Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

tác động của lũ lụt và sự thích ứng trong nuôi trồng thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 51 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm,
tôi đã hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình và tiếp thu được một lượng kiến
thức nhất định. Để có được kết quả đó, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản
thân, tôi đã nhận được sự động viên của gia đình, sự hướng dẫn, giảng dạy
của thầy cô giáo trong nhà trường và sự giúp đỡ chia sẻ của bạn bè. Nhất là
trong kỳ thực tập và làm khoá luận cuối khoá, sự động viên, hướng dẫn, giúp
đỡ đó đối với tôi thực sự quý báu.
Để có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình, tôi xin trân trọng
cảm ơn thầy giáo ThS. Nguyễn Ngọc Truyền, người đã trực tiếp hướng dẫn và
luôn tạo điều kiện để cho tôi hoàn thành được khoá luận của mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong Trạm Khuyến
nông huyện Quảng Trạch- Tỉnh Quảng Bình, UBND xã Quảng Phong và các hộ
dân ở xã đã luôn tạo điều kiện để cho tôi có thể học hỏi, nắm được các kiến thức
thực tế phục vụ cho bài viết của mình được hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân và thời gian thực tập còn hạn chế
nên nội dung đề tài không tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, kính
mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý, chỉ dẫn thêm của các thầy cô giáo và các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Quảng Trạch, 19 tháng 5 năm 2011
Sinh viên : Nguyễn Thị Xuân
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
3.4.2. Thu thập thông tin 13
3.4.2.1. Thông tin thứ cấp 13
3.5. Phương pháp xử lý thông tin 14
4.6.1 Giải pháp từ các cấp chính quyền 40
4.6.2 Giải pháp từ người dân 42
DANH MỤC BẢNG
LỜI CẢM ƠN 1
3.4.2. Thu thập thông tin 13


3.4.2.1. Thông tin thứ cấp 13
3.5. Phương pháp xử lý thông tin 14
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất, mặt nước xã Quảng Phong 18
Bảng 2: Tình hình kinh tế xã hội 19
Bảng 3: Cơ cấu thu nhập của xã Quảng Phong 20
Bảng 4: Diện tích và sản lượng tôm nuôi Xã Quảng Phong giai đoạn 2006-2010 22
Bảng 5: Đặc điểm hộ khảo sát 22
Bảng 6: Thiệt hại của lũ lụt qua các năm 24
Bảng 7:Thống kê tình hình sản xuất tại xã Quảng Phong 27
Bảng 8: Thiệt hại của lũ lụt trong nuôi trồng thuỷ sản 30
Bảng 9 : Nguồn giống các loài nuôi 36
Bảng 10: Mật độ thả nuôi các loài 37
Bảng 11: Lịch thời vụ nuôi đơn và nuôi xen ghép 39
4.6.1 Giải pháp từ các cấp chính quyền 40
4.6.2 Giải pháp từ người dân 42
Bảng 12: Giải pháp đối với hiện tượng lũ lụt 42
Bảng 13: Giải pháp thích ứng lâu dài với biến đổi khí hậu 43
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NTTS: Nuôi trồng thuỷ sản.
HTX : Hợp tác xã
BĐKH : Biến đổi khí hậu
TNMT : Tài nguyên môi trường
UBND: Uỷ ban nhân dân
CHDCNN :Cộng hòa dân chủ nhân dân
ĐBSCL : Đồng bằng sông cửu long
NN: Nông nghiệp
ĐVT: Đơn vị tính
DA: Dự án
PRA: Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là vấn đề được toàn nhân loại
quan tâm. Hậu quả của biến đổi khí hậu đe dọa đến cuộc sống của tất cả mọi
người, ở mọi quốc gia không phân biệt nước giàu hay nước nghèo. Cùng
với sự nóng lên của toàn cầu, diễn biến thời tiết diễn ra ngày một hết sức phức
tạp. Hệ quả là ngày càng có nhiều thiên tai xảy ra không chỉ về số lượng mà
còn cả về cường độ như hạn hán, lũ lụt …đang xảy ra rất bất thường. Việt
Nam hiện được xem là 1 trong 5 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH.
Với việc có bờ biển chạy dài theo lãnh thổ, mạng lưới sông ngòi dày đặc Việt
Nam thường xuyên phải hứng chịu những cơn lũ vào mùa mưa. Cuộc sống
của người dân bị ảnh hưởng nghiệm trọng trong mùa mưa bão gây nhiều khó
khăn cho việc triển khai nhiều biện pháp cải thiện đời sống cho người dân của
nhà nước .
Nuôi trồng thuỷ sản là một hoạt động sản xuất có ý nghĩa quan trọng,
góp phần trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống và sự phát triển của đất
nước, đồng thời phục vụ cho sự phát triển các ngành công nghiệp chế biến,
xuất khẩu, dịch vụ Tuy nhiên việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản còn gặp
nhiều khó khăn do tác động của lũ lụt. Nó đã và đang gây nên những hậu quả
nặng nề không những về kinh tế - xã hội mà cả về môi trường, sinh thái cho
người dân sống ven sông. Nhất là các hộ chuyên nuôi trồng và khai thác thủy
sản, là một bộ phận cư dân sống dựa vào khai thác các nguồn lợi tự nhiên
mang tính truyền thống từ trước đến nay trên vùng đầm phá. Ngoài ra, do điều
kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên khả năng thích ứng và ứng phó của
các hộ dân này với lũ lụt vẫn còn gặp nhiều khó khăn .
Trước tình hình đó, tôi tiến hành đề tài:“Tác động của lũ lụt và sự thích
ứng trong nuôi trồng thủy sản”. Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại xã
Quảng Phong –Huyện Quảng Trạch – Tỉnh Quảng Bình nhằm tìm hiểu tác
động của lũ lụt đến sản xuất và đời sống của người dân, đặc biệt đối với hoạt
động nuôi trông thủy sản sản của người dân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc
nâng cao khả năng nuôi trồng thủy sản.

1
1.2. Mục Tiêu
• Tìm hiểu tác động của lũ lụt đến hoạt động sản xuất và đời sống của người
dân.
• Phân tích tác động của lũ lụt đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản ở địa
bàn nghiên cứu
• Tìm hiểu những giải pháp nhằm thích ứng với lũ lụt của nông hộ và cộng
đồng trong nuôi trồng thủy sản.
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm
 Định nghĩa về BĐKH (Biến đổi khí hậu là gì ?)
Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình
và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường
là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác
động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần
của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất.
Biến đổi khí hậu gần đây được kết luận là do hành vi của con người và
quá trình tự nhiên gây nên. Biến đổi khí hậu là: những thay đổi theo thời
gian của các hình thái thời tiết trên toàn thế giới nhiệt độ trung bình tăng
hay còn gọi là “sự nóng dần lên của trái đất ” tăng nồng độ khí nhà kính
hay “khí các-bon” thải ra từ các hoạt động của con người và đọng lại trong
khí quyển (Cường, 2008).
Biến đổi khí hậu là hiện tượng nóng lên toàn cầu. Sự nóng dần lên của Trái
đất khiến thời tiết thay đổi: gia tăng nhiệt độ, gia tăng lượng mưa, gió và bão.
Biến đổi khí hậu rất dễ nhận biết thông qua các hiện tượng tăng nhiệt độ của
Trái đất và đại dương, băng và tuyết tan, mực nước biển tăng.
 Lũ lụt là gì?

Lũ là hiện tượng nước sông dâng cao trong một khoảng thời gian nhất
định, sau đó giảm dần.
Lũ là hiện tượng dòng nước do mưa lớn tích lũy từ nơi cao tràn về dữ
dội làm ngập lụt một khu vực hoặc một vùng trũng, thấp hơn. Nếu mưa lớn,
nước mưa lại bị tích lũy bởi các chướng ngại vật như đất đá, cây cối cho
đến khi lượng nước vượt quá sức chịu đựng của vật chắn, phá vỡ vật chắn,
ào xuống rất nhanh, cuốn theo đất đá, cây cối và quét đi mọi vật có thể quét
theo dòng chảy thì được gọi là lũ quét (hay lũ ống), thường diễn ra rất
nhanh, khoảng 3 – 6 h. [1]
3
Lụt là hiện tượng nước ngập quá mức bình thường, ảnh hưởng đến đời
sống và sản xuất. Lụt xảy ra khi nước lũ dâng cao tràn qua sông, suối, ao, hồ,
đê đập vào các vùng trũng, làm ngập nhà cửa, cây cối, ruộng đồng.[3]
- Cảnh báo lũ là thông tin về tình hình lũ nguy hiểm có khả năng xảy ra.
- Dự báo lũ là sự tính toán và phân tích trước các trạng thái tương lai về
tình hình lũ tại một địa điểm (hay khu vực) sau một khoảng thời gian xác định
với độ chính xác nhất định.
- Đỉnh lũ là mực nước cao nhất quan trắc được trong một trận lũ tại một
tuyến đo.
- Biên độ lũ là trị số chênh lệch mực nước giữa mực nước đỉnh lũ và
mực nước ngay trước lúc lũ lên.
- Cường suất lũ là trị số biến đổi mực nước lũ trong một đơn vị thời gian.
Lũ quét được hình thành bởi một lượng mưa có cường độ lớn ,kéo theo
trên một khu vực nào đó. Lượng mưa hình thành dòng chảy trên mặt đất và
các dòng chảy được tập trung cùng nhau sinh ra một dòng chảy với lưu lượng
và vận tốc rất lớn, chúng có thể cuốn tất cả những gì có thể trên đường đi qua,
đó chính là mối nguy hiểm tiềm tàng của lũ quét.
Có rất nhiều nhân tố tác động và trực tiếp hình thành lũ quét: Điều
kiện khí tượng, thủy văn (cường độ mưa, lưu lượng mưa, thời gian mưa và
mực nước trên các sông, suối …) và điều kiện về địa hình (phân bố địa hình,

đặc điểm thổ nhưỡng, độ dốc lưu vực, độ dốc lòng sông , suối…)
 Mối quan hệ giữa BĐKH với lũ lụt
BĐKH đang là vấn đề quan tâm của các nước trên thế giới. Đã có nhiều
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này trong đó theo kết quả nghiên cứu của
Nguyên Đạt –Lê Văn Linh, 2009 đã đưa ra những nhận định về biến đổi khí
hậu như sau:
Thứ nhất, Nhiệt độ không khí trung bình năm của Thừa Thiên -Huế trong
những thập kỷ qua không có dấu hiệu tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên trong những thế
kỷ gần đây thường xuyên xảy ra nhiều đợt nắng nóng hay rét đậm.
Thứ hai, Lượng mưa trên toàn lãnh thổ Thừa Thiên -Huế có những thay
đổi. Cường độ mưa sẽ tăng khoảng 5-10 %. Những dị thường dẫn đến lũ lụt,
hạn hán, xâm nhập mặn sẽ nhiều hơn.
4
Thứ ba, ảnh hưởng của bão tăng ít, mùa bão có thể đến sớm hơn và kết
thúc muộn hơn. Cường độ bão có thể mạnh thêm, thể hiện qua tốc độ gió
mạnh và cường độ mưa lớn.
Thứ 4, Dòng chảy lũ có xu hương tăng do cường độ mưa tăng
Thứ 5, mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao thêm khoảng 30-90 cm đến
cuối thế kỷ này so với hiện nay
Như vậy với tác động của nhiều yếu tố khác nhau như ô nhiễm môi
trường, chặt phá rừng bừa bãi, rác thải công nghiệp sẽ tạo nên các hiện
tượng hiệu ứng nhà kính, mưa acid, thủng tầng ôzôn, cháy rừng, lũ lụt và hạn
hán những nhân tố này tạo nên một tên gọi chung là biến đổi khí hậu. Như
vậy lũ lụt là tập hợp con của biến đổi khí hậu .
 Sự thích ứng là gì ?
Khí hậu đã đang biến đổi và có những tác động tiềm năng, bất lợi đến
phát triển, vì thế sự thích ứng trở nên ngày càng quan trọng. Thích ứng là một
khái niệm rất rộng và khi áp dụng vào lĩnh vực BĐKH nó được dùng trong
nhiều trường hợp.
Đối với IPCC (1996) cho rằng: Khả năng thích ứng đề cập đến mức độ

điều chỉnh có thể trong hành động, xử lý, cấu trúc của hệ thống.
Đối với những biến đổi của dự kiến có thể xảy ra hay thực sự đã và
đang xảy ra của khí hậu. Sự thích ứng đó có thể tự phát hay được chuẩn bị
trước [5]. Như vậy vấn đề thích ứng được nói đến là mức độ điều chỉnh với
biến đổi cả về tính tự phát hay chuẩn bị trước.
Nghiên cứu của Burton(1998) lại cho rằng: Thích ứng với khí hậu là
một quá trình qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu
đến sức khoẻ, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí
hậu mang lại.[11] . Ở đây thích ứng là làm thế nào giảm nhẹ tác động biến đổi
khí hậu,tận dụng những thuận lợi nếu có thể.
Với Thomas (2007), lại cho rằng: Thích ứng có nghĩa là sự điều
chỉnh, hoặc thụ động, hoặc phản ứng tích cực, hoặc có phòng bị trước,
được đưa ra với ý nghĩa là giảm thiểu và cải thiện những hậu quả có hại
của BĐKH [7] . Trong nghiên cứu này, thích ứng là các điều chỉnh trong
cộng đồng và cá nhân, hoặc những điều chỉnh dựa trên cộng đồng để đáp
5
ứng những thay đổi của khí hậu theo thời gian. Đó là kinh nghiệm thực tiễn
đã và đang được người dân áp dụng trong điều kiện hiện tại, chính tại cộng
đồng đó.
Thích ứng là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với
hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn
thương do dao động và biến đổi khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng hoặc tận
dụng các cơ hội do nó mang lại. [2]
2.1.2. Tình hình lũ lụt tại Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng đáng kể
bởi biến động và những thay đổi của khí hậu. Theo kịch bản BĐKH chính
thức được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt vào tháng 6 năm 2006 (Bộ
Tài nguyên và Môi trường, 2009), khí hậu của các vùng trên cả nước sẽ thay
đổi bất thường. Vào cuối thế kỷ, dự báo nhiệt độ trung bình sẽ tăng 2,3
0

C,
lượng mưa sẽ tăng vào mùa mưa và giảm vào mùa khô, mực nước biển sẽ
dâng cao hơn 75cm so với thời kỳ 1980-1999 (Bộ TNMT, 2009).
Một vài nhà nghiên cứu cho rằng những tác động của BĐKH đang thực sự
diễn ra ở Việt Nam đặc biệt là lũ lụt. Trong những năm gần đây lũ lụt có
khuynh hướng tăng cao và không theo chu kỳ, lượng mưa tăng nhưng số ngày
mưa giảm kết quả hiện tượng lũ lụt gia tăng.
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong khoảng 3
tháng mùa lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm. Cùng với đó là
mùa khô kéo dài từ 5 - 6 tháng. Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất
nhiều con sông chỉ vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng chảy năm.[8]
Biến đổi khí hậu đã làm cho mực nước biển dâng cao ảnh hưởng đến các
vùng canh tác thủy sản ven biển, biến đổi chất lượng môi trường nước, làm
thay đổi hàng loạt mô hình canh tác nước lợ, ngọt do quá trình xâm nhập mặn
diễn ra trên quy mô lớn. Đồng thời nước biển dâng cao và sự tương tác của
chế độ ngập lũ thượng nguồn sông Mekong đã ảnh hưởng đến phát triển
ngành nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL bên cạnh đó còn có hiện tượng xâm
nhập mặn trong đó có khoảng 2,1 triệu ha bị nhiễm mặn (chiếm 50% diện
tích), hiện tượng nước bị xâm nhập mặn đã gây ra nhiều khó khăn cho canh
tác nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho người dân. Bên cạnh đó còn
6
xuất hiện nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản và
cả trên con người như bệnh vàng lá gân xanh, bệnh vàng lùn lùn xoắn lá, bệnh
cúm … các bệnh này có diễn biến bệnh phức tạp và rất nguy hiểm nguyên
nhân đều liên quan đến biến đổi khí hậu.
Trong bối cảnh chung cả nước, sự phân bố nước không đều theo không gian
và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu lượng
lớn, có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ lệ
giữa lưu lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000,
thậm chí ở một số địa phương con số đó lên đến 10.000 lần.[8]. Theo những báo

cáo mới nhất thì Việt Nam hiện đang là một trong những quốc gia trên thế giới
bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi vấn đề mực nước biển dâng cao. Dự đoán trên 12%
bờ biển của Việt Nam sẽ bị ngập sâu dưới nước biển 1m và vùng bị ảnh hưởng
nhiều nhất là ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng. Thời gian vừa qua, hai vùng
đồng bằng này cũng đã bắt đầu chịu ảnh hưởng từ việc nước bị xâm nhập mặn
và thời tiết xấu, dự đoán hiện tượng mực nước biển dâng cao gây mất mát kinh
tế khoảng 17 tỉ mỗi năm.
Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta. Theo tài liệu ghi
chép của các cơ quan quản lý nước, trong thế kỷ 19, chỉ riêng ở đồng bằng
sông Hồng đã có khoảng 30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm vỡ đê tả ngạn
sông Hồng, 18 năm đê hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây thiệt hại cho
hàng chục vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng ngàn làng xóm với hàng ngàn
sinh mệnh người và gia súc, hủy hoại nhiều công trình công ích, gây dịch
bệnh trên nhiều vùng.[8]
Tuy nhiên trong mùa mưa lũ, những trận mưa từng đợt liên tiếp trên lưu
vực sông, làm cho nước sông từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những
trận lũ trong sông, suối. Vào các tháng mùa mưa có các trận mưa lớn, cường
độ mạnh, nước mưa tích luỹ nhanh, nếu đất tại chỗ đã no nước thì nước mưa
đổ cả vào dòng chảy, dễ gây ra lũ. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê),
chảy vào những chỗ trũng và gây ra ngập lụt trên một diện rộng. Lũ lớn và
đặc biệt lớn nhiều khi gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cải. Cha
ông ta đã xếp lũ, lụt là một trong những loại thiên tai nguy hiểm nhất. Mùa lũ
7
thường đi đôi với mưa song mưa lũ hàng năm cũng biến động cùng với mùa
mưa, nó có thể đến sớm hoặc muộn hơn 1-2 tháng so với trung bình năm.
Trong thế kỷ 20, mặc dầu hệ thống đê điều đã được tu bổ, kiên cố hóa
nhưng do lũ lớn, đã có 23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn thất
nghiêm trọng được cụ thể trong bảng dưới đây.
Một số trận lũ từ năm 1986 – 2003
Năm Nơi xảy ra lũ

1986 Lũ đặc biệt lớn xảy ra trên sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn), sông Trà
Khúc (Sơn Giang), sông Hồng
1987 Sông An Lão (An Hòa), sông Vệ (An Chỉ)
1990 Sông Bến Đá (Cần Đăng), Nậm La (Thị xã Sơn La – lũ quét
nghiêm trọng)
1992 Sông Kiến Giang (Kiến Giang), sông Bến Hải (Gia Vòng)
1993 Sông Đà Rằng (Củng Sơn), sông Srepok (Bản Đôn), sông Gianh
1996 Sông Đà (Hòa Bình), Sông Lũy, Dakbla (Kon Tum), Sông Mã
(Cẩm Thủy)
1998 Sông Thu Bồn (Thành Mỹ, Nông Sơn), Eakrong (Cầu 14A)
1999 Sông Hương (Kim Long), sông Trà Khúc (cầu Trà Khúc), sông Vệ
(An Chỉ)
2000 Đồng bằng sông Cửu Long (Tân Châu, Châu Đốc), sông Bé (Phước
Hòa), Eakrong (Cầu 14A), Srepok (Bản Đôn)
2001 Sông Cầu (Cầu Gia Bảy)
2002 Sông Ngàn Phố (Sơn Diệm – lũ quét ác liệt, diện rộng)
2003 Lũ lớn trên một số sông ở Trung và Nam Trung Bộ
(Nguồn: Ngô Đình Tuấn, 2003)
2.1.3. Tình hình lũ lụt tại Tỉnh Quảng Bình
Khắp lãnh thổ Việt Nam trong vòng 100 năm trở lại đây (từ 1981 –
1990) đã thống kê được 496 cơn bão nhưng chỉ có 144 cơn bão đổ bộ vào Bắc
bộ còn 325 cơn thì đổ bộ vào duyên hải miến Trung. Như vậy có nghĩa các
tỉnh duyên hải miền Trung phải gánh chịu hơn 69% tổng số các cơn bão đổ bộ
vào cả nước, trong đó từ 60 – 65% số cơn bão có sức gió mạnh từ cấp 8 đến
8
cấp 12. Nếu tính từ 1891 đến năm 2000, mỗi năm bình quân các tỉnh duyên
hải miền Trung phải gánh chịu 4 cơn bão tàn phá. Trong đó năm 2009, tình
hình thời tiết có nhiều thay đổi thuận lợi hơn các năm trước, mưa được phân
bố đều cho cả các tháng trong năm. Huyện Quảng Trạch chỉ bị ảnh hưởng
trực tiếp của bão số 9 từ ngày 28 đến ngày 29 tháng 9 kèm theo mưa to đã gây

ra lũ trên sông Gianh và sông Roòn nhưng chỉ ở mức báo động 1 lên đến trên
báo động 1. Nhìn chung mức độ ảnh hưởng do thiên tai gây ra năm 2009 ít
hơn nhiều so với các năm trước. Nhưng đến năm 2010 là năm có tình hình
thời tiết, thuỷ văn diễn biến phức tạp. Nắng nóng xuất hiện sớm, nhiều đợt và
cường độ gay gắt, nền nhiệt độ các khu vực ở mức cao hơn trung bình và cao
chưa từng thấy.
Bão và áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên Biển Đông muộn và ít hơn so
với trung bình nhiều năm. Năm 2010 có 6 cơn bão và 5 áp thấp nhiệt đới hoạt
động trên Biển Đông, trong đó, có 2 cơn bão, 3 cơn áp thấp nhiệt đới ảnh
hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thuỷ
văn Trung ương, vấn đề hạn hán,bão, lụt, lốc xoáy, áp thấp nhiệt đới, rét đậm
rét hại, triều cường có thể xảy ra ở mức độ, thời gian, địa bàn khác nhau và có
thể gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế xã hội của huyện nhà.
Ở miền Trung những trận lũ lụt lớn đã xẩy ra vào các năm: 1964, 1980,
1983, 1990, 1996, 1998, 1999, 2001, 2003,…Đặc biệt năm 1999 chỉ trong
vòng hơn 1 tháng thì ở 2 tỉnh Trung Bộ và Tây Nguyên đã có 2 đợt mưa rất
to và gây ra 2 đợt lũ làm ngập lụt nghiêm trọng, dài ngày, thiệt hại lớn cho
kinh tế, dân sinh, môi trường: hơn 700 người chết, gần 500 người bị thương,
hàng vạn hộ gia đình bị mất nhà cửa, tài sản, thiệt hại ước tính lên tới gần
5000 tỷ đồng .
Như vậy trong những năm gần đây lũ, bão thường xuất hiện ở miền
Trung nói chung và Quảng Bình nói riêng là lũ kèm theo bão kép, trận bão
sau cách trận bão trước thường 4 – 5 ngày, vì vậy nước mưa trận bão trước
dội xuống chưa kịp rút thì cơn bão sau lại ập đến làm cho tình hình lũ lụt
9
càng thêm nghiêm trọng. Hạn hán xảy ra nghiêm trọng trên diện rộng và
kéo dài.
 Nguyên nhân lũ lụt
Theo các báo cáo đều đánh giá và nhận định nguyên nhân gây lũ lớn kéo

dài trong những năm qua, đặc biệt là lũ miền Trung trong tháng 10/2010 vừa
qua. Nguyên nhân gây lũ lớn kéo dài chủ yếu
Thứ nhất, do ảnh hưởng bởi hình thể thời tiết điển hình của Miền Trung:
phía Bắc có không khí lạnh từ lục địa Trung Quốc tăng cường, phía Nam là
rãnh thấp đi qua Nam Trung Bộ nối với một vùng áp thấp (AT) hình thành
ngay trên vùng biển ngoài khơi Nam Bộ rồi di chuyển dọc theo ven biển miền
Trung. Tuy chỉ là một áp thấp, nhưng hoàn lưu của nó bao trùm cả các khu
vực từ bắc Trung Bộ cho đến Nam Bộ, với các khối mây dày đặc có dạng
xoáy thuận rất rõ gây nên mưa lớn.
Thứ hai, do mưa với cường độ lớn, xảy ra trên diện rộng cùng với thủy triều
dâng cao. Do đợt này mưa tập trung, mưa với cường độ rất cao từ 1200mm-
1300mm gần bằng lượng mưa cả năm nên lũ xuất hiện rất nhanh và xiết.
Thứ ba, là do mưa lớn, lũ dâng vào ban đêm, đèn tắt, mất điện, thông tin
cắt, đường sá ngập, khả năng ứng phó của người dân và cứu trợ của lực lượng
bên ngoài bị hạn chế gây thiệt hại lớn.
Thứ tư, do con người do việc chặt phá rừng, thu hẹp rừng ,chuyển mục
đích sử dụng rừng nghèo sang trồng cây công nghiệp,phủ xanh đất trống đồi
núi trọc, phát triển mạnh các khu công nghiệp,khu du lịch,đô thị ven
biển chiếm mất quá nhiều diện tích trồng phi lao ven biển, phá vỡ bức tường
thành chắn bão và nước biển một cách tự nhiên. Theo Ông Trần Quang Hoài,
Cục trưởng cục quản lý đê điều Phòng Chống lụt bão, Chánh văn phòng Ban
chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương nói: Ngoài những nguyên nhân
khách quan còn có các nguyên nhân do con người gây nên làm cho lũ lụt kéo
dài như không quy hoạch cụ thể các hệ thống giao thông , các công trình phúc
lợi, nhất là xây dựng hệ thống thủy lợi, thủy điện cũng làm biến đổi tự nhiên.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên Việt Nam phải chịu ảnh hưởng
của hiện tượng bão và áp thấp nhiệt đới. Bão và áp thấp nhiệt đới gây ra mưa
10
to gió lớn. Bão đã gây ra những cơn sóng dữ dội có thể phá hoàn toàn hệ

thống đê bao của các ao nuôi, lồng bè trên biển, vì vậy tổn thất là điều khó
tránh khỏi. Sự tàn phá của bão và áp thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ sinh
thái vùng nuôi nên để khôi phục cần có thời gian dài mới có thể khôi phục lại
được. Sự thay đổi nhiệt độ, bão và áp thấp nhiệt độ thường khó có thể dự
đoán nhưng mức độ ảnh hưởng của nó thì rất nghiêm trọng.
Sự thay đổi khí hậu có tác dụng đến hệ sinh thái biển làm biến động chủng
quần và nguồn lợi cá biển vì vậy làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
cộng đồng ngư dân ven biển. Các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu
với môi trường có thể được đánh giá qua sự nhạy cảm, mức độ thích nghi và
tính dễ bị tổn thương của hệ thống. Hiện nay tại Việt Nam hiện chưa có một
nghiên cứu đầy đủ về tác động của BĐKH đối với việc nuôi trồng và khai
thác thủy sản. Tuy nhiên với những nguy cơ và thách thức đang tiền ẩn đối
với lĩnh vực thủy sản, các ảnh hưởng tiềm tàng này có thể sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động nuôi trồng và khai thác gây ra nhiều thiệt hại cho cộng
đồng ven biển. BĐKH là mối đe dọa thường xuyên, trước mắt và lâu dài đối
với tất cả các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Nó trở nên khốc liệt và có
thể trở thành hiểm họa gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế-xã hội hoặc xóa đi
những thành quả nhiều năm của sự phát triển. BĐKH đã và sẽ làm thay đổi
môi trường toàn cầu nhưng không đồng đều ở các vùng khác nhau.
Hiện nay các thiên tai (lũ lụt, lũ quét, hạn hán, sạt lở ) xảy ra với cường độ
và tần suất cao hơn.
Vậy có thể nói rằng hiện tượng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu nó ảnh
hưởng rất lớn đối với mọi vấn đề không chỉ riêng nuôi trồng thủy sản nói
chung mà còn thiệt hại đến sinh kế của cộng đồng nông thôn là điều không
tránh khỏi.
11
Phần 3:
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào nông hộ có hoạt động sản xuất phụ thuộc vào

nguồn tài nguyên thiên nhiên và có hoạt động nuôi trồng thủy sản tại xã
Quảng Phong – Quảng Trạch – Quảng Bình.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu tác
động của lũ lụt đến hoạt động sản xuất và cuộc sống của người dân. Xác định,
phân tích các giải pháp thích ứng và mô hình nuôi trồng thủy sản thích nghi
trước xu thế biến đổi của các hiện tượng thời tiết đặc biệt là lũ lụt của người
dân xã Quảng Phong – Quảng Trạch – Quảng Bình.
- Phạm vi thời gian: đề tài thu thập số liệu liên quan đến hoạt động nuôi
trồng thủy sản trong vòng 5 năm (từ năm 2006 đến năm 2010)
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu
+ Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, địa hình, đất đai
+ Điều kiện kinh tế xã hội: Dân cư và lao động, cơ cấu thu nhập
3.2. Đặc điểm của nông hộ
+ Số lao động, độ tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ
+ Số năm tham gia NTTS, diện tích và thu nhập của hộ
3.3. Tìm hiểu xu hướng thay đổi của lũ lụt dưới tái động của BĐKH
theo kiến thức người dân.
3.4. Tác động của lũ lụt đến sinh kế và hoạt động nuôi trồng thủy sản
tại địa bàn nghiên cứu
+ Tình hình thiệt hại do lũ lụt xảy ra tại địa bàn nghiên cứu
+ Tác động/ảnh hưởng của lũ lụt đến nuôi trồng thủy sản
+ Vai trò của nuôi trồng thủy sản đối với sinh kế của người dân.
3.4. Xác định giải pháp nhằm thích nghi với tình hình lũ lụt gây ra trong
nuôi trồng thủy sản
12
+Giải pháp của các cấp chính quyền
+Giải pháp của cộng đồng
+Giải pháp của các nông hộ

3.5. Xác định mô hình nuôi trồng thủy sản có khả năng thích ứng tốt với
với tình hình lũ lụt trên địa bàn nghiên cứu.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Chọn điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện tại xã Quảng Phong –Quảng Trạch –Quảng
Bình, là xã thuộc vùng ven Sông Gianh có hoạt động nuôi trồng thủy sản, là
khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của lũ lụt.
3.4.2. Thu thập thông tin
3.4.2.1. Thông tin thứ cấp
Thu thập các thông tin liên quan tới đề tài được công bố trên các trang
báo, tạp chí, trên mạng internet, sách, các nghiên cứu khoa học và các luận
văn. Báo cáo kinh tế xã hội năm 2008, 2009, 2010 của địa phương. Báo cáo
thiệt hại do lũ lụt tại xã Quảng Phong và các báo cáo về biện pháp phòng
chống lụt bão của ủy Ban Nhân Dân xã Quảng Phong
Hệ thống thông tin liên quan đến khí hậu thủy văn như báo cáo tình
hình lũ lụt năm 2009,2010 và các thiệt hại của lũ lụt tại Trung Tâm Khí
Tượng Thủy Văn tỉnh Quảng Bình
Các báo cáo kỹ thuật và các báo cáo nghiên cứu đã được thực hiện bởi
các nghiên cứu, dự án khác liên quan đến lũ lụt tại địa phương.
Các tài liệu liên quan đến thiệt hại lũ lụt và hỗ trợ do Ban Chỉ Huy
Phòng chống và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Bình cung cấp như báo cáo về
tìm kiếm cứu nạn và hỗ trợ lũ lụt trong 4 năm 2007, 2008, 2009, 2010
3.4.2.2. Thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn người am hiểu: Phó chủ tịch xã; cán bộ khuyến nông cơ
sở, chủ nhiệm hợp tác xã, cán bộ tham gia thực hiện mô hình, chi hội trưởng
các chi hội nghề cá về tình hình nuôi trồng thủy sản, ảnh hưởng của lũ lụt đến
hoạt động nuôi trồng.
13
- Thảo luận nhóm người dân (2 buổi): thành phần tham gia gồm có 9
người trong đó có 1 cán bộ phụ trách nuôi trồng thuỷ sản kiêm chủ tịch HTX

của xã, 5 trưởng thôn của 5 thôn trong xã và 3 người dân tham gia hoạt động
nuôi trồng thuỷ sản. Mục đích của thảo luận nhóm để thu thập các thông tin
về khó khăn và thuận lợi của khu vực nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, những
hiện tượng thời tiết trên địa bàn, tác động và giải pháp của cộng đồng trước
các hiện tuợng thời tiết đó.
- Các công cụ PRA được sử dụng :
Công cụ vẽ sơ đồ thôn để biết được vị trí nào trong thôn là dễ ngập lụt
nhất, các hộ được chọn làm điểm di cư đến tránh lụt và các hộ có khả năng
phải di dời khi có lũ xảy ra như các hộ sát phá.
Lấy các thông tin về đặc điểm lụt hàng năm của địa phương, thiệt hại
của lũ lụt đời sống của người dân.
+ Phỏng vấn hộ: tiến hành phỏng vấn 40 hộ có hoạt động sản xuất phụ
thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và có hoạt động nuôi trồng thủy sản
trên địa bàn xã Quảng Phong. Các hộ được chọn theo phương pháp ngẫu
nhiên dựa vào danh sách các hộ nuôi trồng thuỷ sản 2010 được chủ tịch hợp
tác xã cung cấp.
3.5. Phương pháp xử lý thông tin
- Tất cả các số liệu điều tra được mã hoá, nhập và xử lý thông kê bằng
phần mềm Excel.
- Ở nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp là: Phân tích định tính và
phân tích định lượng nhằm phân tích thực trạng nuôi, khả năng phát triển của
mô hình và sự tác động của các yếu tố.
14
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Quảng Bình là tỉnh thuộc duyên hải bắc trung bộ,là tỉnh nằm vào nơi hẹp
nhất từ tây sang Đông của lãnh thổ Việt Nam. Về phương diện địa lý ,Quảng
Bình là nơi giao thoa của các điều kiện tự nhiên ,kinh tế xã hội của miền Bắc
và miền Nam. Quảng Bình nằm trong giới hạn vị trí địa lý từ 17

o
05

02
’’-
18
o
05

12
’’
vĩ độ Bắc, từ 105
0
36

55
’’-
106
0
59

37
’’
kinh độ Đông. Có ranh giới
hành chính: Phía Bắc giáp với Hà Tĩnh, phía Nam giáp với Quảng Trị, phía
Đông giáp với biển đông, phía Tây giáp với tỉnh Khăm Muội nước Cộng Hòa
Dân Chủ Nhân Dân Lào.
Bản đồ 4.1.1: Bản đồ hành chính huyện Quảng Trạch
15
Quảng Bình bao gồm 07 đơn vị hành chính, gồm thành phố Đồng Hới

và 6 huyện: Minh hóa, Tuyên hóa, Quảng Trạch ,Bố Trạch, Quảng Ninh và
Lệ Thủy. Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía đông và có chung biên
giới với Lào 201,87 km ở phía tây, có quốc lộ IA và đường Hồ Chí Minh,
đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12A và tỉnh lộ 20,16 chạy từ đông sang tây
qua của khẩu quốc tế Cha Lo và một số của khẩu phụ khác nối liền với
nước CHDCND Lào [11].
Huyện Quảng Trạch nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình cách thành phố
Đồng Hới 50 km về phía Bắc trung bộ, trung điểm cách thành phố Đà Nẵng
300km, cách thành phố Hồ Chí minh 1.200 km. Có tọa độ địa lý là : 106
0
15

-
108
0
34

kinh độ đông và 17
0
24

-17
0
59

vĩ độ Bắc.
Xã quảng Phong nằm ở phía bắc vùng hạ lưu sông Giang. Phía đông và phía
bắc giáp sông kêng kịa. Phía tây giáp làng nghề Tân An của Quảng Thanh.Dân
số của xã có 5.487 nhân khẩu với 1.196 hộ. với vị trí địa lý tiếp giáp với huyện
Quảng Trạch như vậy đã tạo điều kiện để giao thương và thuận tiện cho các nhà

đầu tư doanh nghiệp đến với huyện. Tạo điều kiện cho huyện có điều kiện thuận
lợi hơn để phát triển sản xuất hàng hóa, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, phát
triển nhanh những ngành kinh tế mũi nhọn.
- Đặc điểm khí hậu, sông ngòi
Quảng Phong nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của
khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trung của khí hậu
nhiệt đới điển hình ở phía nam và có mùa đông tương đối lạnh ở phía Bắc.
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25
0
c, lượng mưa trung bình là 2976mm, độ
ẩm bình quân là 84,9%. Khí hậu Quảng Phong chia làm hai mùa rõ rệt : Mùa
mưa rét từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, trong đó từ tháng 9 đến tháng 11
mưa bão , lượng mưa tập trung 70% tổng lượng mưa của cả năm nên thường
gây ra lũ lụt trên diện rộng, tháng 12 dến tháng 3 rét và mưa phùn, gió bấc
nhiệt độ có lúc xuống tới 9-11
o
c. Đây là những tháng thường xuyên gây ra
lũ.Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 nắng gắt gắn với gió Tây Nam ( địa
phương gọi là gió Lào) gây khô nóng lượng bốc hơi lớn nên thường gây ra
hạn hán, cát bay, cát chảy lấp ruộng đồng và dân cư.
16
Với đặc điểm khí hậu như trên và chịu ảnh hưởng của sông giâng nên
chu kỳ mưa lũ ở địa phương diễn ra phức tạp và thường bắt đầu từ tháng 9-11
hàng năm. Bên cạnh đó với gió tây nam khô nóng xuất hiện khoảng 75 ngày
trong năm, chủ yếu tập trung trong tháng 7, tháng 8 kết hợp với thiếu mưa gây
hạn hán. Do địa hình hẹp, ngắn và dốc nên mùa mưa bão thường có hiện
tượng nước dâng tạo ra lũ quét gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp hằng năm. Để hạn chế sự
bất lợi cần phải có các chương trình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên có
căn cứ khoa học như trồng rừng đầu nguồn, thiết lập vành đai rừng phòng hộ

ven sông, ven biển, nghiên cứu mùa vụ cây trồng vật nuôi, tuyển chọn cơ cấu
giống, chống chịu để né tránh các điều kiện về khí hậu, thời tiết.
Hệ thống sông suối, hồ đập khá nhiều, sông ngòi ở đây đều ngắn và
dốc. Có hai con sông đổ ra biển. Nguồn nước ngầm khá phong phú, tuy nhiên
phân bố không đều. . Mức độ nông sâu của sông thay đổi vào địa hình và
lượng mưa trong vùng, thường vùng đồng bằng ven biển có mực nước ngầm
nông và dồi dào, đối với vùng trung du nước ngầm sâu và dễ bị cạn kiệt vào
mùa khô. Chất lượng nước ở các vùng nhìn chung không tốt, thích hợp cho
sinh trưởng và phát triển cây trồng cũng như sinh hoạt dân cư, riêng đối với
vùng ven biển, ven sông thường bị nhĩêm phèn mặn do thủy triều lên gây khó
khăn cho sản xuất đời sống.
- Đất đai và đặc điểm địa hình
Đất đai là cơ sở đầu tiên, là đầu vào quan trọng nhất để tiến hành
các hoạt động NN, cũng như NTTS. Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất
có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật
nuôi. Đất đai ở Quảng Phong chủ yếu là đất có độ màu mỡ do mang đặc điểm
địa hình ven sông nên chia diện tích đất thành nhiều vùng có đặc điểm và độ
màu mỡ khác nhau, đặc biệt vùng ven sông với diện tích chiếm 1/3 đất NN,
vùng này nhiễm mặn và bị thiếu nước ngọt vào mùa hè, mùa mưa bị ngập
úng. Đây là vùng sản xuất NN gặp nhiều khó khăn, thường chỉ cấy được một
vụ, năng suất thấp hoặc bỏ hoang. Tình hình sử dụng đất đai của xã được thể
hiện qua bảng 1.
17
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất, mặt nước xã Quảng Phong
STT
Chỉ tiêu
Quảng Phong
Diện
tích (ha)
Tỷ lệ (%)

Tổng diện tích đất tự
nhiên
538.31 100
1 Đất NN 242.41 45.03
1.1 Đất sản xuất NN 154.61 28.72
1.2 Đất lâm nghiệp 6.66 1.23
1.3 Đất NTTS 25.57 4.75
1.4 Mặt nước khai thác
thuỷ sản
55.57 10.32
2 Đất phi NN 240.20 44.6
2.1 Đất thổ cư 35.64 6.62
2.2 Đất chuyên dung 204,56 37.98
3 Đất chưa sử dụng 55.70 10.37
(Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo)
Xã Quảng Phong là có diện tích đất tự nhiên khá lớn, là 538.31 ha . Với
quỹ đất tự nhiên lớn sẽ tạo điều kiện rất lớn để phát triển kinh tế địa phương.
Trong cơ cấu đất của xã Quảng Phong, diện tích mặt nước chiếm tới 10,32 %,
rất thích hợp cho việc phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản các loài thuỷ
sản tự nhiên. Diện tích đất NN của xã Quảng Phong có thể tiến hành các hoạt
động canh tác chỉ có 242.41 ha, chiếm tỷ lệ tương đối cao (45.03%), và do
đặc điểm tự nhiên của địa phương nên diện tích này cho năng suất rất thấp.
Không kể những khi mất mùa, những năm lúa cho thu hoạch bình thường,
thậm chí là được mùa lúa thì năng suất lúa cũng chỉ đạt mức trung bình 2-2,5
tạ/sào. Đất lâm nghiệp chiếm một tỷ lệ thấp nhất trong cơ cấu các loại đất
NN, chỉ 1,23%. Hệ thống các cây lâm nghiệp tương đối ít chủng loại
Đất dành cho NTTS của xã có 55.57 ha chiếm 10.32 %. Với diện tích
nuôi trồng không lớn lắm, nhưng tập trung tạo điều kiện cho phát triển NTTS
thành một ngành kinh tế chính của xã. Các diện tích ao nuôi thuỷ sản của xã
18

chủ yếu là ao nuôi thấp triều, diện tích ao nuôi cao triều rất ít. Như vậy, chúng
ta có thể thấy rằng Quảng Phong, diện tích đất NN rộng màu mỡ nên sản xuất
NN phát triển mạnh hơn so với nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội:
- Vấn đề dân số và lao động
Dân số và lao động của một địa phương thể hiện được sức sản xuất của
địa phương đó. Trong quá trình phát triển kinh tế thì dân số và lao động có
ảnh hưởng rất lớn, một mặt nó sẽ tạo ra tiềm lực để phát triển mặt khác nó sẽ
cản trợ lại sự phát triển kinh tế khi công ăn việc làm, đời sống nhân dân không
được đảm bảo. Bảng 2 mô tả tình hình dân số và lao động cuả xã Quảng Phong
năm 2010.
Bảng 2: Tình hình kinh tế xã hội
TT
Chỉ tiêu
ĐVT Quảng Phong
Số lượng %
1 Tổng số hộ Hộ 1.196
2 Số nhân khẩu Người 5.487
3 Số lao động Người 2.703
4 Lđ nông nghiệp Người 1.364 50,04
5 Lđ khai thác NTTS Người 859 31,77
6 Ngành nghề phụ khác Người 480 18,19
7 Số hộ nghèo Hộ 12 1,02
Tính bình quân
8 Tốc độ gia tăng dân số % 0,12 -
9 Bìnhquân lao động/hộ Người 3,35 -
10 Bình quân nhân khẩu/hộ Người 4,45 -
(Nguồn: UBND xã Quảng Phong, 2010)
Số liệu thống kế ở bảng 2 cho thấy, xã Quảng Phong có 1.196 hộ với
5.487 nhân khẩu, lực lượng lao động của xã khá dồi dào, số người trong độ

tuổi lao động là 2.7083 người (chiếm 49,2 % tổng số khẩu). Bình quân nhân
khẩu của xã là 4,45 khẩu/ hộ, với bình quân lao động là 3,35 lao động/hộ. Với
lực lượng lao động dồi dào đó sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
mạnh mẽ, nhưng kéo theo đó là những hệ quả cần được chú ý. Đặc biệt với số
nhân khẩu đông và tốc độ gia tăng dân số là khá. Như vậy, gia tăng dân số
trong khi diện tích đất không mở rộng sẽ là một khó khăn cho chính quyền địa
19
phương trong việc giải quyết việc làm và đảm bảo cuộc sống ổn định cho
người dân ở đây.
Ở xã Quảng Phong, lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào hai
ngành chính là sản xuất NN và thuỷ sản, số còn lại đi làm ăn xa (chủ yếu là
vào thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng). Với diện tích đất NN rộng hơn, và
điều kiện thuận lợi hơn nên số lao động NN là 1.364 lao động. Diện tích mặt
nước khai thác thuỷ sản rộng nên số lao động tham gia vào khai thác thuỷ sản
cũng nhiều với 859 lao động. Đáng chú ý là tại Quảng Phong có lực lượng lao
động làm việc ở các ngành nghề phụ là khá đông, nhờ vị trí gần với thị trấn
Ba Đồn nên một số bộ phận lao động ở đây có thể làm thêm các ngành nghề.
- Cơ cấu thu nhập
Các nguồn thu nhập của người dân xã Quảng Phong chủ yếu là từ NN,
nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, dịch vụ và nghề phụ khác. Theo báo cáo của
UBNN xã thì các nguồn thu nhập của người dân chủ yếu là nuôi trồng thủy
sản và NN. Bảng 3 thể hiện cơ cấu thu nhập của xã.
Bảng 3: Cơ cấu thu nhập của xã Quảng Phong
ĐVT: triệu đồng
TT Chỉ tiêu
Quảng Phong
Tổng thu nhập %
1 Nuôi trồng thuỷ sản 12.000 46,15
2 Chăn nuôi 8.000 30,76
3 Nông nghiệp 6.000 23,09

4 Tổng 26.000 100
5 Tổng giá trị sản xuất (GO) 58 tỷ 611 triệu
đồng
-
6 Giá trị bình quân đầu người 10,68 triệu đồng/năm
7 Cơ cấu kinh tế SX Nông nghiệp – chăn nuôi –
nuôi trồng thủy sản – ngành
nghề và dịch vụ khác
(Nguồn: UBND xã QuảngPhong, 2010)
Kết quả điều tra cho thấy, Cơ cấu kinh tế xã Quảng Phong gồm sản
xuất nông nghiệp – chăn nuôi – nuôi trồng thủy sản và các ngành nghề dịch
vụ khác. Trong đó nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng và chiếm một
phần lớn trong cơ cấu thu nhập chiếm tới 46,15 % (bảng 3). Bên cạnh đó thì
20
chăn nuôi và nông nghiệp nó cũng đóng góp một phần đáng kẻ vào phát triển
kinh tế. Trong thời gian tới ở địa phương, đang định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng giảm dần cơ cấu thu nhập của nông nghiệp, tăng cơ
cấu thu nhập từ thuỷ sản và dịch vụ. Năm 2010 toàn xã với tổng giá trị sản
xuất thu được 58 tỷ 611 triệu đồng, bình quân đầu người là 10,68 triệu
đông/người/năm.
Tóm lại, tại điểm nghiên cứu có vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên khá thuận
lợi để phát triển NTTS, do đó sẽ có nhiều cơ hội để có hoạt động NTTS đầy
tiềm năng. Không chỉ vậy, lực lượng lao động dồi dào cũng chính là một thuận
lợi để đảm bảo cho quá trình phát triển của địa phương
4.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản tại xã Quảng Phong
Nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm bắt đầu từ những năm
90, đã phát triển thành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong khoảng 10 năm trở lại
đây. Trong giai đoạn 2003-2007, mọi số liệu thống kê về diện tích sản lượng,
giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản và kinh ngạch xuất khẩu thủy sản đều
tăng. Theo báo cáo của Bộ thủy sản, tổng diện tích nuôi tôm năm 2005 trong

cả nước là 604.497 ha, so với tổng sản lượng nuôi đạt 330.826 tấn, chiếm
21,4% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản [1]. Trong các loài nuôi như tôm
sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, tôm rảo thì tôm sú chiếm 1 tỷ trọng
lớn: sản lượng tôm sú năm 2004 là 285.000 tấn, chiếm xấp xỉ 92,3% [2]. Tôm
sú có tỷ trọng cao như vậy là do nó là đối tượng nuôi dễ thích nghi với các
điều kiện tự nhiên của các vùng nuôi tôm khác nhau, đem lại giá trị kinh tế
cao. Tuy nhiên, các vấn đề rắc rối cũng bắt đầu từ cái tỷ trọng chênh lệch này.
Xã Quảng Phong là một trong các xã có diện tích nuôi tôm không lớn
tuy nhiên đây là nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây chính vì vậy
trong những năm gần đây đã được sự quan tâm của các cấp chính quyền và sự
cộng tác của người dân địa phương cho nên hoạt động nuôi gặt hái được
nhiều thành công và mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt
được thì vẫn còn có rất nhiều sự tiềm ẩn về những khó khăn cũng như những
nguy cơ có thể xảy ra [1,3,5]. Diện tích nuôi tôm, sản lượng và năng suất
trung bình của xã trong giai đoạn 5 năm từ 2006-2010 được thể hiện ở bảng 4.
21

×