều vẽ.[8]
Từ các luận điểm trên cho thấy hợp tác hóa trong nông nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp là một xu hướng phát triển tất yếu xuất phát từ yêu cầu sản
xuất của người dân. Trên thực tế sự phát triển của loại hình kinh tế hộp tác xã
đã chứng minh luận điểm trên là hoàn toàn đúng đắn. Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế thu hút nông dân và thợ thủ công sản xuất nhỏ ở mức độ, quy mô và
hình thức khác nhau. Dẫn đến sự phong phú về loại hình kinh tế hợp tác xã, nó
có sự khác biệt giữa các quốc gia, các vùng và ngành nghề. Nhiều mô hình
hợp tác xã đã được hình thành và phát triển ở các nước trên thế giới (Hợp tác
xã nông nghiệp như: HTX cung ứng phân bón, HTX thủy lợi Hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp như: HTX mộc, HTX đan lát ) đã chứng tỏ vai trò quan
trọng của kinh tế hợp tác xã ở nông thôn.
2.1.2.2. Khái niệm, vai trò và chức năng của Hợp Tác Xã
Nhà kinh tế học A.V. Traianốp đã nhấn mạnh: “hợp tác nông nghiệp là
sự bổ sung cho kinh tế nông dân, phục vụ cho nó và vì thế thiếu kinh tế hộ
8
nông dân thì hợp tác xã không có ý nghĩa gì cả” và “chỉ có những hợp tác xã
do chính những người nông dân điều hành theo sãng kiến của họ và lợi ích cảu
họp tác xã ấy được kiểm nghiệm trên thực tế mới có giá trị”. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh (1927) Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới những vấn đề
lý luận, mục đích, loại hình và chách tổ chức hợp tác xã và chỉ ra: “Hợp tác xã
là hợp vốn hợp sức với nhau, vốn nhiều có sức mạnh thì khó nhọc ít và lợi ích
nhiều” Hợp tác xã tập hợp những người dân sản xuất nhỏ để tăng cường sức
mạnh cho họ, tạo cho họ khả năng cạnh tranh với các loại hình kinh tế khác, là
nơi mà họ có thể trao đổi kinh nghiệm, phát huy vai trò, và có lợi ích bình

đẳng.
Trong nội bộ từng hợp tác xã lại đưa ra nhưng quy định riêng cho mình
và các họp tác xã trong một nước trong một địa phương thường kết hợp lại
trong một Nghiệp đoàn hay liên minh hợp tác xã để có tiếng nói chung trong
việc đề xuất các chính sách đảm bảo quyền lợi của mình và trong phạm vị nhỏ.
Chính phủ các nước lần lượt đưa ra Luật hợp tác xã nhằm định hướng cho sự
phát triển kinh tế nông thôn.
Luật Hợp tác xã (2003) của Việt Nam đã nêu đinh nghĩa: Hợp tác xã là
tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi
chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên
tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. [2], [7]
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của
pháp luật. [7]
2.1.2.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
Hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:
Tự nguyện: Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo
quy định của Luật này, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập
9
hợp tác xã; xã viên có quyền ra khỏi hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp
tác xã.
Dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý,
kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực
hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và
những vấn đề khác quy định trong Điều lệ hợp tác xã.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: Hợp tác xã tự chủ và tự chịu

trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân
phối thu nhập. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các
khoản lỗ của hợp tác xã, lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã,
một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại
chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh
thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã
hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy định của
pháp luật.[2], [7]
2.1.2.4. Đặc điểm của hợp tác hóa
Hợp tác giữa những người gắn liền với sự lệ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, sản xuất phân tán, tự sản tự tiêu và đặc biệt là tâm lý tư hữu, tầm nhìn
hạn hẹp của người sản xuất nhỏ tiểu nông. F. Ănghen cho rằng: “phải để cho
người nông dân suy nghĩ trên mảnh đất của họ”. Trong tác phẩm bàn về chế
độ hợp tác, mặc dù cho rằng “Hợp tác xã là bước quá độ sang một chế độ mới
bằng con đường đơn giản nhất, dể dàng nhất, dể tiếp thu nhất đối vói nông
dân” nhưng V.I.Lênin đã nhắc nhở phải kiên trì giáo dục, thuyết phục người
nông dân và khi nói về sự nôn nóng vội vàng đưa nông dân vào hợp tác xã
V.I. Lênin đã cảnh báo rằng “chính sách đó sẽ bị phá sản đối với một Đảng
nào muốn dùng nó”.[8]
Quan hệ trong hợp tác xã là dân chủ và cùng có trách nhiệm. Đã vào
hợp tác xã, trở thành xã viên thì bất kỳ góp nhiều hay góp ít, vào trước hay
vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau về trách nhiệm. Đây là sự khác nhau căn
10
bản giữa hợp tác xã với công ty cổ phần, trong đó lá phiếu tỷ lệ thuận với vốn
góp.
Hợp tác xã trước hết là của những người nghèo, người khó khăn, yếu
thế trong xã hội hợp nhau lại để cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quan
hệ hợp tác hay còn gọi là chế độ hợp tác xã có thể được áp dụng cho những
quan hệ rộng lớn hơn trong xã hội.

Mục đích của hợp tác xã là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, mưu lợi chung,
chung nhau góp sức cùng có lợi, là hợp tác với nhau để cùng mạnh lên, vươn
lên, chống lại sự áp bức, chống lại tình trạng không bình đẳng về kinh tế, xã
hội. Cho nên, hợp tác xã khác với hội buôn, công ty cổ phần, mưu lợi riêng,
lấy mục tiêu chính là lợi nhuận. Hợp tác xã đồng thời cũng khác hội từ thiện,
trong đó chỉ có tiêu đi mà không có làm ra. Hợp tác xã có tiêu đi, có làm ra,
chỉ giúp người trong hội, nhưng giúp một cách bình đẳng, mang tính cách
mạng sâu sắc, ai cũng được giúp mà ai cũng phải giúp.[12]
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1. Thực tiễn phát triển kinh tế Hợp Tác Xã
2.2.1.1. Kinh tế hợp tác xã ở các nước trong khu vực và trên thế giới
Trên thế giới tỷ lệ nông dân tham gia hợp tác xã chưa phải là cao (ở
Philipin chỉ có khoảng 10% nông dân tham gia hoạt động ở các hợp tác xã, tỷ
lệ này ở Thái lan là 4,5%, ở Hàn Quốc là 15%, ở Nhật Bản là 18% ). Tuy
nhiên điều quan trọng là tính thiết thực của vấn đề; Các hợp tác xã không nhất
loạt ra đời cùng một lúc mà được thành lập vào thời điểm khác nhau tùy theo
sự chín muồi của chúng. Nông dân chỉ vào hợp tác xã khi thấy cần thiết (ở Đài
Loan ban đầu các hộ nông dân khá thường chưa vào hợp tác xã, nhưng sau này
khi kinh tế hợp tác xã phát triển, thị phần của hợp tác xã lớn dần thì những
người này muốn ra nhập hợp tác xã); Các hợp tác xã thường giải quyết những
khâu mà bản thân một nông dân riêng rẽ khó có thể giải quyết được, như áp
dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật mới, chế biến và tiêu thụ nông sản, tín
dụng, sử dụng máy móc thiết bị công nghệ cao đắt tiền ; thông thường khi đã
đăng ký hoạt động của hợp tác xã thường được hổ trợ ban đầu của chính phủ
11
về kĩ thuật và tài chính Những bài học kinh nghiệm hợp tác hóa ở trên thế
giới thật sự bổ ích cho Việt Nam. [8]
Hiện nay, trên toàn thế giới có 800 triệu xã viên, con số này ở Việt nam
là hơn 10 triệu. Liên minh HTX Quốc tế có 224 thành viên của 100 quốc gia.
LMHTX quốc tế là tổ chức phi chính phủ thống nhất đại diện và phục vụ

phong trào HTX trên toàn thế giới. Các HTX trên thế giới là khu vực có tác
động trực tiếp đến đời sống, nhu cầu xã hội văn hoá của hơn 3 tỷ người, đã
cung cấp hàng trăm triệu việc làm trên toàn cầu. Năm qua Liên minh HTX
quốc tế (ICA) đã đón chào thêm một số thành viên mới trong đó có tập đoàn
tương hỗ CUNA của Mỹ chuyên cung cấp các sản phẩm bảo hiểm cá nhân,
bảo hiểm tương hỗ và các sản phẩm đầu tư cho 8,8 triệu thành viên khác, Liên
đoàn HTX tiêu dùng Zentralverband deutsscher (ZDK) của Đức gồm 73 HTX
dịch vụ và tiêu dùng, Liên đoàn HTX tiêu dùng Niu-dilan (NZCA) là tập hợp
của 47 tổ chức HTX có doanh thu chiếm 22% GDP của Niu-dilân, Liên đoàn
tín dụng nhân dân DeCajias Aliannza (ALIANZA) của Mehicô, có 25 HTX tín
dụng và tiết kiệm cung cấp dịch vụ giám sát hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, phát triển
các sản phẩm tài chính và HTX tín dụng Molhah-Al-Movahendin quốc gia
Iran (MAMCC) với 40.000 thành viên, có 220 chi nhánh trên cả nước… Liên
hiệp quốc đã công nhận HTX là tổ chức mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc,
là tổ chức tạo thu nhập và lấy con người làm trọng tâm và có một lịch sử lâu
dài giúp con người thoát nghèo.[9]
2.2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam
- Thực trạng chung:
Ở Việt Nam sau cải cách ruộng đất Đảng và Chính phủ ta đã hướng
nông dân, thợ thủ công tham gia các hợp tác xã sản xuất. Trong thời gian ngắn
(1958 - 1960), 85% dân số miền Bắc đã vào hợp tác xã, và tỷ lệ đó khá cao đối
với cả nước so với cả thời gian sau này. [8]
Câu hỏi đặt ra là tại sao người dân lại vào hợp tác xã nhanh như vậy?
Trước đó ở Việt Nam hợp tác chỉ là sự liên kết tạm thời, rời rạc nhỏ bé, phân
tán của nông dân trong các tổ đổi công chưa có sự gắn kết bền chặt về mặt
kinh tế. Như vậy không giống như nhiều nước khác nông dân Việt Nam còn ít
12
trải qua kinh nghiệm thực tế nên chưa thấy hết được lợi ích kinh tế khi vào
hợp tác xã. Tuy nhiên, người dân đã trải qua cuộc đời đen tối dưới ách thống
trị của thực dân phong kiến, nay được sống cuộc đời tự do nên họ hoàn toàn

tin đường vào đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì tính ưu việt
của chế độ không có người bị bóc lột. Từ đó hầu hết người nông dân đều đi
theo con đường hợp tác hóa trong phát triển kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam có thể thấy qua 2 thời
kì:
- Trước đổi mới:
Do quan niệm sai lầm ấu trĩ về phát triển kinh tế, chịu ảnh hưởng của cơ
chế quản lý tập trung gò bó, vấn đề hợp tác xã được phát triển ồ ạt quy mô lớn.
Từ đó nước ta đã định ra các bước đi cho phát triển kinh tế hợp tác xã là: từ
thấp đến cao (về tập thể hóa và tư liệu sản xuất). Số hợp tác xã bậc cao tăng
nhanh đạt tỷ lệ tương đối cao (năm 1960 là 10,8%; năm 1965 là 60,1%; năm
1975 là 88%). Thứ hai là từ nhỏ đến lớn (thường ở quy mô xã). [8]
Những kết quả đạt được chủ yếu của phong trào hợp tác hóa trong giai
đoạn này là: 1) Đảm bảo chi viện sức người sức của cho tiền tuyến, góp phần
xây dựng một hậu phương vững mạnh cho công cuộc chống Mỹ cứu nước,
đấu tranh thống nhất đất nước; 2) Bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng, áp dụng
tiến bộ kĩ thuật mới trong sản xuất góp phần nâng cao năng xuất, nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân; 3) Góp phần đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ kĩ
thuật; 4) Tạo sự liên kết mạnh mẽ trong kinh tế, và làm thay đổi bộ mặt nông
thôn.
Những mặt yếu kém chủ yếu của phong trào hợp tác hóa trong giai đoạn
này là: 1) Nhận thức ấu trĩ, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa; 2) Nóng
vội, ồ ạt, nặng nề hình thức trong chỉ đạo; 3) Cứng nhắc về cơ chế quản lý và
chính sách.
- Sau đổi mới.
Trong những năm gần đây, Đảng và chính phủ ta chú trọng đến việc
phát triển kinh tế hợp tác xã. Liên minh hợp tác xã Việt Nam, và nhiều liên
13
minh hợp tác xã của các tỉnh thình phố đã được thành lập. Liên minh HTX
Việt Nam là thành viên tích cực của Liên Minh HTX Quốc tế (1988). Khu vực

kinh tế hợp tác, HTX Việt Nam đã có những bước phát triển mới và đã đóng
góp 8% GDP của nền kinh tế. Đặc biệt các HTX đã tham gia tích cực vào việc
thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về xoá đói giảm nghèo. Liên Hiệp
Quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác cũng đã cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn
về an ninh xã hội sẽ bùng phát do nạn đói nghèo gây ra. Nghèo đói dẫn đến
bạo lực, bất ổn về chính trị. Chính vì vậy cuộc chiến chống đói nghèo được
các HTX trên toàn thế giới rất quan tâm HTX đã góp phần không nhỏ vào việc
giảm thiểu tình trạng đói nghèo. Xoá đói giảm nghèo không chỉ đơn thuần
cung cấp các nguồn lực kinh tế cho người nghèo mà nó còn mang ý nghĩa rộng
lớn hơn là kiến tạo hoà bình, HTX là mô hình phát triển kinh tế xã hội cần
thiết đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng bền vững cho những người thu nhập thấp nhất
và HTX cũng chính là mô hình quan trọng để cải thiện điều kiện sống và làm
việc của mọi người trên toàn thế giới. [9]
Chúng ta cơ bản đã chuyển đổi xong các hợp tác xã cũ, giải thể các hợp
tác xã hình thức, không còn hoạt động, thành lập mới được nhiều hợp tác xã.
Đến cuối năm 2006 cả nước có 17.535 hợp tác xã trong đó có 2235 hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp, 8.432 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 6.391 hợp tác
xã cũ đã chuyển đổi và 2.032 hợp tác xã thành lập mới. Tỷ lệ số hộ dân tham
gia hợp tác xã nông nghiệp hiện nay khoảng 58%. Các hợp tác xã (bao gồm cả
chuyển đổi và thành lập mới) nhìn chung đều tuân thủ những nguyên tắc, quy
định của Luật Hợp tác xã.
Các hợp tác xã chuyển đổi đã bước đầu khắc phục được tình trạng thua
lỗ kéo dài và tính hình thức, không rõ ràng về xã viên và tài sản.
Các hợp tác xã đã thu hút được trên 12,5 triệu người lao động, hộ kinh
tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, góp
phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phát
triển sản xuất ở nhiều địa phương trong cả nước.
14
Nhiều hợp tác xã đã tham gia cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho xã
viên (thủy lợi, khuyến nông, cung ứng vật tư, điện, tiêu thụ sản phẩm, ) để

phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Quá trình phát triển hợp tác xã mới được đẩy mạnh theo hướng tích cực
và đa dạng hơn. Đã xuất hiện được nhiều mô hình hợp tác xã chuyên ngành,
liên hiệp hợp tác xã, nhiều hình thức liên kết hợp tác xã với các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế khác với nội dung liên kết đa dạng, phong phú. Nhiều hợp
tác xã còn thực hiện tốt chức năng xã hội thông qua tham gia hoạt động phát
triển nông thôn, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn, hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất
Tuy có những chuyển biến tích cực nhưng những chuyển biến đó vẫn
chưa đủ mức để tạo nên những bước ngoặt về chất trong phát triển của hợp tác
xã, nhất là để hợp tác xã vươn lên xứng đáng với vị trí, vai trò của một thành
phần kinh tế như trong các nghị quyết của Đảng đã đặt ra đối với kinh tế tập
thể. Tình hình chung của một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã vẫn chưa
thoát khỏi tình trạng yếu kém, còn nhiều tồn tại, khó khăn như:
Tính hình thức trong chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã vẫn
chưa được khắc phục. Như đa số xã viên các hợp tác xã chuyển đổi khi tham
gia hợp tác xã không có đơn và vốn góp mới, như vậy không đáp ứng được
yêu cầu cơ bản là muốn gia nhập hợp tác xã viên phải góp vốn.
Nhiều hợp tác xã quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, chậm đổi mới,
khả năng cạnh tranh thấp. Đa số hợp tác xã vẫn tập trung vào các dịch vụ
truyền thống như thủy lợi, khuyến nông Cả nước còn 38% số hợp tác xã
chưa có trụ sở riêng, nhiều tài sản của hợp tác xã chưa gắn với quyền sử dụng
đất, nhiều cơ sở dịch vụ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
làm cho hợp tác xã thiếu tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh.
Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế về trình độ, năng lực.
Nhiều cán bộ quản lý chưa qua tập huấn nghiệp vụ, làm việc chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm, còn thiếu yên tâm làm việc ổn định lâu dài trong hợp tác xã, chủ
yếu do chế độ thù lao cho cán bộ hợp tác xã còn thấp.
15
Nhiều hợp tác xã, cả hợp tác xã đã chuyển đổi và hợp tác xã thành lập

mới, chưa bảo đảm tuân thủ những nguyên tắc, giá trị hợp tác xã, các quy định
về góp vốn, điều lệ, về tích lũy tài sản vốn quỹ chung, vốn không chia
Hoạt động của các hợp tác xã còn thiếu gắn bó với nhau, chưa có sự liên
kết hệ thống chặt chẽ cả về mặt kinh tế, xã hội và về tổ chức. Tuy đã hình
thành được một số liên hiệp hợp tác xã, nhưng quy mô nhỏ, hiệu quả chưa cao,
hỗ trợ hợp tác xã thành viên còn ít. Công nợ trong hợp tác xã, nhất là trong các
hợp tác xã chưa chuyển đổi, mới chuyển đổi, chưa được xử lý rõ ràng, dứt
điểm nên cũng làm cản trở hoạt động của hợp tác xã.[8]
2.2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế HTX ở Thừa Thiên Huế
Trong thời gian qua, kinh tế hợp tác xã có xu hướng phát triển về mặt số
lượng, năm 2000 có 209 HTX. Đến năm 2007, toàn tỉnh có 343 tổ hợp tác,
293 Hợp tác xã, trong đó 162 HTX nông nghiệp, 15 HTX công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, 17 HTX giao thông, 47 HTX tiêu thụ điện nông thôn, 5 HTX
xây dựng, 38 HTX thủy sản, 7 quỹ tín dụng nhân dân, 2 HTX thương mại -
dịch vụ. Nhìn chung, các HTX trên địa bàn tỉnh hoạt động ngày càng có hiệu
quả, các dịch vụ phục vụ xã viên được mở rộng hơn; vai trò của cán bộ quản
lý, điều hành HTX ngày càng tăng. Trong nông nghiệp, vai trò HTX thể hiện
rõ, nhất là việc dịch vụ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, việc ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, việc tiếp nhận nguồn vốn ngân sách và huy động đóng góp
của nhân dân để hoàn thành các chương trình kiên cố kênh mương, bê tông
hóa đường giao thông nông thôn Về phân loại HTX năm 2005 thì có 44%
đạt loại khá, giỏi, 48% đạt loại trung bình và 8% đạt loại yếu, kém.[10], [13]
2.2.2. Thực tiễn phát triển hàng Mây tre đan
Cây tre phân bố rộng khắp ở các nước trên thế giới, với khoảng 1.200
loài khác nhau. Việc sử dụng cây tre vào sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có
chủ yếu ở các nước Châu Á, đặc biệt là Đông và Đông Nam Á. Trong đó có
Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia là những nước sản xuất hàng mây tre đan
lớn nhất. Hiện nay, việc tìm kiếm các loại nguyên liệu tự nhiên thân thiện với
môi trường để thay thế các sản phẩm công nghiệp ảnh hưởng xấu đến môi
trương đang là mục tiêu nhắm đến của các quốc gia phát triển. Vì vậy thị

16
trường cho các sản phẩm là từ Tre ngày càng được ưa chuộng trên thế giới.
Một số nước có nhu cầu tiêu thụ lớn như Mỹ, EU, Nga, Nhật Bản
Từ xa xưa, người Việt Nam đã biết sử dụng mây, tre làm nhà để ở, làm
công cụ lao động, làm những chiếc thuyền nan, thuyền thúng vượt biển, những
mảnh bè vượt sông Mây tre còn được sử dụng để làm các vật dụng trong gia
đình, làm đồ lưu niệm, nhạc cụ và ngày nay còn trở thành sản phẩm xuất
khẩu có giá trị
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là quốc gia có
nghề mây tre đan phát triển và đa dạng bậc nhất trên thế giới. Nhiều làng nghề
mây tre đan có lịch sử tới hàng trăm năm. Cả nước có 332 làng có nghề làm
hàng mây tre đan trong tổng số 1.451 làng nghề truyền thống. Mỗi làng nghề
mây tre đan lại chứa đựng nét tài hoa, tinh tế riêng, và mang bản sắc riêng.
Ngoài ra còn sự góp mặt của các dân tộc Khơ Mú, Thái, Tày, Nùng, La Hủ…
vào sự phát triển của nghề mây tre đan Việt Nam. Họ cũng rất khéo tay trong
việc sáng tạo ra nhiều mẫu mã sản phẩm, mà có thể kể đến ghế mây, mâm đan
của người Thái, ghế trúc của người Nùng, chiếu mây của người La Hủ… Sự ra
đời của mỗi sản phẩm mây tre đan ở Việt Nam không đơn thuần mang ý nghĩa
vật chất mà còn chứa đựng trong đó giá trị tinh thần to lớn. Hầu hết các làng
nghề mây tre đan đều có truyền thống và hàng năm đều tổ chức lễ hội tưởng
nhớ đến người có công với nghề, để qua đó nhắc nhở bổn phận của người đời
nay phải giữ cái gốc của nghề và quan trọng hơn là gìn giữ, xây dựng các làng
nghề mây tre đan Việt Nam ngày càng phát triển.
Kim ngạch xuất khẩu mây, tre đan vài năm trở lại đây đạt trên 100 triệu
USD/năm. Các sản phẩm mây, tre đan mang thương hiệu “Made in Việt Nam”
được thế giới biết đến ngày một nhiều hơn. Các doanh nghiệp mây, tre đan đã
biết cách từng bước tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới, tìm hướng
xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng nghề, có thể
thấy rằng, ngoại trừ lực lượng lao động dồi dào còn lại các doanh nghiệp mây,
tre đan đều phải đối mặt với nhiều thách thức. Tài nguyên thiên nhiên, chi phí

lao động rẻ trong thời gian tới sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh mà thay vào
đó, tri thức, công nghệ sẽ trở thành yếu tố quyết định sự thành công trên thị
17
trường. Hàng mây, tre đan sản xuất vẫn còn mang tính thủ công, nhỏ lẻ, ít
được áp dụng nhiều khoa học kỹ thuật nên chất lượng sản phẩm chưa cao,
chưa đáp ứng hết tiêu chuẩn của thị trường, dẫn đến tình trạng thị trường cần
mà sản phẩm vẫn không tiêu thụ được. Vẫn còn nhiều hợp đồng của nước
ngoài đặt hàng mây, tre đan mà phía Việt Nam chưa đáp ứng được do số
lượng hàng lớn, trong lúc quy mô sản xuất của doanh nghiệp mây, tre đan Việt
Nam còn nhỏ, lại thiếu sự liên kết. Không chỉ vậy, hàng loạt khó khăn đến với
các doanh nghiệp mây, tre đan Việt Nam như: Vốn, thương hiệu, thiết bị kỹ
thuật công nghệ, thông tin thị trường, vấn đề bảo vệ môi trường, cho đến kiến
thức của nhà quản lý.
Sự ra đời của hàng loạt trung tâm hỗ trợ phát triển các hợp tác xã và
làng nghề thuộc Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam và các Hiệp hội làng
nghề là một tín hiệu tốt đối với nghề mây, tre đan ở Việt Nam. Hoạt động của
các đơn vị này là đào tạo, dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật công nghệ, cung cấp
thông tin, tìm kiếm thị trường, xây dựng website giới thiệu doanh nghiệp, sản
phẩm mây, tre đan… giúp các làng nghề, các doanh nghiệp mây, tre đan nâng
cao chất lượng, quảng bá sản phẩm [15]
Vùng nguyên liệu phân bố rải rác trên cả nước, song trữ lượng chủ yếu
là ở Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên Lực lượng lao động trong
nghề mây, tre đan có khoảng gần 400.000 người. Sản phẩm mây, tre Việt Nam
đã có mặt ở 94 nước trên thế giới. (Theo số liệu của Liên minh các Hợp tác xã
Việt Nam).[13]
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre đan của Việt Nam, giai
đoạn 2000 - 2006.
Đơn vị tính: triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Hàng Mây tre 78,6 93,8 107,9 115,0 146,6 180,2 195,0

Hàng TCMN 235,0 235,0 300,0 372,0 425,5 565,0 630,4
(Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê và Hiệp hội làng nghề Việt Nam)
18
Qua bảng trên cho chúng ta thấy rằng với những thế mạnh của mình
hàng Mây tre đan của Việt Nam không ngừng phát triển một cách mạnh mẽ
vươn ra thị trường thế giới. Chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cả nước. Một số thị trường xuất khẩu chủ yếu
của hàng mây tre đan Việt Nam là: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Ba
Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Anh, Hà Lan, Đài Loan, Bỉ, Ôxtrâylia, Thuỵ
Điển, Canada Việc sản xuất hàng mây tre đan đã giải quyết công ăn việc làm
nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, đem lại thu nhập cho người dân,
ngoại tệ cho đất nước.[13]
Ở Thừa Thiên Huế, nghề đan lát mây tre đã có từ lâu đời, có nguồn gốc
từ những người dân Miền Bắc di cư vào. Ban đầu những người dân đan lát tập
trung lại với nhau và hình thành làng nghề Bao La. Bao La là một làng quê nổi
tiếng với nghề đan lát sản phẩm tre, chế tác đồ dân dụng trong nhà như thúng
mủng, rổ rá, giần sàng, nong, nia…Làng chính nay ở xã Quảng Phú, huyện
Quảng Điền ven bờ Bắc trung lưu sông Bồ. Từ thời chúa Nguyễn thêm một
phường Bao La mới lại phát sinh, nay là thôn Thủy Lập, xã Quảng Lợi, huyện
Quảng Điền, nằm ven bờ Nam phá Tam Giang. Do cùng nguồn gốc nên cả hai
nơi đều có nghề đan lát sản phẩm tre. Dưới thời phong kiến, Bao La là nơi
cung cấp chủ yếu sản phẩm gia dụng bằng tre của dân Thừa Thiên Huế. Từ
chiếc rá vo gạo, đến loại rổ rửa rau, đựng cá đến các loại giần sàng của nghề
xay xát, nong nia để phơi nông sản, thủy sản cũng như chiếc nôi trẻ con, chiếc
giường, cái chõng, với kỹ thuật đan lát khéo léo và giá cả thích hợp với túi tiền
của nhân dân. Dưới sự trợ giúp của Liên minh hợp tác xã tỉnh Thừa Thiên
Huế, và xuất phát từ nhu cầu của người dân ở làng Bao La, Hợp tác xã mây tre
đan Bao La đã ra đời nhằm: liên kết những người dân trong làng nghề, tập
trung sản xuất, giữ gìn và phát huy nghề truyền thống.
19

PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
HTX Bao La, các hộ sản xuất hàng thủ công, các hộ thu gom, bán buôn
bán lẽ.
3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu từ ngày 02/01/2008 đến
ngày 05/05/2008.
- Về không gian: HTX thủ công mỹ nghệ mây tre đan Bao La, xã Quảng
Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Về nội dung: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, thuận lợi,
khó khăn, triển vọng của việc sản xuất hàng mây tre đan.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội, và ảnh hưởng của nó tới hoạt động
sản xuất mây tre đan.
Thực trạng sản xuất mây tre đan trong HTX.
Hiệu quả về mặt văn hóa - xã hội, hiệu quả kinh tế
Thuận lợi, khó khăn và hướng khắc phục của người dân trong sản xuất
hàng mây tre đan.
Định hướng và các giải pháp để phát triển sản xuất mây tre đan tại HTX
Bao La.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng một số công cụ trong bộ công cụ PRA.
- Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu.
Thu thập dữ liệu thứ cấp qua các tài liệu liên quan như tài liệu thống
kê, các báo cáo tổng kết của địa phương, của HTX, chuyên đề, các nghiên cứu
liên quan
20

×