Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

đánh giá việc thực hiện chính sách giao đất khoán rừng tại xã hương bình, huyện hương trà, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.04 KB, 51 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Cơ cấu sử dụng đất ở xã Hương Bình
Bảng 2: Cơ cấu thu nhập của xã Hương Bình
Bảng 3: Tình hình chăn nuôi của xã Hương Bình qua các năm
Bảng 4 : Tổng hợp tiến trình các bước thực hiện giao đất lâm nghiệp tại xã
Hương Bình, huyện Hương Trà.
Bảng 5: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các bên tham gia vào quá trình
giao đất lâm nghiệp:
Bảng 6: Kết quả của việc giao đất lâm nghiệp ở xã Hương Bình từ năm
2005 – 2007.
Bảng 8: Tỷ lệ tham gia và diện tích bình quân trên các nhóm hộ.
Bảng 9: Thống kê mô tả giai đoạn trồng rừng Keo thuần loài.
Bảng 10: Thông kê mô tả giai đoạn chăm sóc rừng trồng trên 1 ha.
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam có trên 60% diện tích đất tự nhiên là đồi núi, thuộc đối tượng
sản xuất lâm nghiệp, phần lớn diện tích này phân bố ở vùng cao thuộc vùng
núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Địa bàn rừng núi là nơi cư trú của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nơi có địa hình chia cắt mạnh, giao thông đi
lại rất khó khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển. Đời sống của một bộ phận
không nhỏ đồng bào miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó
khăn, trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác còn lạc hậu, du canh du
cư, Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm tài
nguyên rừng và ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và
môi trường sinh thái của cả nước.
Trong nhiều thập kỷ qua, rừng và nghề rừng đã có những đóng góp xứng
đáng vào việc khắc phục hậu quả sau chiến tranh và cung cấp nhiều sản vật
cho phát triển nền kinh tế đất nước. Song, cũng do nhận thức chưa đầy đủ về
rừng, chúng ta đã khai thác rừng đến cạn kiệt, làm cho trữ lượng rừng giảm


sút nhanh chóng, diện tích rừng ngày càng thu hẹp, nhiều nguồn gen động
thực vật rừng quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Tác động của cơ chế
thị trường cũng làm cho tài nguyên rừng của ta suy giảm nhanh cả về số
lượng và chất lượng.
Hướng phát triển của lâm nghiệp trong giai đoạn tới là phải đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển từ nền lâm nghiệp chủ yếu khai thác tài
nguyên rừng sang nền lâm nghiệp nhân dân với trọng tâm là bảo vệ, khôi
phục và phát triển rừng, để đảm bảo khả năng phòng hộ môi trường, bảo vệ
tính đa dạng sinh học, bảo vệ hệ động thực vật quý hiếm của rừng; phát triển
công nghiệp chế biến vừa và nhỏ với thiết bị và công nghệ tiên tiến, gắn với
vùng nguyên liệu tập trung để nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng; khai thác
tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm góp phần xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống của người dân miền núi, xã hội hóa nghề rừng, thu
hút các nguồn lực đầu tư; nâng cao vai trò và giá trị đóng góp của ngành lâm
nghiệp vào phát triển kinh tế quốc dân. Xã Hương Bình, huyện Hương Trà,
2
tỉnh Thừa Thiên Huế cũng là một địa phương mà diện tích chủ yếu của xã là
đất đồi núi, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng.Trong những năm qua,
xã đã được sự quan tâm rất lớn của các cấp chính quyền, vì vậy mà đã có
nhiều chương trình dự án thuộc ngành lâm nghiệp được thực thi.Ngoài các
chương trình của chính phủ về phát triển rừng như chương trình 327…, thì
còn có sự đầu tư của các chương trình hỗ trợ của nước ngoài như ADB, ODA,
WB3…đã góp phần rất lớn vào việc phát triển ngành lâm nghiệp ở địa
phương. Trong các chương trình hỗ trợ phát triển ngành lâm nghiệp thì chính
sách giao đất khoán rừng đã góp phần rất quan trọng vào sự thành công khi
thực hiện các dự án. Để có thể đánh giá đúng thực trạng của quá trình thực
hiện chính sách, ngoài ra có thể đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn
chính sách, tôi đã chọn đề tài để thực hiện là: “Đánh giá việc thực hiện
chính sách giao đất khoán rừng tại xã Hương Bình, huyện Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên Huế”

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Mô tả tiến trình thực hiện chính sách giao đát khoán rừng tại địa bàn xã
dưới sự hỗ trợ của dự án WB3.
- Đánh giá kết quả thực hiện chính sách giao đất khoán rừng.
- Đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả diện tích đất được giao.
3
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Tình hình quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam.
Phát triển nông thôn nói chung và phát triển Lâm nghiệp xã hội nói riêng
ở Việt Nam trước hết là việc quản lý và sử dụng đất đai-một loài tài nguyên
vô cùng quý giá cho mọi sản xuất của người dân nông thôn miền núi. Nó là
một yếu tố tự nhiên gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn với
hơn 80% dân số Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu vấn đề quản lý tài nguyên đất
lâm nghiệp là việc làm không thể thiếu được đối với các hoạt động lâm
nghiệp.
Với diện tích đất nước Việt Nam có 33.091.093 ha thì diện tích rừng, đất
rừng và đất chưa sử dụng chiếm hơn 70%, trong đó đất chưa sử dụng đã
chiếm tới 37.1%, khoảng 12 triệu ha
[10]
. Theo tài liệu “Kết quả tổng điều tra
Nông thôn và Nông nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 1994, thì tổng diện
tích đất đai của Việt Nam là 33.091.093 ha, trong đó đất Lâm nghiệp là
12.055.239 ha chiếm tỷ lệ 36,7%. Đất chưa sử dụng là: 12.168.219 ha chiếm
tỷ lệ 37,1%; trong đó đất có khả năng nông lâm nghiệp là 7.795.909,9 ha. Tài
liệu này đã phân tích quyền sử dụng đất Lâm nghiệp theo 2 lĩnh vực: Nhà
nước (4.938.359 ha) và đất giao cho hộ gia đình quản lý (840.970,5 ha). Tổng
của 2 hình thức quản lý này là 5.779.329,5 ha. Theo tài liệu “Bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững” (Tập 1, Tuyển tập báo cáo khoa học của
Chương trình Khoa học Lâm nghiệp cấp Nhà nước tại Hội nghị Khoa học về

Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều tác giả, Hà nội tháng
9/1995) đã nêu rõ hiện trạng sử dụng tài nguyên đất ở Việt Nam và đã đưa ra
những nhận xét rất rõ ràng.
Theo tài liệu này, tổng quỹ đất của Việt Nam là 33.091.093 ha, xếp thứ 55
trong số 200 nước, nhưng dân số lại xếp thứ 12 trên Thế giới, cho nên bình
quân đất đai là 0,46 ha/người, bằng 1/6 mức bình quân của Thế giới, xếp thứ
120/200 nước. Trong tổng diện tích 33.091.093 ha đất thì đang sử dụng vào
mục đích Nông Lâm nghiệp/Đất chuyên dùng/Đất thổ cư là 18.881.246 ha
(57,04%) còn lại đất chưa sử dụng là 42,96% (14.217.854 ha). Riêng đất Lâm
nghiệp, cả nước có 9.641.100 ha, đất có rừng tự nhiên là 8.841.700 ha và rừng
4
trồng là 799.400 ha, chiếm 57,06%. Đất đang sử dụng chiếm 29,12% tổng diện
tích đất tự nhiên
[8]
. Điều này có thể cho thấy rằng: Việt Nam là một nước đất
không rộng, người lại đông mà việc khai thác sử dụng tài nguyên đất đai còn
rất hạn chế. Quỹ đất còn rất nhiều, chưa được đưa vào sử dụng hiệu quả.
Quản lý đất lâm nghiệp luôn gắn với tính đặc biệt của sản xuất lâm nghiệp
được thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
• Đối tượng sản xuất lâm nghiệp là cây rừng có chu kỳ sinh trưởng và
phát triển rất dài, có thể tới hàng chục có thể hàng trăm năm và sở hữu
đất đai là của chung.
• Địa bàn sản xuất rộng lớn, phức tạp, đi lại khó khăn, do đó việc quản lý
tài nguyên cũng như áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất lâm nghiêp gặp nhiều khó khăn trở ngại.
• Sản xuất lâm nghiệp không những có ý nghĩa mang lại lợi ích kinh tế,
mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ môi trường
sinh thái.
Hiện nay, quan điểm về quản lý sử dụng đất đai và tài nguyên rừng đang
dần dần quán triệt trên nguyên tắc phát triển bền vững. Phát triển bền vững

phải đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ được môi trường sống. Đó không chỉ phát triển nền kinh tế - văn
hoá - xã hội một cách vững chắc nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật ,
mà còn đảm bảo ổn định và cải thiện những điều kiện tự nhiên mà con người
đang sống trong đó và dựa vào đó để ổn định bền vững. Đất lâm nghiệp có địa
hình phức tạp, đồi núi dốc là đối tượng chủ yếu trong sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp, do đó vấn đề quan trọng trước tiên đặt ra là phải xác định được các
biện pháp quản lý và sử dụng thích hợp, từ đó nhằm bảo đảm lợi ích trên tất
cả các mặt kinh tế- xã hội và môi trường sinh thái vì mục tiêu lâu dài. Để đảm
bảo sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững, ở mỗi nước mỗi khu vực đều
tìm tòi lựa chọn cho mình một chiến lược và chính sách quản lý thích hợp.
Nhìn tổng quát, có xu hướng chung là gắn liền đất đai và tài nguyên rừng với
cư dân địa phương, phát triển một nền lâm nghiệp vì con người.
5
2. Hoạt động giao đất giao rừng ở một số nước trên thế giới.
Trong những thập kỷ qua, việc quản lý bảo vệ và xây dựng một chiến
lược phát triển lâm nghiệp ở các quốc gia trên thế giới có nhiều chuyển biến,
có thể tóm tắt những xu hướng trên thế giới trong những thời gian gần đây
như sau:
Chuyển từ nền lâm nghiệp khai thác lợi dụng rừng là chính sang thực
hiện mục tiêu lợi dụng rừng kết hợp cả ba lợi ích: kinh tế - xã hội - môi
trường sinh thái, chú trọng nhiều hơn mục tiêu phát huy tác dụng sinh thái của
rừng.
Phi tập trung hoá phân cấp quản lý Nhà nước về rừng chuyển giao dần
trách nhiệm quyền lực về quản lý rừng từ cấp trung ương xuống cấp địa
phương và cơ sở.
Đẩy mạnh giao đất giao rừng cho các hộ nông dân và cộng đồng giảm
bớt sự can thiệp của Nhà nước tạo điều kiện cho việc quản lý rừng năng động
hơn.
Thu hút sự tham gia của các nhóm cộng đồng dân cư được hưởng lợi từ

rừng. Khuyến khích họ tham gia vào công tác quản lý rừng, phát huy rừng,
các chương trình lâm nghiệp cộng đồng, các khu rừng bảo tồn thiên nhiên,
làng, bản.
Giao đất giao rừng cho các chủ thể địa phương là một trong những xu
hướng chung của các nước trên thế giới, trong đó có nước ta. Tuy nhiên ở mỗi
nước, vấn đề này được triển khai thực hiện ở một mức độ khác nhau và đem
lại những kết quả khác nhau.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội, điều kiện tự nhiên,
phong tục tập quán canh tác của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà mỗi nước hình
thành nên mỗi hệ thống quản lý, sử dụng đất đai khác nhau.
* Ở Thái Lan, sử dụng đất đai được thông qua chương trình làng rừng, hộ
nông dân được giao đất nông nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người
nông dân có trách nhiệm quản lý đất, không được chặt hoặc sử dụng cây rừng.
Người nông dân nhận đất được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử
6
dụng đất trên đất rừng của Nhà nước ở những nơi phù hợp trồng cây nông
nghiệp lưu niên, chính phủ Thái Lan hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường, trạm y tế Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp phát, đã
làm tăng mức độ an toàn cho người thuê đất trong thời gian sử dụng. Do vậy
đã ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tư và tăng sức sản xuất của
đất.
* Ở NêPal, nhà nước cho phép chuyển giao một số khu rừng có diện tích lớn
ở vùng núi trung du cho các cộng đồng, thông qua tổ chức chính quyền cấp cơ
sở, thành lập các thành viên uỷ ban về rừng cam kết bảo vệ các khu rừng ở
địa phương.
* Ở Ấn Độ vào những năm 70 của thế kỷ 20 Ấn độ đã phát triển lâm nghiệp
xã hội năm 1986 Ấn Độ đã hoàn thành mục tiêu phát triển LNXH ở những
bang khác nhau. Ấn Độ coi trọng cộng đồng như một đối tác quản lý những
vùng đất rừng của chính phủ.
* Ở Trung Quốc: Sau 20 năm thực hiện cải cách và mở cửa lâm nghiệp Trung

Quốc đã phát triển theo hướng chủ yếu sau:
Chuyển dịch từ chế độ kinh doanh lâm nghiệp chỉ dựa trên chế độ sở hữu Nhà
nước và sở hữu tập thể sang kinh doanh lâm nghiệp dựa trên nền kinh tế nhiều
thành phần (Nhà nước, tập thể, cá nhân, hợp vốn kinh doanh, hợp tác ).
Phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến lâm sản, nâng cao hiệu suất sử
dụng tài nguyên rừng, chuyển từ giai đoạn lấy gỗ làm mục đích sang coi trọng
các mặt môi trường sinh thái hữu ích xã hội. Những chính sách đổi mới về
lâm nghiệp bao gồm: Cải cách và thay đổi chế độ sản quyền về rừng, từ tháng
3/1981 Trung Quốc đã đề ra chính sách tam định nhằm xác định rõ ba vấn
đề : Xác định quyền sử dụng đất đồi núi (sơn quyền); xác định rừng (lâm
quyền) và hoạch định diện tích đất lâm nghiệp để lại cho các hộ nông dân sử
dụng (tự lưu sơn). Trong đó xác định đất đồi núi là hạt nhân căn bản. Trong 4
năm, đã hoàn thành cơ bản về chính sách “tam định” tiến hành cấp giấy
chứng nhận lâm quyền 96,67 triệu ha đất lâm nghiệp, hơn 56 triệu hộ được
giao, hơn 31,33 triệu ha được tự lưu sơn, hơn 50,66 triệu đất đồi núi đã được
giao đến hộ. Đến cuối 1996 đã hoàn thành cấp giấy chứng nhận lâm quyền
được 192 triệu ha
[16]
. Trên cơ sở đó đã phát triển nhiều hình thức trao đổi
7
quyền sử dụng đất rừng, để khắc phục tình trạng đất đai, rừng núi bị phân tán
Trung Quốc đã ban hành nhiều luật pháp, chính sách kinh tế để tạo điều kiện
thực hiện tốt việc lưu chuyển và trao đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
* Ở Philipin từ những năm 1970 Chính phủ đã quan tâm đến phát triển
LNXH. Năm 1982 Chính phủ xây dựng dự án LNXH quốc gia chứng nhận
quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng. Một dạng hợp đồng sử dụng của
cộng đồng là hợp đồng thuê quản lý rừng được ký với các hộ gia đình, cộng
đồng hoặc các nhóm. Trong thời hạn thực hiện hợp đồng các chủ nhân của
hợp đồng thuê quản lý rừng được phép thu hoạch, chế biến sản phẩm, bán
hoặc các hình thức sử dụng khác. Một dạng thứ hai của hợp đồng cộng đồng

Philipin là công nhận quyền quản lý của dân tộc thiểu số trên mảnh đất tổ tiên
họ để lại, người dân được ký hợp đồng với Chính phủ trong 25 năm và cũng
có thể kéo dài trong 25 năm tiếp theo.
Vấn đề giao đất giao rừng giữa các nước đang phát triển và các nước
phát triển có sự khác nhau rất nhiều. Tại các nước phát triển dân số tăng
chậm, trái lại năng suất công nghiệp, nông nghiệp lại tăng nhanh nên không
có nạn thiếu đất cho nông nghiệp mà trái lại, ở các nước Tây Âu đang có vấn
đề rút bớt đất nông nghiệp để trả lại cho lâm nghiệp. Chế độ tư hữu ở các
nước đó đã sản sinh ra một tầng lớp tiểu chủ đông đảo về rừng.
* Ở Pháp rừng tư nhân chiếm khoảng 10 triệu ha, trong khi đó rừng Nhà nước
chỉ chiếm khoảng 4 triệu ha. Trong đó 10 triệu ha rừng tư nhân thì có một nữa
thuộc về 1,5 triệu tiểu chủ đồn điền đất đai
[12],[13]
.
* Ở Thụy Điển 25% rừng và đất rừng thuộc về Nhà nước, 25% thuộc về các
Công ty lớn còn 50% thuộc về tư nhân, cá thể. Ở đây vấn đề giao đất giao rừng
cho nông dân không được nêu lên
[12],[13]
.
* Ở Phần Lan có khoảng 2/3 tổng diện tích đất lâm nghiệp thuộc về quyền sở
hữu tư nhân, khoảng 430.000 chủ rừng và mỗi chủ rừng ước tính khoảng
33ha, sở hữu cá nhân về rừng và đất rừng mang tính truyền thống
[12],[13]
.
8
3. Các giai đoạn phát triển của chính sách giao đất khoán rừng ở Việt
Nam.
Chính sách giao đất khoán rừng có ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý
đất lâm nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan
trong quản lý tài nguyên rừng và đất rừng. Tuy nhiên chính sách luôn luôn

thay đổi hoặc chỉnh sữa cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, vì vậy chúng ta có thể chia ra các giai đoạn lịch sử để phân tích
tác động của chính sách như sau:
Thời kỳ 1968 - 1982
Đây là thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trên cơ sở
phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đất nông nghiệp, lâm nghiệp
được giao cho hai thành phần kinh tế cơ bản là Quốc doanh và hợp tác xã (kể
cả tập đoàn sản xuất sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng), chưa giao đất
cho hộ gia đình.
• Các lâm trường quốc doanh là loại chủ rừng chủ yếu, được Nhà nước
đầu tư để trồng rừng và giữ quyền sở hữu chủ yếu khoảng 70% tổng
diện tích rừng trồng tập trung theo kế hoạch của Nhà nước
• Các hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) thời kỳ này đã tham gia trồng
khoảng 29% diện tích rừng trồng tập trung. HTXNN trồng rừng chủ
yếu để nhận tiền công lao động do Nhà nước trả là chính. Chưa có
quyền sở hữu rừng trồng và chưa quan tâm đến kết quả rừng mình gây
trồng nên. Tuy vậy, cũng có một số ít HTXNN sử dụng nhân lực và
nguồn vốn của mình để trồng rừng, nên có quyền sở hữu một số khu
rừng và đã có thu nhập từ rừng trồng do hợp tác xã đầu tư.
Thời kỳ 1982 - 1992
Vào những năm đầu 1980 là thời kỳ Nhà nước đang nghiên cứu thử
nghiệm cải tiến quản lý hợp tác xã. Trong ngành Lâm nghiệp, Nhà nước ta đã
có chính sách giao đất giao rừng cho hợp tác xã và các hộ gia đình trong hợp
tác xã để sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là vào giai đoạn cuối của thời kỳ
này, chủ trương, chính sách giao đất khoán rừng đến hộ gia đình đã cụ thể và
đẩy mạnh hơn. Ngày 06/11/1982 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 184 về
9
việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây
rừng. Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị số 29/CT-TƯ (12/11/1983)
về việc đẩy mạnh giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh

theo nông lâm kết hợp.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VI (1986) Đảng và Nhà nước chủ trương
đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá gắn với kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước, chú trọng phát
triển kinh tế hộ gia đình, coi kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản tự
chủ. Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB của Bộ lâm nghiệp và tổng cục quản lý
ruộng đất ngày 6/02/1991 đã hướng dẫn việc giao rừng và đất trồng rừng cho
các tổ chức, cá nhân để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. Ngày 15/9/1992
Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 32-CT về một số chủ trương,
chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, bải bồi ven biển và mặt nước, trong
đó ban hành chính sách hổ trợ 40% tổng vốn dầu tư dần cho các hộ gia đình
vay theo nguyên tắc không lấy lãi. Việc hoàn trả vốn vay bắt đầu từ lúc có sản
phẩm. Ngày 22/7/1992 Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số
264/CT về chính sách đầu tư phát triển rừng. Quyết định này giải quyết khó
khăn về vốn cho nhân dân gây trồng cây lâm nghiệp ở vùng định canh định
cư, Nhà nước hỗ trợ cho vay vốn không lấy lãi và cũng từ đây ngành lâm
nghiệp đã cùng với các địa phương vận dụng và thực hiện giao đất giao rừng
đến các hộ dân, công nhân trong lâm trường. Vì vậy, công tác giao đất, giao
rừng trong thời kỳ này đã có những tiếp bộ đáng kể mang lại những khởi sắc
cho nghề rừng nước ta. Ở những nơi thực hiện đúng chính sách giao đất giao
rừng, thì rừng đã có người làm chủ cụ thể không còn tình trạng chủ rừng
chung chung mà thực chất là vô chủ. Vì vậy người nông dân đã yên tâm đầu
tư vào việc kinh doanh rừng và bồi bổ đất đai. Nhiều nơi đã có sản phẩm hàng
hoá, diện tích đất trống đồi núi trọc đã được đưa vào khai thác sử dụng ngày
càng tăng, nhiều mô hình sản xuất theo phương thức nông lâm kết hợp, làm
vườn rừng trang trại khá phổ biến ở nhiều địa phương. Qua nhận đất nhận
rừng đời sống nông dân được nâng lên khá rõ rệt. Những hộ nông dân và công
nhân lâm trường nhận đất, nhận rừng thu hoạch từ rừng vài chục triệu đồng
10

hàng năm không còn là hiện tượng hiếm thấy, đó là những tiến bộ bước đầu
đáng khích lệ của công tác giao đất khoán rừng trong gai đoạn này, làm tiền
đề cho chuyển hướng ngành lâm nghiệp, từ lâm nghiệp quốc doanh sang lâm
nghiệp xã hội ở nước ta.
Thời kỳ 1993 - 2003
Từ đầu năm 1993 Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các nghị quyết, chủ
trương và chính sách nhằm thực hiện triệt để công tác giao đất giao rừng.
Nghị quyết trung ương lần thứ 5 (1993) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh
tế nông thôn, đã nhấn mạnh: “Đổi mới cơ chế quản lý ngành lâm nghiệp, thực
hiện phổ biến việc giao khoán rừng và đất rừng phù hợp với quy hoạch và
phương thức phát triển từng vùng, từng loại rừng”
- Luật đất đai đã được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ
ngày 15/10/1993. Đây là một sắc luật quan trọng về đất đai, cụ thể hoá điều
17,18 hiến pháp năm 1992, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc
Quốc hội thông qua luật đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn
dân về đất đai, vừa phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng
hoá, bắt đầu tiếp cận với cơ chế thị trường hiện đại. Nghiên cứu tổng quát
những sửa đổi bổ sung về chính sách đất đai thời kỳ này có thể thấy những
vấn đề nổi bật cần chú ý sau đây:
• Cũng cố tăng cường sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường vai trò
quản lý thống nhất của Nhà nước.
• Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng lâu dài vào mục đích do Nhà nước quy định.
• Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất
thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao đất, bồi
thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi.
• Các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp
quyền sử dụng đất đã được xác định tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích
cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sản xuất kinh doanh
trên đất được giao.

11
Tiếp theo đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 64-CP (1993) về giao đất
nông nghiệp, Nghị định 02/CP (1994) về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông lâm nghiệp.
Quyết định số 202/TTg (1994) về khoán quản lý bảo vệ rừng, nghành lâm
nghiệp đã có thông tư số 06-LN/KL(1994) về giao đất lâm nghiệp. Nghị định
số 01/CP (01/11/1995) về giao khoán và sử dụng vào mục đích nông lâm
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, trong các doanh nghiệp Nhà nước. Quyết định
661/QĐ - TTg (29/7/1998) về chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Nghị
định số 163/CP (16/11/1999) thay thế cho Nghị định 02/CP về giao đất cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp. Người dân được nhận đất lâm nghiệp có quyền sử
dụng, thừa kế chuyển nhượng, thế chấp và chuyển đổi quyền sử dụng đất lâm
nghiệp theo quy định của pháp luật, hạn mức giao đất cho thuê đất cho hộ gia
đình cá nhân do Uỷ ban nhân dân (UBND) Tỉnh quyết định nhưng không
vượt quá 30 ha. Thời hạn giao đất cho thuê đất cho tổ chức hộ gia đình cá
nhân là 50 năm, hết thời hạn này nếu tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vẫn có nhu
cầu sử dụng đất đúng mục đích, thì được nhà nước giao tiếp, nếu các loài cây
trên 50 năm thì sau 50 năm Nhà nước sẽ giao tiếp đến khi thu hoạch sản phẩm
chính.
Thời kỳ 2003 đến nay
Trên quan điểm tiếp cận quản lý nguồn tài nguyên có sự tham gia, đặc
biệt quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng. Đối với ngành lâm nghiệp
trong chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001-2010, Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn đã đề ra các giải pháp về cơ chế chính sách; trong đó
có một số điểm liên quan đến phát triển Lâm nghiệp xã hội như sau:
• Xác định rõ quyền sử dụng đất đai và tài nguyên rừng cho các Tổng
công ty, Công ty lâm nghiệp, các lâm trường quốc doanh, các thành
phần kinh tế khác và các hộ gia đình để ổn định sản xuất lâu dài.
• Từng bước tiến hành giao đất và phát triển rừng cộng đồng trên cơ sở

nghiên cứu cơ chế và ban hành các quy định cụ thể trong việc bảo vệ,
phát triển, sử dụng và kinh doanh các loại hình rừng này.
12
• Trong phần đất lâm nghiệp giao cho từng gia đình, thúc đẩy phát triển
nông lâm kết hợp, góp phần xoá đói giảm nghèo.
• Mở rộng và củng cố quyền của người được giao đất, thuê đất cũng như
làm rõ và đơn giản hoá thủ tục để có thể thực hiện các quyền của người
sử dụng.
Định hướng của chính sách lâm nghiệp cũng đã được đề cập trong giai
đoạn này nhằm cung cấp các hướng dẫn cho ngành lâm nghiệp trong một thời
gian dài về quản lý và sử dụng tài nguyên rừng quốc gia và các hướng dẫn
luật pháp về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong 19 triệu ha đất rừng: hơn 13 triệu ha đã bị bị tàn phá, đang bị bỏ hóa,
đất đai bị xói mòn và không sản xuất được. Nguyên nhân là do: sự gia tăng
dân số đã gây nên áp lực lớn đến tài nguyên rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp,
canh tác nương rẫy, khai thác gỗ củi đã góp phần cho việc suy giảm diện tích
rừng khoảng 200.000 ha trong một năm. Mặc khác công nghiệp chế biến gỗ
chưa được phát triển mạnh, sản phẩm chế biến giá trị thấp chưa chiếm lĩnh
được thị trường xuất khẩu.
Việc bảo vệ các diện tích rừng hiện có thông qua trồng rừng, sản xuất
nông lâm kết hợp và các chương trình trồng các cây khác là nhiệm vụ chính
của quốc gia để tiếp tục phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp năm 2001 (FSSP) đã xây dựng một
khung logic để hỗ trợ phát triển lâm nghiệp trong những năm đến, có 9 kết
quả chính đã được dự kiến; trong đó có kết quả mong đợi thứ hai liên quan
đến phát triển cơ chế chính sách liên quan đến lâm nghiệp là “Có khuôn khổ
chính sách, pháp luật và thể chế để làm hài hoà các chính sách của quốc gia-
tỉnh về đất rừng và sử dụng tài nguyên”. Một số chỉ thị quan trọng trong phát
triển chính sách đã được cam kết như là:
• Khái niệm “lâm nghiệp nhân dân” được làm rõ và đưa vào tất cả các

văn bản chính sách liên quan.
• Chính sách lâm nghiệp cộng đồng được ban hành năm 2003.
• Đến năm 2004 các chính sách hưởng lợi được cải cách.
13
Nhìn chung trong giai đoạn này, nhà nước đã đầu tư nguồn lực để bàn
hành và sữa đổi nhiều chính sách liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên
rừng và đất rừng như Luật đất đai, Luật quản lý bảo vệ và phát triển rừng.
Quy chế (08) quản lý 3 loại rừng. Nghị định 178 về chế độ hưởng lợi của
người dân khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Nghị định 163 về giao
khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình và các tổ chức. Mặt khác trong quá
trình tiếp cận, nhiều hoạt động đã chú trọng đến sự tham gia của cộng đồng
trong quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng
đồng như Quy hoạch sử dụng đất và giao đất Lâm nghiệp dựa có sự tham gia,
quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi
cơ bản trong chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta, công nhận sự
tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế hộ gia đình, trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo bình đẳng quyền và nghĩa vụ trước pháp
luật, bảo hộ quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ gia
đình, cá nhân trên diện tích đất lâm nghiệp được giao. Đây chính là động lực
trực tiếp kích thích người dân yên tâm nhận đất nhận rừng để sản xuất kinh
doanh, kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát triển hơn. Mỗi người dân nói
chung, đặc biệt là nông dân miền núi, rất phấn khởi thực hiện chính sách này.
Chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng Nhà nước đến nay đã đi vào cuộc
sống của người dân miền núi bao đời nay gắn bó với rừng.
Giao đất lâm nghiệp ở nước ta được hình thành như là một cấu thành quá
trình đổi mới kinh tế hiện nay. Muốn quản lý bảo vệ và phát triển rừng thì
mỗi khu rừng phải có chủ rừng, và chủ rừng phải có lợi ích thực sự từ rừng và
nghề rừng.
Thực tế cho thấy: thông qua kết quả giao đất giao rừng cho ở nhiều địa

phương trong cả nước đã thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng, phủ xanh đất
trống đồi núi trọc tăng độ che phủ của rừng, tạo các vùng cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây nguyên liệu tập trung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu
nhập, nâng cao đời sống nhân dân trong vùng, điển hình làm tốt như các tỉnh:
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thanh Hoá,
14
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó hoạt động giao đất khoán rừng
được thực hiện dưới sự tài trợ của dự án WB3.
Lãnh đạo các ban ngành trong xã, đại diện của các dự án có liên quan
đến chính sách.
Các hộ tham gia vào việc trồng rừng.
2. Phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu : 02/01/2008- 05/05/2008
- Không gian nghiên cứu: xã Hương Bình, huyện Hưong Trà, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
Xã Hương Bình, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một xã miền
núi. Rừng chiếm hơn ¾ diện tích tự nhiên của xã, các hoạt động về lâm
nghiệp được chú ý phát triển, nên ở đây thường xuyên được các cấp chính
quyền quan tâm. Trong những năm qua đã có rất nhiều chính sách, dự án liên
quan đến lâm nghiệp đầu tư vào địa phương này.
3. Nội dung nghiên cứu.
3.1. Tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương.
• Tự nhiên:
- Vị trí địa lý, địa hình.
- Khí hậu thời tiết.
- Hệ thống sông ngòi.
- Tài nguyên đất:

+ Tổng diện tích đất tự nhiên của xã.
+ Diện tích đất nông nghiệp.
+ Diện tích đất lâm nghiệp.
+ Diện tích đất chưa sử dụng.
- Tài nguyên rừng:
+ Tổng diện tích rừng trên địa bàn xã.
+ Diện tích rừng đặc dụng xã nhận quản lý bảo vệ.
15
+ Diện tích rừng kinh tế.
+ Diện tích rừng mới trồng.
+ Diện tích rừng đã cho khai thác.
• Kinh tế:
- Cơ cấu ngành nghề tại địa phương:
+ Các loại ngành nghề hiện có tại địa phương.
+ Sự thay đổi cơ cấu ngành nghề ở địa phương từ 200- 2007.
- Cơ cấu thu nhập:
+ Các nguồn thu thập chính.
+ Các nguồn thu nhập phụ.
+ Sự biến đổi của cơ cấu thu nhập từ 2005- 2007.
- Tình trạng nghèo đói:
+ Số hộ nghèo( theo tiêu chuẩn của địa phương )/tổng dân số của xã.
+ Số hộ thoát nghèo đói từ 2005- 2007.
+ Số hộ khá của xã.
+ Số hộ giàu của xã.
• Xã hội:
- Dân số:
+ Tổng dân số của xã.
+ Số hộ.
+ Bình quân nhân khẩu/hộ.
+ Tỷ lệ nam/nữ.

+ Tỷ lệ gia tăng dân số.
- Lao động:
+ Số người trong độ tuổi lao động.
+ Số người ngoài độ tuổi lao động.
+ Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên.
+ Tỷ lệ lao động có tay nghề.
+ Nguồn lao động tiềm năng.
• Y tế, giáo dục:
- Giáo dục:
+ Tỷ lệ người biết chữ.
16
+ Tỷ lệ người mù chữ.
+ Số trẻ em trong độ tuổi được đến trường.
+ Tỷ lệ cán bộ cấp thôn, xã được qua đào tạo từ bậc trung cấp trở
lên.
- Y tế:
+ Số lượng cán bộ y tế ở xã.
+ Số lượng cán bộ y tế ở thôn.
+ Tỷ lệ bình quân người dân được khám chữa bệnh/năm.
+ Số lượt người được tiêm phòng các loại bệnh/năm.
• Cở sở hạ tầng của xã:
- Số hộ có dùng điện.
- Số km đường được kiên cố hóa.
- Số trường học các cấp: mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông.
- Số trạm y tế.
3.2. Tiến trình giao đất khoán rừng
• Các bên tham gia, vai trò, chức năng của mỗi bên:
- Số lượng các đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện.
- Vai trò của các đơn vị, tổ chức.

• Các phương thức giao khoán:
- Có bao nhiêu phương thức giao khoán.
- Ưu điểm và nhược điểm của các phương thức.
• Các bước thực hiện.
- Có bao nhiêu bước thực hiện.
- Các đơn vị, tổ chức nào tham gia chỉ đạo.
• Các hoạt động trong từng bước:
- Liệt kê các hoạt động.
- Nội dung của hoạt động.
- Kết quả mang lại qua các hoạt động.
• Hỗ trợ của dự án trong quá trình thực hiện:
- Các hình thức hỗ trợ.
- Phương thức thực hiện.
17
- Kết quả mang lại.
3.3. Kết quả thực hiện
• Số hộ được giao đất khoán rừng.
• Bình quân diện tích/hộ.
• Hoạt động sản xuất trên diện tích đất được giao vào phát triển lâm
nghiệp.
• Tỷ lệ diện tích đất sau khi giao được sử dụng đúng mục đích.
• Sự tham gia của người dân trong tiến trình thực hiện:
- Số người dân tham gia.
- Mức độ tham gia của người dân.
• Các vấn đề còn tồn tại trong quá trình thực hiện.
• Các tổ chức cộng đồng được hình thành:
- Số lượng các tổ chức cộng đồng được hình thành.
- Số người dân tham gia.
- Diện tích được giao.
3.4. Vấn đề và giải pháp.

• Các vấn đề còn tồn tại trong quản lý và sử dụng đất, rừng được giao
khoán.
• Nhu cầu của người dân trong việc tham gia vào tiến trình và việc thực
hiện chính sách.
• Các giải pháp để thực hiện tốt hơn chính sách:
• Giải pháp về kinh tế:
+ Cấp vốn với lãi suất ưu đãi.
+ Cung cấp các vật tư kỹ thuật hỗ trợ sản xuất
• Giải pháp về chính trị:
+ Tuyên truyền mọi người tham gia dưới mọi hình thức: tờ rơi,
+ Tạo ra một số ưu đãi cho người tham gia để khuyến khích.
• Các giải pháp khác…
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Thu thập số liệu thứ cấp.
• Phương pháp:
- Liệt kê danh mục những thông tin cần điều tra.
18
- Xây dựng mẫu để lấy thông tin cần thu thập.
- Thu thập các văn bản, báo cáo sẵn có của các ban ngành có liên quan
và dự án WB3.
• Nguồn thông tin:
- Tình hình kinh tế xã hội của địa phương
- Các bên tham gia, diện tích giao khoán, số hộ được giao khoán, tài
trợ của dự án WB3,
- Các phương thức giao khoán
- Tiến trình giao đất khoán rừng
4.2. Thu thập số liệu sơ cấp
* Thảo luận nhóm:
- Thông tin cần thu thập
+ ưu, nhượt điểm của hoạt động giao đất khoán rừng

+ Mức độ tham gia của người dân.
+ Kết quả mang lại cho người dân.
+ Nhu cầu của người dân.
+ Các vấn đề còn tồn tại.
- Đối tương thảo luận:
Nhóm 1:
Đại diện của các hộ tham gia và am hiểu về hoạt động giao đất khoán rừng,
bao gồm hộ nghèo, trung bình, khá, nam, nữ, với số lượng khoảng 6-8 người.
Nhóm 2:
Đại diện lãnh đạo địa phương, ban quản lý dự án xã, đại diện lãnh đạo các
thôn được giao đất với số lượng cũng 6-8 người.
* Phỏng vấn hộ:
- Phỏng vấn 40 hộ dân được chọn ngẫu nhiên trong số những hộ tham gia
hoạt động giao đất khoán rừng bằng phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc.
Thông tin cần thu thập là diện tích giao khoán trên từng loại hộ, sự tham gia
của người dân, nhu cầu của dân, hoạt động sản xuất dự kiến trên diện tích đất
được giao, Diện tích đất, rừng/hộ, Tỷ lệ diện tích đất được sử dụng đúng mục
đích,
19
- Phỏng vấn cán bộ: Phỏng vấn sâu 1 hoặc 2 lãnh đạo địa phương để tìm hiểu
về tiến trình giao đất khoán rừng.
* Quan sát hiện trường: Quan sát tổng thể các hoạt động sản xuất của từng hộ
dân để bổ sung thông tin cho quá trình phỏng vấn.
5. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý các số liệu.
20
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1.Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu:
1.1. Phạm vi, ranh giới.

Theo QĐ 364 về việc phân chia rah giới hành chính các xã, huyện trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, đường ranh giới hành chính của xã Hương Bình
được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp xã Hương Vân, Hương Hồ, Hương Xuân.
- Phía Nam giáp xã Hồng Tiến, Bình Điền.
- Phía Đông giáp xã Hương vân.
- Phía Tây giáp xã Hương Thọ, Binh Thành.
1.2. Địa hình.
Hương Bình có diện tích tự nhiên 6.337ha, trong đó: diện tích đồi núi
chiếm khoảng 46%, địa hình chủ yếu là gò đồi, bát úp, độ cao trung bình 60-
150m, dốc thoải nghiêng về sườn đông và đông nam, độ dốc bình quân 5-20
0
.
Các đỉnh núi cao là Độn Thông 341.2m, Động Sơn Đào 411.7m. Địa hình
lượn song, ít bị chia cắt. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 25% diện
tích tự nhiên của xã
[6]
.
1.3. Khí hậu, thủy văn.
Xã Hương Bình nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa,
thường có hai màu rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa bình
quân 2800 – 3200mm/năm. Mưa lớn có thể dẫn đến lũ quét gây thiệt hại
nghiêm trọng. Mùa khô từ tháng 1 – 8, mùa này thường chịu ảnh hưởng của
gió Lào nên hay gây ra hạn hán. Nhiệt độ bình quân hàng năm ở khu vực là
25
0
C, cao nhất là 39
0
C, thấp nhất là 11
0

C. Độ ẩm bình quân đạt cao nhất 89%
và đạt thấp nhất là 70%. Vùng này chịu ảnh hưởng của hai chế độ gió, mùa
mưa có gió Đông bắc thường gây ra các đợt rét kéo dài 7 – 10 ngày, mùa khô
có gió Tây nam khô nóng còn gọi là gió Lào
[6]
. Nhìn chung, chế độ gió không
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
21
Trên địa bàn xã Hương Bình có Khe Điêng là con suối dài nhất từ đầu xã
đến cuối xã, ngoài ra còn có các con suối nhỏ khác, đây là mạng lưới cung
cấp nước tưới và nước sinh hoạt cho dân cư.
1.4. Địa chất, thổ nhưỡng.
Đất đai ở đây phần lớn là loại đất được hình thành do quá trình feralit hóa,
chủ yếu gồm 4 loại sau:
- Feralit trên đá macma acid.
- Feralit trên đá sét và đá biến chất.
- Feralit trên đá cát.
- Đất nông nghiệp bị thoái hóa.
2. Tình hình kinh tế - xã hội xã Hương Bình
2.1. Tình hình sử dụng đất ở xã Hương Bình năm 2007
Từ bảng cơ cấu đất trên cho ta thấy, Hương Bình là một xã có tiềm năng
để phát triển các loại ngành nghề như trồng trọt, chăn nuôi,…Diện tích đất
sản xuất nông nghiệp khá lớn (18,8%), chủ yếu là trồng các loại cây lâu năm;
đất trồng cây hằng năm chủ yếu là cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn,
các loại rau màu ( lạc, đậu các loại…) đã góp phần rất lớn vào thu nhập của
hộ gia đình. Đặc biệt, là một xã có diện tích đồi núi chiếm gần ½ diện tích tự
nhiên của mình (46,00%) đã tạo điều kiện hết sức lý tưởng cho việc phát triển
ngành lâm nghiệp. Các diện tích đất lâm nghiệp đều được quản lý và sử dụng
triệt để, do đó, ngành chăn nuôi gia súc lớn như trâu, bò đã bị hạn chế rất
nhiều, việc chăn nuôi chỉ mang tính chất cá thể. Hầu hết các hộ chăn nuôi với

mục đích chính là lấy sức kéo.
Diện tích mặt nước chiếm một tỷ lệ rất hạn chế, do vậy mà việc nuôi trồng
thuỷ sản không có gì đang kể.
22
Bảng 1 : Cơ cấu sử dụng đất ở xã Hương Bình
TT Loại đất Tổng diện tích(ha) Tỷ lệ(%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 6.337,0 100
1 Đất sản xuất nông nghiệp 1.192,3 18,8
1.1 Đất trồng cây hàng năm 183,0
1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.009,3
2 Đất lâm nghiệp 2.912,0 46,0
2.1 Đất rừng đặc dụng 0
2.2 Đất rừng sản xuất 2.712,3
2.2.1 Rừng trồng 2.126,4
2.3 Đất rừng phòng hộ 199,7
2.3.1 Rừng trồng 199,7
3 Đất chưa sử dụng 708,9 11,2
3.1 Đất bằng chưa sử dụng 0
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 708,9
4 Các loại đất khác 1.523,8 24,1
[Nguồn: Báo cáo hằng năm xã Hương Bình, 2008]
2.2. Tình hình dân số và lao động
Hương Bình là một xã chỉ có dân tộc Kinh sinh sống, là một vùng kinh tế
mới nên hầu hết người dân theo chủ trương của Đảng và chính phủ, sau giải
phóng 1975 trừ các huyện Phú Vang, Hương Thuỷ di cư lên đây khai hoang
phục hoá.
Dân số của toàn xã năm 2007 là 2288 người, có 1160 người trong độ tuổi
lao động chiếm 50,70% dân số của toàn xã. Trong đó, lao động nông nghiệp
chiếm 74%, tiểu thủ công nghiệp- dịch vụ là 26%. Xã có 7 thôn, dân cư sống
rải rác trên chiều dài 7Km. Mật độ dân số là 36 người/Km

2
, nó khá thấp so
với toàn Tỉnh. Lao động toàn xã chiếm 50,70% dân số, đây là nguồn lao động
23
khá dồi dào
[6]
. Tuy nhiên chất lượng của nguồn lao động này khá thấp, số lao
động không có chuyên môn còn chiếm tỷ lệ khá cao. Lao động tham gia vào
nông nghiệp là chủ yếu.
Nhìn chung, dân cư phân bố không đồng đều trên tất cả các thôn của xã.
Tuy vậy, dân cư vẫn tập trung chủ yếu ở thôn Hải Tân, nơi tập trung các cơ
quan hành chính của xã.
2.3. Cơ cấu doanh thu của xã Hương Bình
Do có những đặc điểm về tự nhiên đặc thù, cho nên trong cơ cấu doanh thu
của xã có sự đóng góp của nhiều hoạt động khác nhau.
Bảng 2: Cơ cấu thu nhập của xã Hương Bình
Đvt: đồng
Lĩnh vực Năm 2005 2006 2007
Trồng trọt 10.097.000 12.346.000 15.331.000
Chăn nuôi 6.094.000 7.451.000 9.195.000
TTCN-DV 6.500.000 11.772.000 13.527.000
Tổng 22.691.000 31.569.000 38.053.000
[Nguồn: Báo cáo hằng năm xã Hương Bình, 2008]
Trồng trọt:
Đây là ngành chủ đạo của xã, trong đó, diện tích lúa nước bình quân hằng
năm là 36,58 ha, người dân đã đưa giống cấp I vào sản xuất cho nên năng
suất đạt được khá cao (48 tạ/ha). Đối với cây có củ cho tinh bột như khoai
lang, sắn… diện tích gieo trồng hằng năm cũng khoảng 340 ha, cho sản lượng
khoảng 1500 tấn bột/năm.Cây công nghiệp ngắn ngày như lạc với diện tích
bình quân khoảng 80 ha/năm, đạt năng suất 17,50 tạ/ha. Những năm gần đây

toàn xã đã trồng hơn 600 ha cao su – là cây công nghiệp cho thu nhập tương
đối cao.
Ban lãnh đạo xã đã có những chỉ đạo cho các ban ngành liên quan xây
dựng kế hoạch, chủ động triển khai và đã tạo được những bước chuyển biến
tích cực về công tác chuyển đổi giống cây trồng, ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. Ngoài ra, Hội nông dân tập thể xã còn
khuyến khích người dân chú trọng vào việc luân canh, xen canh để tăng hệ số
24
sử dụng đất và hiệu quả kinh tế như: trồng xen canh đậu các loại và ngô trên
diện tích lạc Đông xuân…
Hằng năm, khuyến nông xã được sụ hỗ trợ của khuyến nông huyện thường
xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho người dân trong xã. Qua đó đã
góp phần rất lớn vào việc cải thiện phương thức canh tác của người dân, dần
đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tế sản xuất. Vì vậy mà doanh thu
của ngành trồng trọt của xã qua các năm liên tục tăng
Chăn nuôi:
Tổng đàn gia súc, gia cầm liên tục tăng qua các năm.
Bảng 3: Tình hình chăn nuôi của xã Hương Bình qua các năm.
Đvt: con
Vật nuôi Năm 2005 2006 2007
Trâu 78 101 144
Bò 365 475 588
Lợn 400 506 570
Gia cầm 2015 957 3982
[Nguồn: Báo cáo hằng năm xã Hương Bình, 2008]
Chăn nuôi ở địa phương ở đây cũng là một ngành có tiềm năng lớn để phát
triển. Diện tích tự nhiên khá lớn, nguồn thức ăn sẵn có nhiều. Do vậy mà
trong những năm gần đây ngành chăn nuôi đã được chú ý phát triển đặc biệt
là chăn nuôi gia súc lớn.
Công tác phòng trừ dịch bệnh cũng ngày càng được chú trọng và thường

xuyên, mạng lưới thú y được cũng cố và mở rộng ra toàn xã. Hằng năm, thú y
xã tổ chức các đợt tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm để kịp thời ngăn chặn
và loại trừ các dịch bệnh. Cụ thể như năm 2007, thú y xã đã tiêm phòng
chống dịch lỡ mồm long mống, tụ huyết trùng cho đàn trâu hơn 850 liều, cho
đàn bò khoảng 650 liều; tiêm phòng dịch tụ huyết trùng, thương hàn cho đàn
lợn là 650 liều. Ngoài ra, thú y xã còn tổ chức tiêm phòng cho đàn gia cầm 2
đợt cho 3982 con gia cầm trên toàn xã . Do vậy, dịch bệnh đã ít xảy ra trên
địa bàn xã, mang lại an tâm cho người dân trong sản xuất.
25

×