Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

nghiên cứu nguyên nhân suy giảm diện tích và giải pháp khôi phục, phát triển đặc sản tiêu tiên phước, quảng nam (trường hợp nghiên cứu tại xã tiên mỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.44 KB, 58 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan
trọng là nền tảng của phát triển kinh tế, với 2/3 dân số là nông dân, 70,4% lao
động sinh sống bằng nghề nông. Mặc dù đóng góp của nông nghiệp trong
GDP của đất nước chỉ dao động ở mức 20% và đóng góp cho xuất khẩu
khoảng 23%, nhưng hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp thể hiện bằng chỉ số
hiệu quả đồng vốn cao hơn hẳn so với các ngành khác và xuất khẩu nông sản
là một trong rất ít ngành kinh tế xuất siêu trong thương mại; đóng góp của
nông nghiệp vào tạo việc làm còn lớn hơn cả đóng góp của ngành này vào
GDP. Việt Nam hiện đang dẫn đầu về xuất khẩu: hạt tiêu, hạt điều; gạo, cà
phê đứng thứ 2; cao su đứng thứ 3 trên thế giới Rõ ràng sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam do nông dân làm ra đã góp phần nâng cao vị thế nước ta trên
trường quốc tế về mặt kinh tế.[3]
Vì vậy, việc phát triển nông nghiệp có vai trò cực kì quan trọng đối với
sự phát triển bền vững, lâu dài của đất nước góp phần giải quyết được sức ép
của hai vấn đề bức xúc hiện nay là thiếu việc làm cho lao động nông thôn và
sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Cho nên mỗi vùng cần
tận dụng được thế mạnh về đất đai, khí hậu, lực lượng lao động, chi phí thấp
để trồng những loại cây có giá trị kinh tế cao như: cà phê, chè, hồ tiêu, cao su,
cây ăn quả…để đem lại lợi ích to lớn.
Huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam, trung tâm huyện cách thành
phố Tam kỳ 25 km về phía Tây. Đây là một huyện trung du miền núi của tỉnh,
có diện tích tự nhiên 45.440,64 ha. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là
32.249 ha (chiếm 70,96%) với 2.944,68 ha đất trồng cây lâu năm (chiếm
9,1%), có gần 1.700 ha đất vườn và gần 400 ha đất có khả năng xây dựng
vườn đồi vườn trang trại chưa được sử dụng. Từ lâu đời huyện Tiên Phước đã
có một số sản phẩm nổi tiếng như: chè, hồ tiêu, quế, bòn bon,… thu nhập từ
kinh tế vườn chiếm một phần quan trọng trong thu nhập của người dân nơi
đây, tỷ trọng bình quân thu nhập kinh tế vườn khoảng 30% giá trị sản xuất
nông lâm nghiệp của toàn huyện. Kết hợp với những điều kiện sẵn có: đất đai,


1
khí hậu, lao động dồi dào trong báo cáo của phòng nông nghiệp huyện xác
định kinh tế vườn và chăn nuôi là mũi nhọn để đưa nền kinh tế huyện phát
triển, xác định những cây trồng chủ yếu của kinh tế vườn là: hồ tiêu, bòn bon,
măng cụt… Tuy nhiên trong những năm gần đây cây tiêu có dấu hiệu suy
giảm diện tích, năng suất và sản lượng một cách nhanh chóng từ 90 ha năm
2005 đến 2010 chỉ còn 25 ha nhưng chưa có những biện pháp hiệu quả để
khôi phục và phát triển. Xã Tiên Mỹ huyện Tiên Phước là vùng trồng tiêu
nhiều nhất của toàn huyện mà hiện nay mỗi hộ chỉ còn vài choái tiêu. Vì vậy
nắm bắt được nguyên nhân của việc suy giảm diện tích tiêu để từ đó tìm ra
những giải pháp để khôi phục phát triển lại cây tiêu của địa phương là việc
làm hết sức cần thiết trong việc phát triển kinh tế vườn, góp phần phát triển
nền kinh tế huyện nhà.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu
nguyên nhân suy giảm diện tích và giải pháp khôi phục, phát triển đặc
sản tiêu Tiên Phước, Quảng Nam (Trường hợp nghiên cứu tại xã Tiên
Mỹ)”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng cơ cấu cây trồng và diện tích tiêu tại xã Tiên Mỹ và
huyện Tiên Phước.
- Xác định nguyên nhân suy giảm diện tích tiêu ở cấp hộ và cấp cộng đồng.
- Xác định giải pháp khôi phục và phát triển đặc sản tiêu tại xã Tiên Mỹ,
Huyện Tiên Phước và Tỉnh Quảng Nam.
2
Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
chúng ta phải đầu tư công sức, vốn, trí tuệ, thị trường cho phát triển nông
nghiệp nông thôn, nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển đã cho thấy kinh tế nông

nghiệp nông thôn phát triển một mặt nó cung ứng ngày càng nhiều hàng hóa
và dịch vụ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy quá
trình đô thị hóa, mặt khác nó là nơi cung ứng nguồn lao động dồi dào có trình
độ cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhiều hơn
nữa. Bản thân kinh tế nông thôn phát triển sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận
dân cư nông thôn, tăng tích lũy vốn cho đầu tư phát triển, hình thành các hộ
kinh doanh đa dạng tổng hợp, phát triển các dịch vụ tăng sức mua, tăng nhu
cầu hàng hóa đối với khu vực thành thị. Những điều đó trở thành động lực
thúc đẩy khu vực kinh tế đô thị mở rộng và phát triển, không những thế nó
còn là thị trường cực kỳ quan trọng cho công nghiệp phát triển [4,52].
Các yếu tố trong hệ thống canh tác của người nông dân có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, làm cho hệ thống luôn có sự biến đổi,
vận động. Trong đó, người nông dân đứng vị trí trung tâm họ dựa vào các yếu
tố đầu vào như điều kiện môi trường tự nhiên (đất đai, khi hậu, nguồn
nước ), điều kiện kinh tế xã hội (kết cấu cơ sở hạ tầng, thị trường, nguồn lao
động, khả năng về vốn, chính sách nhà nước, tập quán canh tác và khả năng
quản lý của họ ) từ đó họ đưa ra quyết định sản xuất cái gì (trồng trọt, chăn
nuôi, chế biến sản phẩm hay các ngành khác). Đối tượng cây trồng và vật
nuôi là bộ phận quan trọng trong hệ thống canh tác, chịu sự tác động trực tiếp
hay gián tiếp của các yếu tố trong sản xuất. Đứng trên quan điểm hệ thống
việc xem xét các yếu tố tác động đến cây trồng vật nuôi để tìm ra các quy
trình kỹ thuật mà các hộ nông dân, các mô hình trang trại áp dụng, trên từng
đối tượng để từ đó tìm ra giải pháp kinh tế trợ lực cho sự phát triển trong
nông hộ, kinh tế trang trại, tiến tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày
nay. Do đó, sự hiểu biết về từng đối tượng cây trồng, vật nuôi trong hệ thống
canh tác là điều quan trọng.
3
Cây Tiêu có nguồn gốc từ Ấn Độ, mọc hoang trong các khu rừng nhiệt
đới ẩm ở vùng Ghats và Assam, nó được biết đến là cây gia vị đầu tiên ngay
từ thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Ngoài công dụng gia vị con người còn

biết đến với giá trị dược học của hạt tiêu, cho nên ngay từ thời gian đầu nó
được dùng làm lễ vật triều cống hoặc bồi thường chiến tranh có giá trị [10, 5].
Do giá trị thương mại cao của hạt Tiêu đem lại nên sau đó cây tiêu đã
phát triển rộng rãi ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. Ở Inđônesia cây
tiêu được đưa vào trồng trong khoảng thời gian từ 100 năm trước Công
nguyên đến năm 600 sau Công nguyên tập trung ở đảo Sumatra. Từ đây nghề
trồng tiêu được du nhập vào các nước Malaysia, Campuchia, Việt Nam.
Hiện nay cây hồ tiêu được trồng nhiều ở các nước trong khu vực xích
đạo khoảng 15
0
vĩ Bắc 15
0
vĩ Nam. Ở Việt Nam có thể trồng ở 17
0
vĩ Bắc. Ở
Châu Phi: Madagascar là nước trồng tiêu sau đó du nhập qua các nước
Nigiêria, CH Côngô Ở Châu Mỹ: Braxin là nước canh tác đầu tiên và nhiều
nhất với các giống tiêu do người Nhật đưa từ Singapore sang, cho đến nay
Braxin được xếp vào một trong những nước xếp vào một trong những nước
đứng đầu về sản xuất tiêu trên thế giới [10, 6], [8, 2-3]. Ở khu vực Đông
Dương cây Tiêu mọc hoang ở các khu rừng nhiệt đới được tìm thấy ở trước
thế kỷ XVI song nghề trồng tiêu ở nước ta cũng như ở các nước Đông dương
mới bắt đầu vào từ thế kỷ thứ XVII [10, 6]. Đến nay nghề trồng tiêu ở Việt
Nam được bắt nguồn từ khi nào và do ai đưa vào trồng cũng chưa được xác
định rõ. Dựa vào vị trí của các nước trong khu vực và giao lưu thương mại
giữa nước ta với các nước tư bản Phương Tây vào thế kỷ XVII, XVIII, chúng
ta có thể nhận định, cây tiêu được đưa vào trồng ở Việt Nam do hai nguồn:
Nguồn chính: Từ Ấn Độ, Indonêsia (đây là hai trung tâm tiêu trên thế
giới) sang Campuchia rồi đi vào khu vực Hà Tiên, Phú Quốc, tuy nhiên ở giai
đoạn này ngành trồng tiêu ở nước ta chưa phát triển, nó chỉ nằm trong tay các

nhà nông dân Việt gốc Hoa [2,19].
Nguồn thứ hai: Do người Phương Tây đưa vào, cùng với sự tác động các
nhà tư bản Pháp, cây tiêu được phát triển trên quy mô lớn, hình thành nên các
đồn điền trồng tiêu vào cuối thế kỷ XIX. Hiện nay nghề trồng tiêu nước ta đã
4
phát triển mạnh cả về năng suất lẫn diện tích, trở thành một trong những quốc
gia có lượng tiêu xuất khẩu đứng đầu thế giới.
Cây tiêu được phát triển tốt trong điều kiện sinh thái sau:
* Nhiệt độ: Cây tiêu có nguồn gốc nhiệt đới điển hình, nhiệt độ thích hợp
nhất cho cây tiêu là từ 25 - 26
0
C. Khi nhiệt độ cao hơn 40
0
C và nhỏ hơn 10
0
C
đều ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng cây tiêu có thể trồng ở khu vực 20
0
Bắc và Nam vĩ tuyến,
nơi có nhiệt độ khoảng 18 - 35
0
C [ 10,38].
* Ẩm độ, lượng mưa: Do đặc điểm sinh lý cây tiêu yêu cầu không khí
ẩm ướt, lượng mưa hằng năm từ 1500 đến 3000 mm, tuy nhiên phải phân bố
đều trong năm, nếu mưa lớn kéo dài thì cây dễ chết do bị thối rễ và sâu bệnh
hại. Để đảm bảo tốt quá trình thụ phấn thì cần có ẩm độ không khí luôn cao
(75- 90%). Cây tiêu có thể chịu đựng được một mùa khô nhưng không kéo dài
vì do đặc điểm của bộ rễ luôn có xu hướng ăn lên trên mặt đất nên chịu hạn
kém, nhưng cũng cần một mùa khô ít gay gắt, không kéo dài nhằm tạo điều

kiện cho trái chín đều, tập trung và ra hoa hàng loạt ở mùa mưa năm sau
[10,40].
* Ánh sáng: Do nguồn gốc của cây tiêu sống trong rừng thuộc miền Nam
Ấn Độ, nên cây tiêu ưa ánh sáng tán xạ để phù hợp với yêu cầu sinh lý, sinh
trưởng và phát triển, kéo dài tuổi thọ và chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, yêu
cầu ánh sáng của cây tiêu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng và
các giai đoạn sinh trưởng của cây tiêu. Trong giai đoạn mới trồng cây cần có
bóng râm khoảng 30 - 40% để cây sinh trưởng khỏe, lá xanh đậm, cây nhanh
bám vào thân cây choái. Ở giai đoạn kinh doanh trong thời kỳ ra hoa, đậu quả
cây cần ánh sáng nhất vì đây là giai đoạn cây tổng hợp hữu cơ mạnh và đảm
bảo cho quá trình chín đều, màu sắc quả đẹp. Tuy nhiên, ánh sáng trực xạ quá
mạnh sẽ làm cho cây tiêu mất nhiều nước, lá bị cháy, cây ngừng sinh trưởng,
hoa quả chậm phát triển. Vì vậy, điều khiển ánh sáng thích hợp cho cây thông
qua việc bố trí mật độ, hướng cây choái, tỉa cành tạo tán cho cây tiêu và cây
choái là biện pháp góp phần nâng cao năng suất, phẩm chất của cây tiêu
[10,41].
5
* Tốc độ gió và độ cao địa hình: Nơi trồng tiêu cần ít gió, cả về tốc độ
gió và hướng gió. Gió lạnh và gió khô nóng không thích hợp với cây tiêu.
Trong điều kiện miền Trung thường xảy ra gió bão, nếu thâm canh tiêu trên
diện rộng cần phải có đai rừng chắn gió vững chắc. Cây tiêu thích hợp với độ
cao địa hình thấp, gần xích đạo. Tuy nhiên tiêu có thể mọc và sinh trưởng
bình thường tại nơi có độ cao (so với mực nước biển) từ 0 đến 800 - 900m với
điều kiện là nhiệt độ không khí phải trên 15
0
C [10,39].
*Yêu cầu về đất đai: Tiêu có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau
(sét pha cát, đất đỏ bazan, đất phù sa bồi, đất xám, dốc tụ, đất feralit ) nhưng
yêu cầu đất phải có thành phần cơ giới nhẹ, tơi xốp, dễ thoát nước, có tầng
canh tác dày (trên 60 cm), pH từ 5,5 - 7, không bị nhiễm mặn [10,40].

2.2. Khái niệm về vùng “cây đặc sản”.
Khái niệm: Vùng “cây đặc sản” là vùng cây đặc trưng của một vùng
sinh thái do những đặc điểm về điều kiện tự nhiên: khí hậu, đất đai, địa
hình… và chế độ canh tác của người dân trong vùng tạo nên những loại cây
trồng có những hương vị đặc trưng mà chỉ riêng vùng đó mới có (Ths.Đinh
Xuân Đức, trường ĐH Nông Lâm Huế). Chẳng hạn như: thanh trà Huế, hồ
tiêu Chư sê, bưởi Năm Roi…
Hiện nay không phải loại cây nào cũng được công nhận giá trị và xuất
xứ của nó. Có một số loại cây trồng đã được công nhận thương hiệu và xây
dựng chỉ dẫn địa lí cho vùng. Tuy nhiên, cũng có một số cây trồng mặc dù
không được công nhận thương hiệu nhưng nó vẫn nổi tiếng trong dân gian
chẳng hạn như: bòn bòn, hồ tiêu Tiên Phước; Cà chua bi Lào Cai, mướp đắng
Phú Thọ, dừa sáp Cầu Kè…
Sở dĩ có sự tồn của những vùng “cây đặc sản” như vậy là do môi
trường là điều kiện tồn tại và phát triển của sự sống trên Trái đất, duy trì sự
sinh trưởng và phát triển của các sinh vật hoặc làm phát sinh các loài mới.
Thành phần và tính chất của môi trường rất đa dạng và luôn luôn biến đổi. Do
vậy các sinh vật phải thường xuyên thích nghi với môi trường, phải điều
chỉnh hoạt động sống của mình cho phù hợp với các biến đổi đó thì mới tồn
tại được [5].
6
Môi trường bao gồm nhiều nhân tố sinh thái. Các nhân tố này rất đa
dạng, có thể thúc đẩy hoạt động sống của các sinh vật, cũng có thể kìm hãm
hay gây hại cho các sinh vật. Có thể chia các nhân tố sinh thái thành 3 nhóm
lớn là:
- Nhóm nhân tố vô sinh: Gồm các nhân tố khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ,
nước, không khí), dòng chảy, đất đai, địa hình… Các nhân tố sinh thái thuộc
nhóm vô sinh có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các
sinh vật. Các sinh vật chỉ có thể tồn tại và phát triển trong các điều kiện sinh
thái thích hợp mà thôi.

+ Nhiệt độ: Nhiệt độ là nhân tố sinh thái ảnh hưởng lớn và trực tiếp hoặc
gián tiếp đến sự phát triển, sinh trưởng và phân bố của các cá thể, quần thể,
quần xã. Khi nhiệt độ tăng hay giảm quá mức giới hạn của sinh vật thì sinh
vật sẽ chết. Một số ví dụ về sự tác động của nhiệt độ lên sinh vật: Cây quang
hợp trong khoảng 20 - 30
0
C, khi nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều ảnh
hưởng đến quá trình này. Cây ôn đới có thể hoạt động ở 0
0
C, một số loài tùng,
bách có thể hô hấp được ở cả nhiệt độ -25
0
C. Những cây thân nhỏ sống ở
vùng đất cát nóng, dễ bị gió làm bay cát và làm nước bốc hơi thì thân chính
không phát triển mà phân cành rất nhiều từ gốc, tạo ra một tán cây sát mặt đất
có tác dụng hạn chế nhiệt độ cao do mặt trời đốt nóng mặt đất. Ở vùng ôn đới,
về mùa đông cây rụng lá có tác dụng hạn chế tiếp xúc với nhiệt độ thấp, hình
thành các vẩy bảo vệ chồi phát triển các lớp bần cách nhiệt. Như vậy yếu tố
nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến sự phân bố các loài trong tự nhiên.[5]
+ Nước và độ ẩm: Nước có vai trò quan trọng trong đời sống của các
sinh vật. Nước chiếm tới 60 - 90% khối lượng cơ thể sinh vật thậm chí có thể
lên tới 98% như ở loài mọng nước, ruột khoang Trong các điều kiện tự
nhiên khác nhau, với lượng mưa, độ ẩm, hàm lượng các chất trong nước khác
nhau có những loài sinh vật rất khác nhau sinh sống. Rễ, thân của một số loài
sống trong nước phù to ra tạo thành các mô xốp, có nhiều lông dày để giữ khí,
làm rễ, thân trở lên nhẹ giúp cây dễ dàng nổi trên mặt nước như cây rau dừa
nước, cây lục bình [5]
7
+ Ánh sáng: Tùy thuộc vào điều kiện ánh sáng, có những cây sinh trưởng
và phát triển tốt, thích sống nơi trống trải, có nhiều ánh sáng như thảo nguyên,

đồng ruộng, bãi cỏ, rừng thưa ví dụ như cây tếch, bạch đàn, phi lao, cây họ
hoà thảo Một số cây khác lại thích sống ở các nơi ít ánh sáng, dưới tán rừng
hoặc các hốc đá, hang động như phong lan.[5]
+ Đất đai: Đất là môi trường nuôi dưỡng đa số các loài thực vật, là giá
thể cho cây bám vào, là nơi sinh sống, trú ngụ của rất nhiều loài động vật
Một số ảnh hưởng của đất đến sự phân bố của sinh vật có thể nhận thấy như:
Thực vật nghèo dinh dưỡng: sinh trưởng bình thường trên đất mỏng, ít
nguyên tố dinh dưỡng: bạch đàn, cỏ tranh thực vật cần đất có lượng dinh
dưỡng trung bình: trâm ổi, cỏ sướt Thực vật giàu dinh dưỡng: Sinh trưởng
tốt ở đất sâu, nhiều nguyên tố khoáng và mùn: sồi, cây rừng nguyên sinh nhiệt
đới Nơi đất đầm lầy chua có các loài thuộc họ Lác, họ cỏ dùi trống, nắp
ấm Nơi đất Laterit ở các đồi, savan: thông, sim, mua Nơi đất lầy ngập
mặn ven biển: đước, vẹt Đất đá vôi: trai (họ Tiliaceae), lát hoa, gội nước
[5].
+ Địa hình: Càng lên cao, số lượng thực vật và số loài thực vật càng
giảm. Nơi có địa hình thấp, trũng, chúng ta thường gặp cây thuộc họ lác, hoà
thảo Vùng gò đồi có thể gặp tre, tầm vông, duối. Khi đi từ đồng bằng lên núi
cao thường gặp dầu con cái, dầu song nắng, dầu lông (họ Dipterocarpaceae),
lên đến 600 m thì các loài này biến mất, chỉ còn lại Bằng lăng, thông 2 lá.
Trên 1000 m có thông 3 lá, tùng bách [5].
Các nhân tố sinh thái nói trên cùng rất nhiều các nhân tố sinh thái khác
đã góp phần tạo nên sự phân bố của muôn loài phù hợp với từng điều kiện
sinh thái trên Trái đất.
- Nhóm nhân tố hữu sinh: Gồm các cá thể sống như thực vật, động vật, nấm,
vi sinh vật…
- Nhóm nhân tố con người: Gồm tất cả các hoạt động của con người làm biến
đổi tự nhiên mà nơi đây là môi trường sống của các sinh vật. Để tồn tại và
8
phát triển, bằng trí tuệ của mình con người đã biết thuần hoá các loài sinh vật
có sẵn trong tự nhiên nơi mình sinh sống, lựa chọn những đặc điểm có lợi của

chúng cho mục đích của con người, dần dần phát triển chúng thành các loại
cây trồng, vật nuôi phục vụ cho nhu cầu sống. Hệ sinh thái nông nghiệp là hệ
sinh thái do con người tạo ra và duy trì trên cơ sở các quy luật khách quan của
hệ sinh thái, là các đơn vị sản xuất nông nghiệp, là các HST nhân tạo do lao
động của con người tạo ra. Ví dụ: Nông trường, hợp tác xã, nông trại hoặc
làng, xóm Con người khai thác nông nghiệp để giữ năng suất, vì vậy giữ
HSTNN ở giai đoạn trẻ. Các HSTNN do đấy không ổn định, dễ bị thiên tai và
sâu bệnh phá hoại. Muốn tăng năng suất và tăng tính ổn định, con người phải
đầu tư ngày càng nhiều năng lượng hóa thạch vào các HSTNN. Trong hoạt
động của mình, con người có những cố gắng làm già một số quá trình của
HST nhằm nâng cao tính ổn định của chúng :
- Ðộc canh thay bằng luân canh làm cho HSTNN thêm phong phú, mặc dù sự
phong phú đó là trong thời gian, không trong không gian. Hoặc trồng xen,
trồng gối vụ cũng có tác dụng tương tự [5].
- Dùng phân hữu cơ, kết hợp trồng trọt chăn nuôi, tăng sự quay vòng chất
hữu cơ có tác dụng làm tăng thêm kiểu chuỗi thức ăn dựa vào phế liệu.
- Sử dụng mối quan hệ sinh học trong quần thể để nâng cao năng suất và tăng
tính ổn định của các HST. HST tự nhiên có khuynh hướng kéo HSTNN về
HST tự nhiên: lơ là trong canh tác thì sâu bệnh phát triển, sự đa dạng tăng.
Tuy nhiên, trong HSTNN thường rất ít loài, khi bị sâu bệnh trở tay không kịp
nạn đói [5].
Các cây trồng vật nuôi khi được đưa đến một vùng sinh thái mới, nếu
điều kiện sinh thái phù hợp có thể phát triển mạnh mẽ, cho năng suất và phẩm
chất cao hơn nhiều so với nơi khởi nguồn. Cũng có thể do điều kiện sinh thái
không phù hợp mà năng suất, phẩm chất giảm sút, không phát triển được,
thậm chí còn bị tiêu diệt. Các giống địa phương thường là các giống cho
phẩm chất sản phẩm cao và khả năng thích nghi cao với điều kiện địa phương
nhưng năng suất thấp. Chúng ta không nên vì thế mà nhập nội ồ ạt các giống
9
cây trồng vật nuôi khác cho năng suất, phẩm chất cao để thay thế hoàn toàn

giống địa phương. Cần phải duy trì các nguồn gen quí này bên cạnh các giống
nhập nội mới để đảm bảo tính đa dạng cây trồng, vật nuôi và tận dụng các
nguồn gen quí phục vụ cho công tác tạo giống. Trong công tác nhập nội và
phát triển giống cây trồng cũng không nên bỏ qua nhân tố con người.
Các nhân tố sinh thái luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian.
Chúng tác động không giống nhau đối với các sinh vật. Các sinh vật được
sinh ra mang những đặc điểm di truyền tốt của bố mẹ. Chúng có thể dễ dàng
tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên nơi bố mẹ chúng sinh sống.
Khi điều kiện môi trường thay đổi, diễn ra quá trình đào thải, các sinh vật
mang những đặc điểm không thích hợp bị tiêu diệt, các sinh vật khoẻ mạnh
hơn, hoặc các sinh vật mang những gen đột biến có lợi thích hợp trong điều
kiện môi trường mới có khả năng sống sót, tồn tại, tiếp tục phát triển và mang
những đặc điểm di truyền có lợi đấy truyền lại cho thế hệ sau.
Tóm lại, kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên là hình thành nên
những giống, loài mới có khả năng thích nghi cao với điều kiện tự nhiên, kết
quả của sự tác động qua lại có tính qui luật của các nhân tố sinh thái qua
nhiều thế hệ đã hình thành nên những đặc điểm thích nghi sinh thái quan
trọng và chính những điều kiện sinh thái tại từng vùng, địa phương cùng với
những tập tục, tôn giáo, trình độ văn hoá, trình độ canh tác của con người
tại mỗi địa phương đó đã hình thành mỗi một vùng sinh thái khác nhau lại có
những cây trồng và vật nuôi riêng đặc trưng cho các vùng đó, không phải là ý
muốn chủ quan của con người tạo nên, mà trên cơ sở mỗi loại cây trồng lại
thích ứng với từng điều kiện sinh thái khác nhau. Điều đó giải thích vì sao
mỗi vùng sinh thái khác nhau lại có những vùng “cây đặc sản” [5].
Như vậy, sự hiểu biết sự hình thành của vùng “cây đặc sản” để phát
triển trồng trọt cây lương thực, cây thức ăn gia súc… thế nào cho hợp lý để có
được hiệu quả kinh tế cao nhất trong khai thác nguồn lợi tự nhiên là một vấn
đề hết sức quan trọng trong định hướng tư tưởng cho thế hệ trẻ để giữ gìn hệ
sinh thái và phát triển bền vững.
10

2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cây hồ tiêu ở Việt nam.
Tiêu là một cây có giá trị cao. Sản phẩm của cây tiêu là hạt tiêu được
chế biến qua 2 cách: tiêu đen và tiêu trắng (tiêu sọ sau khi bóc vỏ) ngoài ra
còn có thể chế biến một số nhựa tiêu. Trong hạt tiêu khô có chứa 12 - 14 % là
nước, 86 - 88 % là chất khô. Trong chất khô chứa nhiều chất khoáng, đạm,
chất béo, tinh dầu [10, 7-9] . Do vậy, hạt tiêu được sử dụng với nhiều mục
đích khác nhau: dùng làm gia vị, dùng trong y học, trong công nghiệp hương
liệu và làm chất phòng trừ côn trùng. Từ lâu con người đã biết sử dụng tiêu để
khử các mùi khó chịu trong thức ăn, bên cạnh đó tính nóng của tiêu giúp cơ
thể tiêu hóa thức ăn một cách dễ dàng, ngoài ra tính gia vị trong bữa ăn đối
với người xứ lạnh thì hạt tiêu giúp cơ thể nóng lên trong mùa rét.
Về mặt dược liệu, chất Piperin, tinh dầu tiêu và nhựa có mùi thơm đặc
biệt được sử dụng nhiều trong các toa thuốc nam để làm tăng khí lạnh, ấm dạ
dày, phủ tạng, hạ khí, tiêu đàm trong tiêu thực giải các chất độc đau răng, đau
bụng [9, 85]. Tuy nhiên dùng quá nhiều sẽ dẫn đến táo bón, kích thích niêm
mac dạ dày, gây sốt, viêm đường tiết niệu, viêm thận [ 10, 10].
Trong công nghiệp hương liệu chất Piperin trong hạt tiêu được phân hủy
thành piperiđin và axít piperit
C
17
H
19
NO
3
+ H
2
O C
5
H
11

N + C
12
H
10
O
4
(piperidin) (axit piperit)
Oxy hóa axit piperic bằng KMnO
4
thu được piperonal có mùi hương dùng
trong kỹ nghệ nước hoa [10,11].
Ngoài ra tinh dầu và nhựa được sử dụng trong công nghệ hương liệu và
hóa dược. Trước kia người ta dùng dung dịch chiết xuất từ hạt tiêu tẩm vào da
trong khi thuộc da để ngừa côn trùng phá hoại và dùng trong ngành hóa bảo
vệ thực vật. Ngày nay hạt tiêu ít được sử dụng trong lĩnh vực này.
Ở Việt Nam, giống tiêu được trồng trong sản xuất hiện nay là các giống
tiêu nhập nội, với đặc điểm nhân giống vô tính nên quần thể giống không
phong phú như một số nước khác, mỗi vùng trồng tiêu chính thường chỉ có
vài ba giống phổ biến. Theo Phan Hữu Trinh (1988) cây tiêu được đưa vào
canh tác tương đối quy mô ở vùng Hà Tiên nước ta vào đầu thế kỷ thứ 19, sau
đó được trồng ở nhiều vùng Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ, vùng hồ tiêu
11
chủ yếu ở tỉnh Quảng Trị là các vùng có độ cao so với mặt biển dưới 100 m.
Các giống tiêu được trồng trong thời gian này chủ yếu là các giống có nguồn
gốc từ Campuchia và một số giống địa phương không rõ nguồn gốc.
Năm 1947, giống Lada Belangtoeng có nguồn gốc Indonesia được nhập
vào nước ta từ Madagascar, được xem là giống có nhiều triển vọng và có khả
năng chống bệnh thối rễ [10].
Năm 1950, Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông Lâm Súc Miền Nam Việt
Nam đã khảo nghiệm việc trồng tiêu trên cao nguyên Bảo Lộc có độ cao trên

500 m so với mặt biển (Nguyễn Cao Ban, 1956). Sau sáu năm khảo nghiệm
tác giả này đã khẳng định tiêu hoàn toàn có thể sinh trưởng phát triển tốt, cho
năng suất khá cao dưới điều kiện khí hậu cao nguyên nước ta. Đánh giá khả
năng sinh trưởng, phát triển của sáu giống tiêu: Srechea, Kampot (từ
Campuchia), tiêu Quảng Trị, tiêu Sơn (Pleiku), tiêu Di Linh và giống Lada
Belangtoeng, tác giả đã kết luận giống Lada Belangtoeng tỏ ra hợp khí hậu
vùng Bảo Lộc, sinh trưởng khỏe, ít bệnh tật, chùm tiêu dài, thơm cay, năm
giống còn lại ít thích hợp hơn.
Năm 1960 giống Lada Belangtoeng được đưa ra trồng ở Quảng Bình,
Vĩnh Linh và giống cũng tỏ ra thích nghi với khí hậu vùng này, có nhiều ưu
điểm về sinh trưởng, năng suất và chống đỡ bệnh tật hơn giống Quảng Trị (Lê
Minh Xuân, 1981; Lê Minh Xuân và Nguyễn Văn Phấn, 1983).
Theo Trần Văn Hoà (2001) các giống tiêu có triển vọng phát triển ở
nước ta gồm giống Sẻ địa phương vùng Đông Nam Bộ, các giống nhập từ
Campuchia qua đường Hà Tiên là Sréchéa, Kamchay, Kampot, Kep, giống
Lada Belangtoeng từ Indonesia và Panniyur-1 từ Ấn Độ.
Các công trình nghiên cứu về giống tiêu ở Việt Nam tập trung nhiều
trong khoảng thời gian 1925-1954, sau khi chính quyền thuộc địa thành lập
Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương (Institut de Recherches
Agronomiques et Forestières de l’Indochine), nay là Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp Miền Nam.
Giống hồ tiêu được nhập nội, chọn lọc và phát triển nhiều trong thập
niên 1940-1950 [2], [8], [10]. Kể từ thập niên 1960 công tác nghiên cứu về
giống tiêu không được tiến hành liên tục.
12
Khi nói đến triển vọng cây tiêu xuất khẩu ở Miền Nam Việt Nam,
Tappan (1972; trích dẫn bởi Nguyễn Phi Long, 1987) khuyến cáo nên du nhập
bốn giống có ưu thế, gồm Balancotta và Kalluvalli gốc Ấn Độ cho năng suất
cao và hạt lớn, Kuching gốc Malaysia cho năng suất cao, Lada Belangtoeng
gốc Indonesia sinh trưởng khỏe và chống chịu tốt bệnh thối rễ. Chỉ trừ giống

Lada Belangtoeng được nhập vào trồng khảo nghiệm ở nhiều vùng trong
nước, các giống khác chưa được quan tâm nhập nội khảo sát một cách chính
thức.
Các giống tiêu được trồng phổ biến trong sản xuất hiện nay chủ yếu do
nông dân tự chọn lọc từ nguồn giống địa phương hoặc du nhập từ địa phương
khác, giống thường mang tên địa phương có trồng nhiều hoặc địa phương
xuất xứ, do vậy có khi một giống tiêu được mang nhiều tên khác nhau, nhiều
giống/dòng tiêu khác nhau lại mang cùng một tên. Tựu trung, các giống được
trồng phổ biến có thể phân thành ba nhóm dựa trên các đặc tính hình thái, chủ
yếu là kích cỡ lá:
1) Tiêu lá nhỏ còn gọi là tiêu sẻ, gồm phần lớn các giống tiêu được trồng
phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có các giống: Vĩnh Linh (Quảng Trị),
Tiêu Sơn (Gia Lai), Di Linh (Lâm Đồng), Sẻ Đất đỏ (Bà Rịa-Vũng Tàu), Phú
Quốc (Kiên Giang), Nam Vang (nhập nội từ Campuchia, gồm ba giống
Kamchay, Kep và Kampot).
2) Tiêu lá trung bình gồm chủ yếu các giống tiêu nhập nội từ
Madagascar, Ấn Độ và Indonesia như: Lada Belangtoeng, Karimunda,
Panniyur và Kuching.
3) Tiêu lá lớn còn gọi là tiêu trâu như các giống Sẻ mỡ, Trâu Đất đỏ
(Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu).
Trong số các giống trên, giống Lada Belangtoeng được trồng phổ biến
nhất, đặc biệt là ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên (Phan Quốc Sủng, 2000).
Có thể một số giống tiêu có tên gọi khác nhau ở một số địa phương có nguồn
gốc từ giống Lada Belangtoeng.
Giai đoạn 2001-2005 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam
chủ trì đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và
thị trường để phát triển vùng hồ tiêu nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất
13
khẩu” mã số KC.06.11.NN thuộc Chương trình KC06. Kết quả điều tra trong
thực tế sản xuất cùng với kết quả bước đầu các thí nghiệm, khảo nghiệm và

mô hình trình diễn cho thấy 3 giống Vĩnh Linh, Lada Belangtoeng và Ấn Độ
có khả năng chống chịu bệnh tốt, cho thu hoạch sớm, có tiềm năng năng suất
cao, ổn định, phẩm chất hạt đáp ứng tốt cho yêu cầu chế biến tiêu đen và tiêu
sọ.
Kết quả nghiên cứu của đề tài KC.06.11.NN (Nguyễn Tăng Tôn và ctv.,
2005) cho thấy: Trồng tiêu trên trụ sống có nhiều ưu thế vượt trội hơn so với
các loại trụ khác như năng suất ổn định, tỉ lệ cây bị bệnh vàng lá có chiều
hướng thấp hơn. Chi phí đầu tư ban đầu thấp hơn so với các loại trụ khác, rút
ngắn thời gian hoàn vốn, đạt hiệu quả kinh tế cao cả suốt chu kì của cây tiêu.
Các loài cây trụ sống thích hợp để trồng tiêu gồm: keo dậu (Leucena
leucocephala), muồng cườm (Adenanthera povonina), muồng đen (Cassia
siamea), lồng mức (Wrightia annamensis). Trong thời gian kiến thiết cơ bản
không nên rong tỉa trụ sống nhiều làm hạn chế sinh trưởng trụ sống. Trong
thời kỳ kinh doanh cần rong tỉa mạnh để đảm bảo năng suất tiêu.
Lượng phân vô cơ bón cho mỗi héc-ta tiêu để đạt năng suất cao nhất và
hiệu quả kinh tế là từ 200-400N, 100-200 P
2
O
5
, 225-400 K
2
O kg/ha/năm. Tỉ lệ
N: P
2
O
5
: K
2
O là 2:1:1,5 đến 2:1:4.
Việc bón bổ sung phân hữu cơ hoặc phân bón lá đã cung cấp thêm một

lượng dinh dưỡng khoáng đa lượng, trung và vi lượng cho cây tiêu, do đó làm
tăng năng suất so với đối chứng không được bón bổ sung các loại phân này.
Phân gà và phân hữu cơ chế biến (Dynamic lifter) có tác dụng tốt trong phòng
trừ bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora capsici.
Tưới phun dưới tán kết hợp bón phân khoáng qua hệ thống tưới tăng khả
năng sinh trưởng, phát triển của cây tiêu, đồng thời làm tăng năng suất và chất
lượng hạt. Tưới phun dưới tán duy trì ẩm độ đất trong vườn ổn định, tăng hiệu
quả sử dụng phân bón thông qua hệ thống tưới giúp cây tiêu cho năng suất và
chất lượng cao hơn so với tưới bồn truyền thống, bón phân khoáng rải trực
tiếp trên đất.
Những chẩn đoán bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora capsici tạo cơ
sở cho sự phát triển chiến lược quản lý bệnh hại tiêu ở Việt Nam hiện nay.
14
Thuốc hoá học có gốc phosphonate, Alanine có hiệu quả cao trong
phòng trừ bệnh chết nhanh trên cây tiêu do nấm Phytophthora capsici.
Triệu chứng bệnh nghi do virus gây ra trên tiêu có thể phân chia thành
sáu nhóm triệu chứng khác nhau. Triệu chứng Đốm hoa lá xuất hiện phổ biến
trên cây tiêu, các triệu chứng khác xuất hiện ở các vùng điều tra với mức độ
nặng, nhẹ khác nhau.
Tỉ lệ cây tiêu nhiễm TMV trung bình là 40%, virus này còn hiện diện
trong lá không bệnh được lấy trên cây nhiễm một trong năm triệu chứng bệnh.
Các giống hiện đang được trồng đã bị nhiễm bệnh virus với ít nhất ba triệu
chứng khác nhau trên cây ngoài thực tế.
Hom giống là đường lan truyền bệnh virus chính hiện nay, giải thích cho
80% trường hợp hom giống nhiễm bệnh trong thực tế.
Virus đang hiện diện trên cây tiêu hiện nay đã làm giảm ít nhất 50%
năng suất hạt tiêu thực thu trên cây.
Thuốc hoá học Fenbis 25EC và Oncol 25EC có hiệu quả cao trong
phòng trừ rệp sáp hại tiêu.
Thuốc hoá học Supracide 40EC, Actara 25WG và Oncol 20EC có hiệu

quả cao trong phòng trừ bọ xít lưới gây hại trên cây tiêu.
2.4. Tổng quan về tình hình sản xuất và thị trường Hồ tiêu thế giới và
trong nước.
2.4.1. Tình hình thế giới.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC): Sản lượng tiêu thế giới năm 2008
đạt 307.000 tấn, năm 2009 là 318.000 tấn và 2010 là 316.000 tấn. Tồn kho
cuối năm 2008 sang năm 2009 là 135.000 tấn, năm 2009 sang 2010 là
100.000 tấn, năm 2010 sang năm 2011 là 95.000 tấn [1]. Như vậy nguồn cung
xu hướng giảm, trong khi đó nhu cầu sử dụng hàng năm vẫn có xu hướng gia
tăng, đặc biệt là nhu cầu thị trường Mỹ và Tây Âu. Tình hình trên đã tạo
thuận lợi cho các nước sản xuất và xuất khẩu, nhất là Việt Nam, quốc gia có
nhiều tiềm năng, lợi thế canh tranh và là nước sản xuất, xuất khẩu tiêu số một
thế giới.
2.4.2. Tình hình trong nước.
15
Ở nước ta, vai trò của nền kinh tế nông hộ đang từng bước khẳng định vị
trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp. Từ chỉ thị 100 về khoản sản
phẩm năm 1981 đã mở đầu cho quyền làm chủ của nông dân, đến nghị quyết
10 của bộ chính trị và Nghị quyết VI của trung ương Đảng khóa VI thực hiện
giao đất giao rừng cho người dân quản lý, coi nông hộ là một đơn vị tự chủ thì
nền kinh tế nông hộ có sự chuyển biến lớn, từ chỗ mang tính chất kinh tế phụ
gia đình đã chuyển thành chủ thể trong kinh tế hợp tác xã.
Hiện nay Việt Nam đang vững bước trên tiến trình đổi mới kinh tế
nhưng tỷ trọng trong nông nghiệp còn quá cao. Mặt khác cơ cấu kinh tế nông
thôn chưa hợp lý, sử dụng các nguồn lực và giải phóng các nguồn lực đó để
phát triển nông thôn còn gặp nhiều khó khăn như: thiếu vốn, thiếu sức kéo,
thiếu vật tư kỹ thuật, bỡ ngõ trước hình thức quản lý mới Do vậy tùy thuộc
vào khả năng sẵn có từng người nông dân mà họ có những mức đầu tư, sử
dụng các biện pháp kỹ thuật có khác nhau. Ngoài ra tùy thuộc vào điều kiện
tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng mà có hình thức sản xuất cây trồng vật

nuôi khác nhau. Việc dựa trên cơ sở tìm hiểu được hiện trạng sản xuất của
từng vùng để tận dụng tối đa yếu tố thuận lợi, tìm kiếm ra những nguyên nhân
dẫn đến những hậu quả, làm hạn chế sự phát triển hay suy thoái của một số
loại cây trồng vật nuôi để từ đó khắc phục yếu tố khó khăn đưa ra một quy
trình kỹ thuật áp dụng cho từng vùng, từng địa phương trên từng loại đối
tượng cây trồng, vật nuôi đã tạo ra những lợi ích to lớn. Kết hợp với quá trình
tìm hiểu thị trường: giá trị nông sản phẩm, thị hiếu của người tiêu dùng, tình
hình tiêu thụ trong và ngoài nước để tránh đầu tư không có hiệu quả, tránh
hiện tượng pha bỏ cây trồng khi chưa hết thời kỳ kinh doanh. Theo số liệu của
Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam, đến năm 2007 thì riêng mặt hàng hồ tiêu,
từ năm 2001 đến nay Việt Nam luôn luôn chiếm ngôi vị số 1 thế giới về số
lượng xuất khẩu với mức bình quân 70.600 tấn năm, chiếm 31,2% thị phần
thế giới.
16
Bảng 1: Diện tích, sản lượng sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu Việt Nam
Năm Diện
tích
(ha)
Sản
lượng
(tấn)
%
sản
lượng
toàn
cầu
Sản lượng
xuất khẩu
(tấn)
Tỷ lệ

%
toàn
cầu
Tổng kim ngạch
xuất khẩu (triệu
đô)
2008 49.959 98.326 31 89.705 40 311,5
2009 50.50
0
107.98
6
35 134.261 50 348,1
2010 50.00
0
110.00
0
35 116.861 52 421
(Nguồn: báo cáo tổng kết nhiệm kỳ III (2008-2010) của hiệp hội hồ tiêu Việt
Nam)[1]
Qua bảng 1 ta thấy tình hình sản xuất hồ tiêu của nước ta tăng vào năm
2009 nhưng đến năm 2010 lại giảm 500 ha, sản lượng lại liên tục tăng, chiếm
tỷ lệ cao trên toàn cầu đến 35%, sản lượng xuất khẩu cũng tăng vào năm
2009, giảm 17.400 tấn vào năm 2010, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trên toàn cầu
52% và tổng kim ngạch xuất khẩu cũng liên tục tăng.
Còn năng suất thu hoạch bình quân 24,46 tạ/ha. Nhiều vườn tiêu già cỗi
sau nhiều năm khai thác và tiêu bị nhiễm bệnh chết làm giảm diện tích, tuy
nhiên do giá tiêu tăng liên tục mấy năm qua nhiều diện tích trồng mới nên
diện tích canh tác vẫn ổn định ở mức 50.000 ha. Do điều kiện tự nhiên, trình
độ tập quán canh tác và khả năng đầu tư khác nhau, dẫn đến năng suất, sản
lượng khác nhau và khá chênh lệch giữa các vùng trồng tiêu ở nước ta.

Điều đáng mừng là đến nay các vùng trồng tiêu, đã xuất hiện nhiều nông
dân sản xuất giỏi, tạo được vườn tiêu phát triển bền vững, ít sâu bệnh, cho
năng suất cao 5 - 6 tấn/ha và rất cao 7 - 10 tấn /ha, cá biệt trên 10 tấn/ha. Họ
đã trở thành những tấm gương điển hình, được nhiều bà con từ các nơi đến
học hỏi áp dụng kinh nghiệm.
Và canh tác tiêu theo hướng hữu cơ, ít dùng phân, thuốc hóa học, sử
dụng trụ sống, đào rãnh thoát nước, tưới phun, bón phân qua đường ống v.v…
đã tạo được vườn tiêu sạch bệnh, phát triển bền vững đang xu hướng phát
17
triển trên diện rộng. Nhiều chi hội nông dân đã thành lập câu lạc bộ những
người trồng tiêu và câu lạc này hoạt động rất hiệu quả.
Hồ tiêu Việt Nam đã có mặt trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Việt Nam tiếp tục giữ vững kỷ lục là quốc gia sản xuất và xuất khẩu tiêu
số một thế giới. Cộng đồng Hồ tiêu thế giới đã nhìn Việt Nam với con mắt tôn
trọng, lắng nghe và cùng chia sẻ. Vị thế quốc gia Hồ tiêu Việt Nam đã được
khẳng định trên trường quốc tế.
Theo tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam và huyện Tiên
Phước trong thời gian tới phải phục hồi lại cây tiêu và tiến tới đăng ký thương
hiệu Tiêu Tiên Phước. Song hiện nay chính quyền và nông dân sở tại đang đối
mặt việc suy giảm diện tích tiêu một cách chóng mặt mà chưa tìm chính xác
được nguyên nhân dẫn đến nguy cơ sẽ mất đi giống tiêu quý hiếm tại Tiên
Phước nếu không được bảo tồn và phục hồi trở lại. Vì vậy, cần phải tìm ra
giải pháp tối ưu để phòng trị sâu bệnh, phục hồi lại cây Tiêu Tiên Phước vốn
đã nổi tiếng từ rất lâu đời. Với tinh thần đó hướng chỉ đạo chiến lược của
Quảng Nam là bên cạnh việc đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần tiến hành quy hoạch nông nghiệp,
nông thôn với mục tiêu khai thác tối đa các lợi thế, tạo ra sản phẩm có thị
trường tiêu thụ để có giá trị sản lượng và thu nhập cao trên một đơn vị diện
tích. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 giá trị sản lượng trung bình đạt 30-50
triệu đồng/ha/năm. Do đó, việc tập trung đầu tư để nâng cao năng suất và chất

lượng các loại nông sản có tiềm năng xuất khẩu và phục vụ nội tiêu, ổn định
cuộc sống của người nông dân là một mục tiêu được đặt ra, trong đó có cây
hồ tiêu.[9]
Đối tượng xây dựng mô hình là cây tiêu: Tiêu Tiên Phước - Quảng Nam
là sản phẩm nổi tiếng từ lâu bởi chất lượng và giá trị được đánh giá rất cao;
hạt tiêu Tiên Phước có hương vị thơm cay rất đặc trưng. Ngoài ra, cây tiêu
Tiên Phước còn là cây trồng truyền thống lâu đời qua nhiều thế hệ; nguời dân
Tiên Phước gắn liền với cây tiêu và cây tiêu đã giải quyết thêm thu nhập cho
người dân; nhiều gia đình giàu lên nhờ vào thu nhập từ cây tiêu. Hiện nay
diện tích cây tiêu phát triển ở tỉnh Quảng Nam lên đến 200 ha, với năng suất
trước đây 03kg/ choái, hiện nay chỉ còn 01kg/ choái (do chế độ đầu tư ngày
18
càng thấp, giống bị thoái hóa); cây tiêu là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta nhưng do tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu, nên việc xuất khẩu tiêu
gặp khó khăn nhưng việc phục hồi, phát triển, lưu giữ nguồn giống quí hiếm
này không thể xem nhẹ và cần được đầu tư phát triển.[9]
19
Phần 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu
- Đặc điểm tự nhiên: Vị trí địa lí, địa hình, đặc điểm thời tiết, khí hậu, điều
kiện thổ nhưỡng, các yếu tố tài nguyên…
- Điều kiện kinh tế - xã hội của vùng nghiên cứu: đặc điểm về dân cư và lao
động, tình hình sử dụng đất đai, cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu thu nhập,
đời sống văn hóa…
3.1.2. Thực trạng trồng tiêu tại Tiên Mỹ và huyện Tiên Phước
- Diện tích trồng, quy mô, số luợng.
- Đầu tư, chi phí, năng suất trồng tiêu.
- Giá cả và thị trường của hạt tiêu.
3.1.3. Nguyên nhân của việc suy giảm diện tích tiêu tại xã Tiên Mỹ và tại

nông hộ
- Thị trường, giá tiêu.
- Các hệ thống sản xuất cây trồng khác cạnh tranh trên đất tiêu.
- Công tác khuyến nông (đào tạo, tập huấn, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật…).
- Trình độ kiến thức kĩ thuật, kinh nghiệm trồng tiêu của người dân.
- Điều kiện tự nhiên (hạn hán, lụt bão, địa hình, đất đai, ).
- Tình hình sâu bệnh ( nấm, tuyến trùng, ).
- Lực lượng lao động của địa phương cho hoạt động trồng tiêu.
3.1.4. Các biện pháp khôi phục và phát triển tiêu tại xã Tiên Mỹ
- Các biện pháp của chính quyền, khuyến nông.
- Các biện pháp của nhà nghiên cứu.
- Các biện pháp của người nông dân.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu.
Trong tổng số các xã của Tiên Phước xã được chọn là xã có diện tích
trồng tiêu lớn. Xã Tiên Mỹ phù hợp với địa điểm nghiên cứu, là xã đại diện.
3.2.2. Mẫu nghiên cứu
Chọn 3 thôn nằm phân bố đều trong toàn xã, có diện tích trồng tiêu lớn
và đang thực hiện dự án của sở khoa học công nghệ tỉnh Quảng Nam và dự án
20
của phòng nông nghiệp huyện Tiên Phước trong tổng số 9 thôn của xã Tiên
Mỹ. Chọn 36 hộ để phỏng vấn theo phương pháp chọn mẫu có mục đích sau
khi phân tầng các nhóm hộ (khá, trung bình, cận nghèo, nghèo) chọn những
hộ đang có diện tích trồng tiêu lớn, có kinh nghiệm trồng tiêu và một số đã
trồng tiêu nhưng không trồng nữa.
3.2.3. Tiến trình và phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập thông tin dữ liệu cấp cộng đồng
- Cấp huyện, xã, thôn: báo cáo của trạm khuyến nông và phòng nông nghiệp
và PTNT huyện Tiên Phước về thực trạng trồng tiêu của huyện trong những
năm qua. Các nghiên cứu và báo cáo có liên quan. Thu thập các báo cáo kinh

tế xã hội, dân số lao động, điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết của vùng, các
thống kê về diện tích, tình hình sản xuất cây tiêu của vùng, của thôn.
* Thu thập thông tin dữ liệu cấp hộ
- Phỏng vấn sâu: chủ tịch hội nông dân, cán bộ khuyến nông xã, 3 người nông
dân có kinh nghiệm trồng tiêu.
- Phỏng vấn cá nhân bằng bảng hỏi: phân tầng hộ khá, trung bình, cận nghèo,
nghèo và những hộ trồng tiêu của 3 thôn (trong đó có 1 thôn là thuộc dự án
của trung tâm khuyến nông tỉnh Quảng Nam, và 2 thôn là dự án của phòng
nông nghiệp huyện Tiên Phước đang triển khai tại xã Tiên Mỹ) tiến hành
phỏng vấn theo bảng hỏi đã thiết kế.
3.2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Các thông tin thu thập từ bảng hỏi sẽ được xử lí trên phần mềm excel
- Phân tích thông tin định tính các báo cáo, tài liệu liên quan, các thông tin ghi
chép
- Phân tích thông tin định lượng về số hộ, diện tích trồng tiêu…
21
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện Tiên Phước.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tiên Phước là một trong 8 huyện miền trung du của tỉnh Quảng Nam.
Tiên Phước nằm ở phía Tây của tỉnh, Bắc giáp huyện Thăng Bình, Nam giáp
huyện Bắc Trà My, Đông giáp huyện Phú Ninh, Tây giáp huyện Hiệp Đức.
Toạ độ địa lý được giới hạn bởi vĩ tuyến 15
0
20

đến 15
0
36


vĩ độ Bắc và kinh
tuyến từ 108
0
4

46

đến 108
0
27

56

kinh đông.
Tiên Phước có 14 xã miền núi và 1 thị trấn, trung tâm huyện lỵ đặt tại thị
trấn Tiên Kỳ, nằm trên tỉnh lộ ĐT 616, là cầu nối giữa thành phố Tam Kỳ và
huyện Bắc Trà My. Vì vậy, thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá và
hỗ trợ nhau giữa các huyện đồng bằng và miền núi của tỉnh Quảng Nam trong
công cuộc xây dựng và phát triển cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng. Do
sự chi phối của địa hình, nên khí hậu của Tiên Phước mang đặc trưng của
vùng khí hậu nhiệt đới - gió mùa, lại có đặc điểm chuyển tiếp giữa miền núi
và đồng bằng nên mùa mưa thường đến sớm hơn vùng đồng bằng, các tháng
7, 8, 9 thường có những trận mưa giông, mưa núi. Ngược lại, kết thúc khí hậu
ẩm lạnh chậm hơn so với vùng đồng bằng, vào tháng 1, 2 năm sau. Nhiệt độ
22
Điểm
nghiên
cứu
bình quân năm 25
0

C, cao nhất 40
0
C, thấp nhất 18
0
C. Tháng có nhiệt độ cao
nhất vào tháng 5, tháng 6. Lượng mưa trung bình năm 2.200 - 2.600 mm, số
ngày mưa trong năm 120-140 ngày. Lượng bốc hơi trung bình năm 800
-1.000 mm, tháng bốc hơi cao nhất tháng 6 đến tháng 8, tháng bốc hơi ít nhất
tháng 12. Độ ẩm bình quân năm 84,4%, độ ẩm thấp nhất 61,6%. Gió mùa
thịnh hành về mùa Đông theo hướng Tây Bắc - Bắc. Gió thịnh hành về mùa
Hạ theo hướng Tây Nam - Nam. Sương mù thường xuất hiện từ tháng 10 đến
tháng 12 hàng năm.
Tiên Phước có 2 con sông chính là sông Tranh và sông Tiên. Ngoài ra
còn có một số sông, suối nhỏ như: sông Yên, sông Tam, sông Ta Nao, sông
Ta Cao, sông Hương Quế Sông Tranh dài 23 km chảy qua xã Tiên Lãnh,
nguồn nước của sông này được sử dụng xây dựng các công trình thuỷ điện
quy mô lớn. Sông Tiên dài 43 km chảy qua các xã Tiên An, Tiên Lộc, Tiên
Cảnh, Tiên Kỳ, Tiên Châu, Tiên Cẩm, có vai trò rất quan trọng là nguồn cung
cấp nước tưới cho cây trồng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Bảng 2: Tình hình sử dụng đất của huyện Tiên Phước
Năm
Chỉ tiêu
2008 2009
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Diện tích
(ha)
Cơ cấu

(%)
1.Tổng diện tích đất tự nhiên 45.440,64 100 45.440,64 100
2.Đất nông nghiệp
- Đất sx nông nghiệp
+Đất trồng cây hằng năm
+Đất trồng lúa
+Đất trồng cây hằng năm khác
+ Đất trồng cây lâu năm
- Đất lâm nghiệp
+Đất rừng sản xuất
+Đất rừng phòng hộ
- Đất nuôi trồng thủy sản
32.249
7.415,11
4.470
2.859
1.504,54
2.944,7
24.815,7
18.546,52
6.269,18
13,08
70,97
22,99
60,28
38,56
20,29
39,71
76,95
74,74

25,26
0,4
32.249,21
7.415,11
4.470,43
2.895,05
1.504,54
2.944,68
24.815,70
18.546,52
6.269,18
13,08
70,97
22,99
13,86
8,87
4,67
9,13
76,95
74,74
25,26
0,4
23
3.Đất phi nông nghiệp 4.874,33 10,73 4.874,37 10,73
4. Đất chưa sử dụng 8.317,08 18,3 8.297,3 18,25
( Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tiên Phước 2008, 2009)
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, từ năm 2008 – 2009 diện tích tất cả
các loại đất hầu như không tăng. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ
lệ cao nhất 70,97%, đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất 76,95% trong đất sản
xuất nông nghiệp. Đất trồng cây lâu năm chiếm tỷ lệ nhỏ 9,13%, trong đó có

tiêu, tiêu không phải là cây trồng chính của huyện chiếm diện tích rất ít nhưng
lại có giá trị kinh tế cao.
Đất phi nông nghiệp có xu hướng tăng, trong khi đất chưa sử dụng giảm.
Sở dĩ như vậy là do, dân số của huyện ngày càng gia tăng và việc trích quỹ
đất sản xuất nông nghiệp để phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống kênh mương,
hồ đập tăng.
4.1.2. Dân sinh kinh tế
Bảng 3 : Tình hình dân số, lao động huyện Tiên Phước (2007 – 2009)
Chỉ tiêu ĐV tính 2007 2008 2009
1.Tổng số hộ Hộ 16.308 16.759 17.159
2.Tổng dân số Người 75.723 75.122 68.914
2.1.Nam Người 36.903 37.079 33.917
2.2.Nữ Người 38.820 38.043 34.997
3.Tỷ lệ gia tăng dân số % 1.023 0.629 0,806
4.Dân số trong độ tuổi lao động Người 37.020 37.071 35.596
4.1.Theo giới tính
Nam Người 18.096 18.373 17.407
Nữ Người 18.924 18.373 18.189
4.2.Theo thành phầnkinh tế
Lao động nông nghiệp Người 29.703 29.656 26.362
Lao động phi nông nghiệp Người 7.317 7.415 9.234
5.Bình quân nhân khẩu/hộ Khẩu 4,64 4,48 4,02
6.Bình quân lao động/hộ Lao động 2,27 2,21 2,07
(Nguồn: niên giám thống kê huyện Tiên Phước)
24
Qua bảng số liệu trên ta thấy, từ năm 2007 đến 2009, tổng số hộ của toàn
huyện tăng nhưng dân số của huyện lại giảm. Năm 2007, tổng số hộ của
huyện là 16.308 hộ với tổng số dân 75.723 người, năm 2009 tổng số hộ của
huyện lên đến 17.159 hộ với tổng số dân 68.914 người phân bố trên địa bàn
14 xã và 1 thị trấn, trong đó có 40 hộ với 165 nhân khẩu là đồng bào dân tộc

thiểu số (KOR) sống ở 2 xã Tiên An, Tiên Lập. Tuy nhiên, tỷ lệ gia tăng dân
số hàng năm của huyện khá thấp và giảm dần, 1,023% năm 2007 xuống 0,806
% năm 2009 là một huyện nghèo của tỉnh.
Tổng số lao động toàn huyện năm 2009 là 35.596 người lao động trong
độ tuổi, có khả năng lao động 22.719 người chiếm gần 35% dân số; cơ cấu lao
động tập trung chủ yếu vào sản xuất Nông nghiệp chiếm 85%, tiểu thủ công
nghiệp 8,5%, dịch vụ 4,7% và các ngành quản lý 1,8%. Số hộ lao động phi
nông nghiệp có xu hướng tăng dần từ 2007-2009, nguyên nhân là do một số
hoạt động nông nghiệp đã chuyển sang phát triển các ngành nghề khác, công
nghiệp và dịch vụ cũng càng ngày càng tăng lên. Điều này cũng phù hợp với
xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Bình quân số nhân khẩu/hộ cũng như số lao động/hộ cũng có xu hướng
giảm dần. Trong tổng dân số toàn huyện từ 2007-2009 nữ giới chiếm nhiều
hơn nam giới, số lao động nữ cũng cao hơn lao động nam. Đây là một điều
bất lợi trong sản xuất nông nghiệp cần sức khỏe của nam giới.
Cơ cấu kinh tế của huyện chủ yếu là nông lâm nghiệp chiếm 43,82%,
tiểu thủ công nghiệp 28,68%, thương mại dịch vụ 27,5%. Thu nhập bình quân
đầu người còn thấp đạt khoảng 6,7 triệu đồng/người/năm (Đến cuối năm
2009).
4.1.3. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa bàn huyện
Với các yếu tố tự nhiên, điều kiện địa lý, đặc điểm địa hình có ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo cho Tiên
Phước những tiềm năng, lợi thế riêng để phát triển, đặc biệt là tài nguyên đất
đai dồi dào và phong phú phù hợp với nhiều loại cây trồng. Cộng với khí hậu
ôn hoà quanh năm thuận lợi cho phát triển các loại cây, con nhiệt đới, với các
sản phẩm đặc sản nổi tiếng như: tiêu, chè, quế, lòn bon, thanh trà Với diện
tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp rất lớn, nhân dân bao đời nay chủ yếu sống
25

×