Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

thực trạng và các giải pháp phát triển chăn nuôi bò ở xã đông sơn huyện a lưới tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.96 KB, 54 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
A Lưới là một huyện miền núi thuộc phía tây của tỉnh Thừa Thiên Huế,
cách thành phố Huế 75 km. Huyện hiện có 20 xã và 1 thị trấn, ở A Lưới đời
sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Sản xuất nông nghiệp vẫn theo
phương pháp truyền thống, thiếu kiến thức và kinh nghiệm nên năng suất cây
trồng và vật nuôi còn thấp. Để phát triển cuộc sống của người dân một cách
bền vững, cần phải phát triển hệ thống nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự
nhiên, văn hoá, kinh tế xã hội. Hơn nữa khi mà trong điều kiện kinh tế của
người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn, chưa có khả năng để cơ giới hoá
hoàn toàn trong nông nghiệp thì việc chăn nuôi bò sẽ giải quyết phần nào khó
khăn cho người dân nơi đây như: giải quyết phần nào sức kéo, cung cấp phân
bón cho ngành trồng trọt và góp phần tăng thu nhập đáng kể cho người dân
nơi đây.
Hiện nay có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi bò thịt
như: Đất trồng cỏ, nguồn thức ăn tận dụng từ phế phụ phẩm của trồng trọt dồi
dào, thời gian lao động nhàn rỗi của nông dân còn nhiều, thị trường tiêu thụ
sản phẩm từ chăn nuôi bò thịt đang mở rộng. Tuy nhiên vẫn còn những khó
khăn chủ yếu như chăn nuôi bò trong nông hộ mang tính quảng canh, nhỏ lẻ,
người chăn nuôi tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là chính, thiếu kinh nghiệm và
kiến thức về thú y, chất lượng con giống, thị trường tiêu thụ, người dân ở đây
chưa mạnh dạn trong việc đầu tư vốn, việc áp dụng khoa học kỹ thuật dịch vụ
phục vụ cho chăn nuôi bò còn nhiều hạn chế…
Nhằm tìm hiểu kỹ hơn về thực trạng chăn nuôi bò của xã Đông Sơn
huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất các giải pháp phát triển chăn
nuôi bò trên đàn bò của xã. Tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài : “Thực trạng
và các giải pháp phát triển chăn nuôi bò ở xã Đông Sơn huyện A Lưới tỉnh
Thừa Thiên Huế”.
1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu


- Tìm hiểu thực trạng chăn nuôi bò của nông hộ tại xã Đông Sơn
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chăn nuôi bò của nông hộ
- Đề xuất các giải pháp phát triển chăn nuôi bò trên đàn bò toàn xã
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm và tình hình chăn nuôi bò
2.1.1. Đặc điểm của ngành chăn nuôi bò
Chăn nuôi bò trong nông thôn ngày nay vẫn theo phương thức truyền
thống là chủ yếu, chăn dắt và tận dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp của hộ.
Bò là loài gia súc ăn cỏ, trong cơ cấu khẩu phần ăn hàng ngày cỏ và thức ăn
thô xanh chiếm đến 90%, đây là nguồn thức ăn rẻ tiền, có thể tận dụng không
cần phải mua, nhưng lại có khả năng tăng trọng khá cao, tạo sản phẩm có giá
trị kinh tế lớn của nông hộ. Mặt khác chăn nuôi bò có thể huy động mọi
nguồn lao động của gia đình từ già đến trẻ con đều có thể tham gia được trong
việc chăn nuôi bò. Tuy nhiên nuôi bò cần mức đầu tư ban đầu về giống,
chuồng trại cao hơn các loại vật nuôi khác và thời gian thu lợi lâu hơn vì chu
kỳ sinh học của bò dài hơn các loài vật nuôi khác.
Bò là gia súc nhai lại, dạ dày có 4 túi, nhờ cấu tạo đặc biệt của dạ dày và
sự cộng sinh của khu hệ vi sinh vật dạ cỏ mà bò có khả năng tiêu hóa các loại
thức ăn như: rơm, cỏ và các loại thức ăn thô xơ khác, là những loại ít có giá
trị dinh dưỡng hoặc không có giá trị dinh dưỡng đối với động vật có dạ dày
đơn. Vì vậy phát triển chăn nuôi bò không tạo ra sự cạnh tranh lương thực
giữa người và gia súc như là chăn nuôi các loại gia súc dạ dày đơn và gia
cầm. Chúng ta có thể chăn nuôi bò tốt hơn nếu biết tận dụng hợp lý các nguồn
phế phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp chế biến và các thức ăn sẵn có ở địa
phương. Kết hợp với việc đầu tư đúng mức về lao động cho chăn nuôi bò thì
sẽ đảm bảo cho ngành phát triển bền vững về lâu dài trong tương lai.
Trên quan điểm bảo vệ môi trường thì chăn nuôi bò tận dụng các nguồn
phế phụ phẩm làm thức ăn cho trâu bò lại càng quan trọng. Vì chỉ có trâu bò

mới sử dụng các loại thức ăn này, nếu không chúng sẽ bị thối rữa gây ô nhiễm
môi trường nhất là lượng rơm lúa đốt tại ruộng hay sử dụng làm nhiên liệu để
đun nấu tăng lên nếu không tận dụng để nuôi bò sẽ thải vào bầu khí quyển
lượng CO
2
khổng lồ góp phần phá hủy tầng Ozon của trái đất [1, 88-95].
3
2.1.2. Tình hình chăn nuôi bò ở Việt Nam
Trong những năm qua nhất là khi thực hiện đường lối đổi mới trong
nông nghiệp với sự ra đời của nghị quyết 10 (1988), cũng như các ngành sản
xuất khác, ngành chăn nuôi bò của nước ta cũng có nhiều thay đổi mạnh mẽ:
nhiều mô hình, nhiều tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi đã được áp dụng, nhất
là khâu giống, thức ăn gia súc, kỹ thuật chăn nuôi và thú y. “Đã có những
trang trại tư nhân nuôi hàng 40-50 bò sữa, hàng trăm bò thịt. Những tỉnh có
nhiều mô hình chăn nuôi bò công nghiệp và bán công nghiệp là thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Sông Bé và một số tỉnh khác” [1]. Từ đó đàn
bò không những tăng về số lượng mà tăng cả về chất lượng. Số lượng và tốc
độ tăng trưởng đàn bò của cả nước ta vẫn tăng đều qua các năm, riêng trong
năm 2001 số lượng đàn bò tuy có giảm do dịch bệnh xảy ra, nhưng vẫn không
ảnh hưởng lớn đến tốc độ gia tăng của đàn bò, tốc độ tăng trung bình
3,3%/năm, tốc độ tăng cao nhất là năm 2004 so với 2003 là 11,7% (Miền
Nam tăng 13,9% và Miền Bắc tăng 9,5%). Nguyên nhân chủ yếu là giá của
đàn bò lai sind và bò thịt của thị trường tăng đột ngột làm mọi người ở nông
thôn đã tích cực mua bò về nuôi. Tuy nhiên, sự phân bố đàn bò giửa hai miền
không có sự sai khác lớn. Đàn bò tập trung ở Miền Trung (Bắc Trung Bộ và
Duyên Hải Miền Trung) là 1.908.300 con, chiếm 38,85% đàn bò của cả nước.
Mặc dù khu vực này gặp nhiều khó khăn về khí hậu cũng như mức sống của
dân sống ở nông thôn còn chưa cao. Riêng khu vực Tây Nguyên là vùng có
nhiều điều kiện thuận lợi phát triển, nhưng đàn bò mới có 547.100 con [3].
Như vậy cần phát triển nhanh đàn bò thịt cả nước về số lượng và chất lượng.

Chăn nuôi bò ở nông thôn nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại 4 phương
thức chăn nuôi bò chủ yếu: [2]
Phương thức thả rông, là phương thức nuôi giản đơn, sơ khai. Với
phương thức này bò được thả tự do trong rừng và trên các đồng cỏ, bãi cỏ tự
nhiên. Phương thức này phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tời tiết khí hậu và
nguồn thức ăn tù tự nhiên vì vậy có chi phí đầu tư rất ít, người nuôi chỉ mất
tiền giống. Thường được áp dụng ở các vùng trung du và vùng núi những nơi
có bãi chăn thả lớn. Nuôi thả rông ít phải đầu tư nên có thể có lợi nhuận cao
hơn các phương thức khác nếu không gặp rủi ro. Tuy nhiên từ khi nhà nước
4
thực hiện chính sách giao đất khoáng rừng cho hộ gia đình, các quy định cấm
thả rông trâu bò được đưa ra, làm cho phương thức này không còn phù hợp
nữa.
Phương thức chăn dắt hoàn toàn: là hình thức chăn nuôi bò có tiến bộ
hơn so với thả rông, người nuôi bò đã đầu tư nhiều công lao động cho việc
chăn nuôi bò. Chuồng trại đa số được xây dựng bán kiên cố. Đây chính là
hình thức phổ biến ở đồng bằng, ở những vùng có bãi chăn thả hẹp, quy mô
nuôi nhỏ, thức ăn của bò chủ yếu là cỏ tự nhiên và một số phụ phẩm tận dụng
của gia đình.
Phương thức nuôi chăn dắt có bổ sung thức ăn: phương thức chăn nuôi
này người nuôi đã chú trọng đầu tư thêm thức ăn tại chuồng. Ngoài việc đầu
tư công chăn dắt hàng ngày, thức ăn bổ sung có thể là thức ăn tự nhiên (cỏ
cắt), rơm rạ, các phụ phẩm từ trồng trọt, một số thức ăn tinh rẻ tiền mà người
dân tận dụng được như củ sắn, khoai lang, đây là phương thức chăn nuôi có
tiến bộ hơn so với hai phương thức trên tuy vẫn có phần lệ thuộc vào nguồn
thức ăn tự nhiên. Với phương thức này, có thể có lợi nhuận không cao so với
hai phương thức trên, nhưng là yếu tố góp phần làm thay đổi nâng cao chất
lượng bò đồng thời giúp tăng trọng nhanh, rút ngắn thời gian nuôi thịt. Hiện
nay phương thức chăn dắt có bổ sung thức ăn đang được áp dụng phổ biến tại
các nông hộ.

Phương thức bán thâm canh: đây là phương thức chăn nuôi được xem là
tiến bộ nhất ở nông thôn hiện nay. Theo cách thức chăn nuôi này ít phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên nhưng đòi hỏi phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật như là giống lai, thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng Trước xu thế
đồng cỏ chăn thả ngày càng bị thu hẹp, nguồn thức ăn tự nhiên khan hiếm
đồng thời nhằm cải tạo đàn bò nội, nâng cao chất lượng giống, phát triển mở
rộng quy mô, tăng cao hiệu qủa kinh tế chăn nuôi, đặc biệt chú trọng nâng cao
chất lượng và số lượng thịt hướng ra sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường tiêu dùng. Vì thế phương thức này đang được nhà
nước và các địa phương khuyến khích nuôi.
Ngoài bốn phương thức chăn nuôi chủ yếu trên, còn có hình thức chăn
nuôi theo kiểu công nghiệp được đầu tư thâm canh cao. Tuy nhiên, hình thức
5
này rất ít được áp dụng trong sản xuất chỉ có chủ yếu ở những cơ sở thí
nghiệm, những trang trại chăn nuôi với quy mô lớn có sự đầu tư của nhà
nước.
Một số vấn đề đặt ra trong chăn nuôi bò ở nước ta:
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành nông nghiệp, ngành chăn
nuôi bò ở nước ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Tuy vậy, bên cạnh
những thành tựu đạt được ngành chăn nuôi bò ở nước ta vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, hạn chế:
Quy mô chăn nuôi nhỏ bé: “số hộ chăn nuôi từ 1-2 con bò vẫn là chủ
yếu” [3]. Người nông dân Việt Nam có truyền thống chăn nuôi bò theo kiểu
chăn nuôi nhỏ. Hiện nay có khoảng 80% bò thịt đang được nuôi tại các nông
hộ, mỗi gia đình nông dân nuôi bình quân 1 con bò với mục đích chủ yếu là
dùng để cày kéo hoặc sinh sản [3, 202]. Hơn nữa do tập quán sản xuất nhỏ và
thiếu vốn đầu tư cho sản xuất nên số lượng bò được nuôi của hộ còn rất ít.
“Số hộ nuôi bò có qui mô 50-100 con trở lên còn rất ít, tập trung ở Duyên hải
miền trung và Tây Nguyên” [4, 205].
Tập quán chăn nuôi cổ truyền với kỹ thuật lạc hậu còn phổ biến: chăn

nuôi dựa vào kinh nghiệm và tập quán là chính, bên cạnh đó còn nhiều nơi
kinh nghiệm, tập quán nuôi còn rất lạc hậu.
Chất lượng giống xấu phần lớn là giống địa phương, vì vậy năng suất
chăn nuôi còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu. Hiện nay thịt
xuất khẩu chủ yếu vẫn là thịt lợn, chiếm trên 72% tổng sản lượng thịt hơi các
loại [5].
Công tác thú y còn hạn chế, chưa được tổ chức quản lý chặt chẽ, nên
dịch bệnh còn xảy ra nhiều, như dịch tụ huyết trùng năm 1996 và dịch lở
mồm long móng năm 1999-2000 đã xảy ra trên diện rộng trên phạm vi toàn
quốc.
Hệ trống khuyến nông từ trung ương đến địa phương đã được thiết lập,
nhưng công tác chuyển giao các kỹ thuật vào sản xuất, các khâu dịch vụ cho
ngành chăn nuôi từ đầu vào, đến đầu ra (tiêu thụ, chế biến, ) còn nhiều hạn
chế [6].
6
Chương trình Sind hóa đàn bò đã được triển khai từ lâu với một nguồn
kinh phí khá lớn nhưng kết quả thu được chưa thực sự tương xứng với sự đầu
tư và kết quả mong đợi của chương trình. Mạng lưới truyền giống, nhân giống
mới chỉ phát triển được ở một số địa phương, còn lại ở hầu hết các nơi mạng
lưới này còn quá mỏng, phát triển không vững chắc và chưa đáp ứng được
yêu cầu của nhu cầu sind hóa đàn bò. Hơn nữa, do những sai lầm khuyết điểm
trong công tác quản lý và chỉ đạo chương trình nên ở một số nơi hiện nay
mạng lưới này hầu như tan rã.
Thiếu vốn để đầu tư phát triển chăn nuôi bò đang là hiện tượng phổ biến,
nhất là ở các hộ nghèo. Mặc dù hiện có nhiều kênh tín dụng với lãi xuất thấp
nhưng người nghèo vẫn chưa dám vay vốn để nuôi bò. Vì trình độ kỹ thuật
thấp kém năng suất thu được rất hạn chế nên người dân chưa thấy được hiệu
quả chăn nuôi bò so với các vật nuôi khác. Hơn nữa, do thiếu thị trường tiêu
thụ, việc bán bò khó khăn và thường phải bán với giá thấp cho những người
lái buôn.

Việc khai thác và tận dụng các sản phẩm phụ của ngành chăn nuôi bò
chưa được chú ý. Chẳng hạn như công nghiệp chế biến da hoặc việc sử dụng
các hầm khí Biogas vẫn chưa được phát triển.
2.2. Vai trò và ý nghĩa của ngành chăn nuôi bò
2.2.1. Ngành chăn nuôi bò cung cấp cho con người nhiều sản phẩm có giá
trị
2.2.1.1 Thịt bò
Thịt bò là loại có giá trị dinh dưỡng cao, tỷ lệ protein hoàn thiện/ không
hoàn thiện là 550/1, protein thịt bò đầy đủ các loại acid amin không thể thay
thế. Thịt bò có độ cảm quan thực phẩm cao thông qua màu sắc, hương vị, độ
cứng mềm, độ ngọt, sợi cơ, Ở Mỹ, theo peasson, 1960 thì bốn yếu tố làm
nên tính hấp dẫn của thịt bò: màu sắc thịt nạc, màu sắc của mỡ, độ chắc khi
cắt và thớ thịt. Tính ngon miệng của thịt bò là cảm giác liên quan đến vật lý
và sự hấp dẫn bên ngoài của thịt. Các đặc điểm của thịt ảnh hưởng đến tính
ngon miệng đó là sự mềm mịn, độ nhớt, mùi thơm và tất cả những cái đó liên
quan đến kỹ thuật nấu nướng. Để cảm nhận phân biệt được độ mềm, độ nhớt,
7
mùi thơm của thịt, người ta căn cứ vào cảm nhận chung của số đông người
mà xác nhận.
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của thịt bò và một số loại gia súc, gia cầm
Loại gia
súc
Tỉ lệ thịt xẻ
(%)
Tỷ lệ (%)
Nlượng
(kcal)
Nước Lipit Protit Khoáng
Bò 46,80 70,50 10,50 18,00 1,00 171,00
Lợn 72,50 60,90 21,50 16,50 1,10 268,00

Gà 69,20 7,50 22,40 0,90 162,00
Nguồn : Phạm Văn Sổ và Bùi Như Thuần,
1995
- Hàm lượng các acid amin trong thịt bò (%) so với protein: Acginin:
6,6; Histidin: 2,9; Lizin: 8,1; Leuxin: 8,4; Proleuxin: 5,1; Valin:5,7; Xistin:
1,4; Methionin: 2,3; Treonin: 4,0; Tryptophan: 1,1; Phenilalanim:4,0; Acid
glutamin: 14,4; Tirozin: 3,2
- Hàm lượng các chất khoáng trong thịt bò mg(%): Ca: 198, K: 315,
Na:60, Fe: 26, Mg: 21
- Tuỳ theo từng giống, lứa tuổi, trọng lượng và loại thịt bò khác nhau mà
chất lượng thịt cũng khác nhau.
Bảng 2: Thành phần hoá học của thịt bò thiến
Khối
lượng bò
Nước (%)
Chất khô
(%)
Trong đó (%)
Protit Mở Tro
45 71,84 28,16 19,89 4,0 4,26
135 65,72 34,28 18,87 11,10 4,30
171 61,20 38,80 19,40 15,03 4,36
362 58,44 41,56 18,80 18,52 4,24
453 52,03 47,97 17,11 26,91 3,95
Nguồn: Tô Du, 1999
Mức sống của người dân càng ngày được cải thiện, nhu cầu thịt bò tăng
cao không những về số lượng mà tăng cả về chất lượng. Người ta ngày càng
8
đòi hỏi có nhiều thịt bò ngon. Cùng với quá trình đô thị hoá, những năm gần
đây ở nước ta nhu cầu thịt tăng với tốc độ cao.

2.2.1.2. Sữa bò
Sữa là loại thực phẩm quý đối với con người, đặc biệt đối với trẻ em,
người già yếu và những người lao đông nặng nhọc. Sữa bò được xếp vào loại
cao cấp vì sự hoàn chỉnh về dinh dưỡng, rất dễ tiêu hoá (98%) và hấp thụ với
tỷ lệ cao: mỡ sữa 95%, protein sữa 96%, đường sữa 98% .
Trong sữa bò có khoảng 12,5 đến 13% vật chất khô, trong đó mỡ chiếm
với tỷ lệ 3,6-3,8%; protein 3,3%; đường 4,8% và khoáng là 1%. Ngoài ra còn
một lượng nhỏ vitamin, kich tố rất cần thiết cho cơ thể. Có rất nhiều loại
gia súc cho sữa nhưng tập trung chủ yếu vẩn là sữa bò, sau đó là sữa trâu.
Bảng 3: Thành phần (%) của sữa ở một số gia súc khác nhau
Gia
súc
Nước VCK Mỡ
Protein
Đường Khoáng
Năng
lượng
Carein
Glob
uli
Anbu
min
Bò 87,0 13,0 3,9 2,7 0,5 4,7 0,7 655
Trâu 82,7 17,3 7,9 3,8 0,5 4,3 0,8 1050
Ngựa 90,0 10,0 4,0 1,0 1,0 6,7 0,3 457
Dê 87,2 12,8 4,5 2,8 0,7 4,2 0,8 722
Cừu 82,1 17,9 6,7 5,0 0,8 4,6 0,8 1053
Nguồn : Nguyễn Văn Thưởng, 1999
Trong sữa bò có trên 150 acid béo, trong protein sữa có đủ các loại acid
amin không thể thay thế với hàm lượng cao, không có loại thực phẩm nào có

được: Lizin:14,2%; Methionin: 6,o%; Tryptophan: 14%; Histidin:7,4%;
Acginin: 8,1%; Treonin: 7,9%; Valin:14,6%
Trong sữa bò còn có chứa hầu hết các acid amin không thay thế chiếm
43,48% sau acid amin của trứng gà 50,6 mg % và 43,8 mg% ở cá
9
Hàng năm trên thế giới thu được khoảng 500 triệu tấn sữa, trong đó sữa
trâu bò chiếm khoảng 80-90%. Từ sữa bò người ta có thể chế biến ra nhiều
loại chế phẩm có giá trị dễ hấp thụ như bơ, pho mát
2.2.1.3. Chăn nuôi cung cấp nguyên liệu chế biến
Da là nguồn nguyên liệu cho nhà máy thuộc da và chế biến để sản xuất
ra các mặt hàng dân dụng như : Cặp, Dày, Dép, áo da … Da có giá trị khi bộ
da đó có trọng lượng lớn và kích thước to (dày, rộng, dài), đại lượng của chỉ
số trên không những phụ thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng mà còn phụ thuộc
vào giống, giới tính, tuổi và các yếu tốt khác. Sừng được da công và chế biến
để làm ra các mặt hàng mỹ nghệ tinh xảo như một số đồ trang sức hoặc lược,
giá gương…
2.2.2. Vai trò của ngành chăn nuôi bò trong hệ thống sản xuất nông
nghiệp
Trước vấn đề dân số, kinh tế và lương thực, thực phẩm hiện nay, việc
tăng số lượng đầu lợn, gà, vịt để giải quyết thực phẩm càng gây thêm căng
thẳng về lương thực cho con người nhất là ở các vùng đồi núi xa xôi, đất đai
cằn cỗi, khí hậu khắc nhiệt, lương thực thiếu thốn. Do đó đòi hỏi phải có một
chiến lược phát triển kinh tế thích hợp. Từ những nhận định khảo sát nghiên
cứu, các nhà kế hoạch và các chuyên gia cho rằng: Phát triển chăn nuôi bò là
một chiến lược đúng đắn ở những nơi thiếu lương thực.
2.2.2.1 Phát triển chăn nuôi bò là biện pháp giảm cạnh tranh lương thực
giữa con người và vật nuôi
Bò là lại động vật ít (thậm chí không) cạnh tranh lương thực với con
người. Nhờ có cấu tạo đặc biệt của dạ dày, sự cộng sinh của các vi sinh vật
trong dạ cỏ mà bò có ưu điểm hơn lợn, gia cầm vì thức ăn chính là các chất

thô xanh, kém chất lượng, là những phế phụ phẩm của ngành nông nghiệp,
công nghiệp, thức ăn không cần kỹ và khó tìm kiếm như lơn và gia cầm.
Nguồn thức ăn chủ yếu của bò là cỏ tươi ngoài bải chăn thả, cỏ khô, rơm
rạ và một vài thức ăn thô xanh khác: ngọn mía, thân cây ngô, thân lá đậu các
loại… Ngoài ra còn bã mía, rỉ mật, khô dầu … Thông qua thức ăn phong phú
10
rẻ tiền này sẽ cho ra một lượng chất hửu cơ quý giá đáng kể và năng lượng
khổng lồ cung cấp cho con người mà không phải đầu tư cao.
Do vậy trong điều kiện kinh tế còn khó khăn vẫn có thể phát triển chăn
nuôi bò nếu biết tận dụng tốt nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương để đem
lại kinh tế nâng cao thu nhập và giải quyết tốt vấn đề lương thực giữa con
người và vật nuôi.
2.2.2.2. Cung cấp sức kéo và phân bón cho sản xuất nông nghiệp
Từ xa xưa con người đã biết dùng trâu bò để cày kéo, chuyên chở đồ
đạc. Hiện nay, trâu bò vẫn đang đóng một vai trò quan trọng trong việc cung
cấp sức kéo và phân bón.
Nhìn chung vấn đề này đem lại hiệu quả kinh tế ở các vùng miền núi và
trung du nhất là vấn đề làm đất và kéo tải nhẹ. Ở đây, địa hình khá phức tạp,
máy móc không phát huy được tính ưu việt của nó. Tuy nhiên không chỉ vùng
núi và trung du mà ngay cả vùng đồng bằng, trâu bò vẫn giữ được vai trò
quan trọng của chúng trong cày bừa và vận chuyển.
Bảng 4: Tỷ lệ phần trăm sức kéo /ha
Vùng Loại sức kéo (%)
Người Súc vật Máy kéo
Châu Á (trừ Trung Quốc) 26 57 23
Châu Phi 35 17 57
Châu Mỹ Latinh
09 20 71
Nguồn: Nguyễn Trọng Tiến, 1991
Ngoài cung cấp sức kéo, nghành chăn nuôi trâu bò còn cung cấp cho

nông nghiệp một lượng phân hữu cơ có giá trị và khối một lượng đáng kể
khoảng 492,75kg/con/năm.
Lợi thế của việc sử dụng sức kéo trâu bò là hoạt động bất kỳ mọi địa
hình và sử dung tối đa nguồn tài nguyên tại chổ. Nguyên liệu ở đây là thức ăn
tự nhiên và các phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp mà không cần có sự đầu
tư cao về chuyên gia kỹ thuật cũng như các nguồn nguyên liệu đắt tiền vận
chuyển khó khăn từ đồng bằng lên… Sử dụng sức kéo sinh học sẽ giảm ô
nhiễm môi trường và góp phần cân bằng sinh thái.
11
Hiện nay trên thế giới còn khoảng 2 tỷ người sử dụng sức kéo vật nuôi
mà đa số vẫn là các nước thuộc châu Á, Phi và Mỹ Latinh.
Xét về chất lượng thì phân bò thua phân lợn nhưng với số lượng thải ra
hàng năm lớn, nên phân bò vẫn là nguồn phân hữu cơ chủ yếu cho nông
nghiệp.
Bảng 5: Số lượng và chất lượng phân bò so với phân lợn
Chi tiêu Phân Trâu Bò Phân Lợn
N.P.K (%) 1,662 2,452
Số lượng(kg/con/ngày) 20 02
N.P.K(kg/năm) 116 14
Nguồn: Nguyễn Xuân Bả, 1999
“ Nhiều tài liệu nghiên cứu gần đây cho rằng: khi sử dụng phân gia súc đã
được ủ để bón cho cây trồng tạo ra nông sản có giá trị cao và hầu như không
tồn dư Nitrat hoặc các kim loại nặng và các chất hữu cơ có hại cho sức khoẻ
của con người ” [7].
Sử dụng phân trâu bò ngoài ý nghĩa rẻ tiền còn có ý nghĩa cải tạo đất lâu
dài. Do đó, ngày nay dù phân hoá học sử dụng phổ biến trong nông nghiệp
nhưng phân hữu cơ vẫn không thể thiếu trong đó có phân trâu bò. Ở một số
nước, phân còn là nguồn chất đốt dự trữ để đun nấu quanh năm.
2.3. Chăn nuôi bò đối với kinh tế hộ
Ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò nói riêng có vai trò rất quan

trọng đối với kinh tế của hộ nông dân, điều này được thể hiện ở những điểm
sau:
Chăn nuôi bò cung cấp phân bón và sức kéo cho ngành trồng trọt: đây là
hai sản phẩm phụ thu được từ chăn bò rất cần thiết cho hoạt động sản xuất
trồng trọt. Phân bò là loại phân hữu cơ có chất lượng kém hơn phân lợn và
một số phân động vật khác, nhưng số lượng thải ra hàng ngày lớn hơn rất
nhiều so với các loài động vật khác cho nên vẫn là nguồn phân hữu cơ chính
cho trồng trọt. Đồng thời đây cũng là nguồn phân có giá trị rẻ mà lại rất có ý
nghĩa trong việc cải tạo đất lâu dài, giúp tăng độ phì của đất, bảo vệ nguồn tài
nguyên vô cùng quý giá đó. Mặt khác việc tận dụng nguồn phân bò đã giải
quyết một phần chi phí đáng kể về phân bón cho nông hộ trong trồng trọt.
12
Ngoài ra, bò còn cung cấp sức kéo cho nông nghiệp và vận chuyển. Từ
xưa khi máy móc chưa được phát triển thì chăn nuôi trâu bò để lấy sức kéo là
mục đích chính của người dân. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển
nhiều nơi máy móc đảm nhiệm phần lớn khâu làm đất, nhưng bò vẫn được sử
dụng nhiều trong việc làm đất, đặc biệt là ở những vùng nghèo, vùng có điều
kiện địa hình khó khăn, sản suất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ gặp nhiều trở
ngại trong áp dụng cơ giới hóa, ở những vùng sâu, vùng xa giao thông đi lại
khó khăn, địa hình phức tạp thì việc chuyên chở các loại hàng hóa (gỗ, phân
bón, lương thực, ) chủ yếu vẫn dùng sức kéo của trâu bò.
Đặc điểm của lao động nông thôn Việt Nam hiện nay phần lớn mang tính
mùa vụ, vì vậy lao động nhàn rỗi vẫn còn nhiều. Theo số liệu điều tra “có
khoảng 7 triệu người thất nghiệp hoàn toàn hoặc tiềm tàng” [9, 12]. Ở những
vùng ruộng đất ít, dân số đông, người dân chỉ sử dụng khoảng 65-75% thời
gian lao động trong năm, còn lại 30-35% thời gian nhàn rỗi [7, 15]. Vì vậy,
chăn nuôi bò góp phần sử dụng hợp lý nguồn lao động nhàn rỗi để tăng thu
nhập, cải thiện mức sống trong nông hộ. Đồng thời đây cũng là hướng giải
quyết vấn đề việc làm tại chỗ cho người dân nông thôn, hạn chế sức ép gia
tăng dân số lên các thành phố lớn do người dân đi tìm việc làm, tránh được

các tệ nạn xã hội có thể phát sinh.
Ngoài ra, chăn nuôi bò có thể coi như một nguồn dự trữ tiền cho người
dân dưới dạng vật chất cho nông hộ và có thể sử dụng một cách uyển chuyển.
Người dân có thể lấy tiền bất cứ lúc nào nếu cần thiết.
Như vậy có thể thấy rằng phát triển chăn nuôi bò là một trong những giải
pháp tích cực giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng
đời sống, góp phần xói đói giảm nghèo cho người dân nông thôn.
2.4. Hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò ở nông hộ
2.4.1. Nông hộ và kinh tế nông hộ
Có nhiều quan niệm khác nhau về hộ, nhiều ý kiến cho rằng: “Hộ là
những người cùng sống chung trong một mái nhà, cùng ăn chung và cùng có
chung một ngân quỹ” [4, 209]. Quan điểm khác lại cho rằng: “Hộ là tập hợp
những người có chung huyết thống, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá
13
trình sáng tạo ra một vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng”
[10, 25].
Tổng hợp các khái niệm về “hộ” có thể hiểu: Hộ là một nhóm người
cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc, cùng chung sống hay không cùng
chung sống chung một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập, ăn chung và
cùng tiến hành sản xuất chung. Như vậy có sự phân biệt khác nhau giữa hộ và
gia đình. Điểm khác nhau cơ bản đó là gia đình là nhóm người cùng huyết tộc
và gia đình là một loại hình hộ cơ bản.
Hộ gia đình ở nông thôn sống dựa vào nông nghiệp được gọi là nông hộ,
là một đơn vị kinh tế xã hội trong nông thôn. Kinh tế nông hộ có những đặc
trưng cơ bản khác với những người làm kinh tế khác trong nền kinh tế thị
trường, các đặc trưng cơ bản của nông hộ được khái quát như sau:
Thứ nhất là đất đai: Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt hộ nông dân với
những người lao động không có đất hoặc với công nhân đô thị. Ruộng đất của
nông dân là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố khác vì giá trị của nó. Đất là nguồn
lực đảm bảo cuộc sống lâu dài của nông dân và là một bộ phận về vị trí xã hội

của gia đình trong phạm vi làng xã hay cộng đồng.
Thứ hai là lao động: Lao động là một đặc tính nổi bật của người nông
dân. Nguồn lao động ở nông thôn rất dồi dào, phần lớn lao động ở nông thôn
mang tính chất thời vụ do đó kéo theo tình trạng thiếu việc làm.Vì vậy phát
triển mở rộng các hoạt động sản xuất ngay tại địa phương nhằm giải quyết
công ăn việc làm cho người dân trong những lúc nông nhàn. Điều này góp
phần làm tăng thêm thu nhập, phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thứ ba là vốn và sự tiêu dùng: Trong nông hộ không có sự phân biệt
giữa lợi nhuận từ doanh thu với tiền công lao động của hộ. Từ đó có thể thấy
rằng sản xuất và tiêu dùng của nông hộ là khó có thể tách rời, người lao động
làm những công việc của gia đình mình chứ không phải kinh doanh thuần túy,
khác biệt hoàn toàn với đơn vị kinh doanh khác.
Thứ tư là sản xuất nhỏ lẻ và manh mún: Kinh tế hộ gia đình nông dân
nhìn chung là nền sản xuất nhỏ lẻ mang tính tự cung, tự cấp, nếu có sản xuất
hàng hóa cũng với năng suất thấp. Tuy nhiên nó có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp.
14
Thứ năm: Hộ là môt đơn vị kinh tế độc lập tự chủ. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, hộ có quyền ra quyết định trong tất cả các hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Từ việc sở hữu về tư liệu sản xuất, sử dụng đất cho đến
các quyết định tự quyết trong phân phối những sản phẩm sản xuất ra sau khi
trừ ra chi phí sản xuất đều do những người có uy tín hay có quyền lực tối cao
trong gia đình.
Từ những vấn đề đã nêu trên có thể thấy rằng hộ nông dân là một đơn vị
kinh tế xã hội có chung một cơ sơ kinh tế, chung một ngân quỹ, ăn chung và
chung sống dưới một mái nhà. Hộ nông dân có những đặc trưng khác với các
thành phần kinh tế khác.Vì vậy cần nắm rõ những đặc trưng đó để vận dụng
vào việc phát triển kinh tế nói chung cũng như hoạt động sản xuất chăn nuôi
bò của nông hộ nói riêng.
2.4.2. Hiệu quả kinh tế

Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Tác giả
Hồ Vĩnh Đào cho rằng: “Hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích kinh tế, là do sự
so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao
động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được” [11-30, 817].
Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng: “Hiệu qủa kinh tế là phạm trù kinh tế khách
quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác
định” [10, 21].
Khái quát có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế
phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế phản ánh trình độ khai thác các nguồn
lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong qúa trình tái sản xuất nhằm
thực hiện mục tiêu đề ra và là thước đo trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp.
Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và
tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu
quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là
quy luật năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc
nâng cao hiệu qủa kinh tế là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc
ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
15
Nếu xét trên phương diện so sánh thì hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa
một bên là kết quả đạt được và một bên là chi phí bỏ ra.
Hiệu qủa hoạt động của các doanh nghiệp được đánh giá thông qua một
hoặc một số chỉ tiêu nhất định. Về phần mình, những chỉ tiêu hiệu quả này
phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của chủ thể hiệu quả. Vì vậy khi
phân tích hiệu quả các phương án cần hiểu rõ chiến lược phát triển cũng như
mục tiêu của mỗi chủ thể trong từng giai đoạn phát triển.
Những mục tiêu khác trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp
quan tâm có liên quan đến lợi nhuận.Vì vậy lợi nhuận ổn định là một mục tiêu
bao trùm nhất, tổng quát nhất. Cho đến nay, các tác giả đều nhất trí dùng lợi
nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả xuất kinh doanh. Việc

nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu tăng
trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung thể hiện ở
chỗ:
- Tận dụng và tiết kiệm các nguồn lực hiện có.
- Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tiến nhanh vào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta thấy rằng có nhiều quan điểm
khác nhau về hiệu quả kinh tế, nhưng đều thống nhất ở bản chất của nó đó là
hiệu quả kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế đạt được với
chi phí kinh tế bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù
kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức và
quản lý kinh doanh của chủ thể kinh tế.
2.4.3. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi ở nông hộ
Hiệu quả kinh tế chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò nói riêng là một
phạm trù kinh tế phản ảnh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí
các nguồn lực đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ.
Kết quả chăn nuôi bò ở nông hộ được biểu hiện bằng hệ thống các chi phí
sau:
16
Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ của
nông dân được tạo ra trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Giá trị
sản xuất bò là giá trị sản phẩm bò tạo ra trong năm nghiên cứu.
Giá trị gia tăng (VA): Là toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động
sản xuất kinh doanh của nông hộ trong thời kì nhất định (thường là một năm).
VA = GO - IC
Trong đó IC: Chi phí trung gian, bao gồm:
Chi phí vật chất: Nguyên vật liệu chính, phụ bán thành phẩm, giá trị
công cụ sản xuất nhỏ được phân bổ trong năm, sửa chữa thường xuyên
TSCĐ, thiệt hại tài sản lưu động trong định mức và chi phí vật chất khác.

Chi phí dịch vụ: Gồm chi phí bán hàng, chi phí đào tạo, chi phí nghiên
cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, chi phí bảo vệ, vệ sinh môi trường,
các chi phí dịch vụ khác.
Thu nhập hỗn hợp (MI) là: Một bộ phận của giá trị gia tăng thuần sau khi
đã trừ đi thuế nông nghiệp, là thành phần thu nhập thuần túy bao gồm cả công
lao động của gia đình tham gia sản xuất. Chỉ tiêu này thường được áp dụng
đối với nông hộ vì họ vừa là chủ vừa là người lao động nên không thể tách
riêng tiền lương và lãi ra thu nhập này được gọi là thu nhập hỗn hợp. Về mặt
giá trị MI gồm:
MI = (VA - C1) - T
Trong đó:
C1: khấu hao tài sản cố định được phân bổ trong chu kì sản xuất.
T: Thuế sản xuất.
VA - C1: Giá trị gia tăng thuần.
Trên cơ sở so sánh các nguồn lực đầu vào (chi phí) và đầu ra (kết quả) và
xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế của chăn nuôi bò thịt, chúng ta áp dụng các
chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế nuôi bò sau:
Thu nhập hỗn hợp (ngàn đồng/năm): Trong năm nghiên cứu hộ gia đình
nông dân có thu nhập được bao nhiêu tiền từ nuôi bò.
Thu nhập trên nhân khẩu (ngàn đồng/nhân khẩu): Chỉ tiêu này thể hiện
một nhân khẩu sẽ tạo thêm bao nhiêu tiền thu nhập từ nuôi bò thịt.
Thu nhập trên nhân khẩu = Thu nhập nuôi bò/tổng nhân khẩu của hộ.
17
Thu nhập trên chi phí: Chỉ tiêu này thể hiện với một đồng chi phí hộ gia
đình sẽ tạo được bao nhiêu đồng thu nhập từ nuôi bò thịt.
Thu nhập trên chi phí = Thu nhập nuôi bò/tổng chi phí.
Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian: Chỉ tiêu này phản ánh với một
đồng chi phí trung gian tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất từ nuôi bò thịt.
Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian = GO/IC.
2.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến chăn nuôi bò

2.5.1. Nhóm nhân tố tự nhiên
2.5.1.1. Thời tiết, khí hậu
Giống như các đối tượng khác của sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi bò
phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên, mỗi vùng khác nhau thì số lượng, chất
lượng và tính năng sản xuất của bò cũng khác nhau.
Thời tiết, khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến chăn nuôi bò, khi di chuyển gia
súc tới những vùng có khí hậu khác nhau sẽ làm ảnh hưởng tới sức khỏe của
chúng, đặc biệt là sự nhập nội của giống bò cao sản. “Nếu gia súc không được
sống trong điều kiện thuận lợi sẽ làm giảm sức sản xuất, tăng chi phí thức ăn,
giảm chất lượng sản phẩm, ngoài ra còn giảm khả năng chống bệnh”. Các
giống gia súc cao sản có nguồn gốc từ các nước ôn đới thường không thích
nghi tốt với khí hậu ở vùng nhiệt đới đặc biệt là tính chịu nóng.
Khí hậu, thời tiết tác động tới sự hình thành và phát triển của một số
dạng bệnh. Khí hậu nóng khô và khí hậu nóng ẩm thường gây nên những rối
loạn quá mức về điều hòa nhiệt, dẫn đến ngất do nóng, co rút do say nắng, suy
kiệt do mất nhiều nước cơ thể. Đối với gia súc nhiều bệnh truyền nhiễm đã
phát sinh và phát triển trong mùa ẩm như: dịch tả, tụ huyết trùng
Yếu tố đầu tiên tác động tới cơ thể gia súc là nhiệt độ" ở loài nhai lại,
phần lớn nhiệt lượng được hình thành do tiêu hóa lên men và do trao đổi chất
nhất là khẩu phần giàu chất xơ. Nhiệt lượng này tỷ lệ thuận với thức ăn ăn
vào và cường độ trao đổi chất trong cơ thể". Các giống bò cao sản có quá
trình trao đổi chất mạnh, nhiệt lượng tỏa ra lớn nên chỉ thích hợp với điều
kiện khí hậu mát mẻ.
Khi nhiệt độ không khí gần bằng nhịêt độ cơ thể, con vật khó thải được
nhiệt mà nó tạo ra và nhiệt độ môi trường lên cao vượt quá khả năng điều hòa
18
của gia súc thì sẽ dẫn đến rối loạn sinh lý do đó sẽ làm giảm sức sản xuất.
Nhiệt độ môi trường làm ảnh đến trao đổi nhiệt của cơ thể dẫn đến ảnh hưởng
đến chức phận của tinh hoàn hay buồng trứng, do đó khi thời tiết trở lạnh hay
nóng lên có thể làm ngưng trễ quá trình sinh tinh và sinh trứng, ở gia súc dẫn

đến rối loạn sinh dục, giảm khả năng sinh sản. Ngoài ra, nhiệt độ còn ảnh
hưởng tới kích thước của loài hay những loài gần nhau.
Đi đôi với nhiệt độ thì ảnh hưởng của sự chuyển động không khí cũng
đáng được quan tâm. Sự chuyển động của không khí trực tiếp hay gián tiếp
ảnh đến cơ thể gia súc, ảnh hưởng ở đây thông qua quá trình trao đổi nhiệt. Ở
miền trung ngoài hai mùa gió chính (gió mùa mùa đông và gió mùa mùa hạ)
còn có một số hình thái gió địa phương đặc biệt xuất hiện trong một số khu
vực có đặc điểm địa lý riêng biệt. Như gió tây nam, sau khi vượt dãy trường
sơn xuống đồng bằng ven biển trở nên rất khô nóng.
Khí hậu, thời tiết không những ảnh hưởng trực tiếp đến gia súc mà còn
tác động đến sự phát triển của cây cỏ trên đồng cỏ và các nguồn thức ăn thô
xanh khác, gián tiếp ảnh hưởng đến cơ thể vật nuôi. Vào mùa xuân và mùa
thu, khi thời tiết thuận tiện cây cỏ phát triển tốt, gia súc đủ thức ăn nhưng
ngược lại vào mùa đông và mùa hạ thời tiết xấu, nguồn thức ăn bị thiếu hụt.
Do đó cần có kế hoạch bổ sung thức ăn cho bò vào các thời điểm cần thiết.
Thời tiết khí hậu ở miền trung khắc nhiệt nên ảnh hưởng rất lớn chăn
nuôi bò. Nghiên cứu tại nông trường Tân Lâm, Quảng Trị cho thấy: chỉ cần
thay đổi quy trình thả (buổi sáng cho đi sớm, về sớm buổi chiều đi muộn về
muộn) để tránh nắng kết hợp với cho uống nước đầy đủ đã nâng cao khả năng
sinh trưởng của bò so với đối chứng là 15%.
2.5.1.2. Đất đai, đồng cỏ, nguồn nước
• Đất đai
Đất đai ảnh hưởng lớn tới chăn nuôi. Đất đai ở vùng núi và trung du cằn
cỗi thiếu chất dinh dưỡng, nghèo các chất hữu cơ và thiếu nước, đây là hạn
chế lớn trong vấn đề phát triển mạnh vùng gò để phát triển chăn nuôi bò.
Ngoài ra đất đai còn ảnh hưởng đến thành phần các chất hữu cơ trong cây cỏ.
Điều kiện thổ nhưỡng có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trong đó
các chất dinh dưỡng trong đất đóng vai trò quan trọng kể cả nguyên tố vi
19
lượng và độ pH trong đất quyết đinh trạng thái dễ tiêu hay không tiêu của các

nguyên tố.
• Đồng cỏ
Nước ta có mật độ dân số cao, đất đai thiếu tổng diện tích cây trồng
khoảng 32000ha. Thực ra, những nơi được gọi là "đồng cỏ" chỉ là những vùng
đất xấu, năng suất cỏ thấp. Vì vậy, việc xác định chiến lược vấn đề, giải quyết
vấn đề thức ăn cho trâu bò dựa trên đồng cỏ tự nhiên là không phù hợp.
Với năng suất và chất lượng đồng cỏ kém, sẽ làm năng suất vật nuôi thấp
và như vậy làm cho chăn nuôi bò không phát triển được nhất là chăn nuôi
theo hướng quảng canh.
• Nguồn nước
Nước là yếu tố sinh quyển quan trọng nhất. Nước có vai trò quan trọng
đối với các sinh vật. Chất lượng nước xét trên đặc tính hóa học là độ pH và độ
mặn nó ảnh đến vật nuôi. Độ pH trong nước làm thay đổi tính thẩm thấu do
đó làm ảnh đến chức năng bài tiết và quá trình sống của gia súc. Độ pH trong
môi trường nước làm hưng phấn hoặc ức chế hoạt động của hệ thần kinh, làm
thay đổi cân bằng của hệ thống hô hấp. Nước được coi là một trong những
điều kiện mà sức khỏe và sức sản xuất của vật nuôi đều phải phụ thuộc.
Nước là yếu tố quan trọng trong chăn nuôi nó ảnh hưởng tới sự phân bố
của gia súc. Bò trung bình mỗi ngày cần 30 - 45 lít nước. Trong quá trình làm
việc nặng nhọc gia súc bị mất nước thông qua mồ hôi, nếu mất 20% lượng
nước cơ thể thì gia súc sẽ chết sau 4-8 ngày sau khi đình chỉ không tiếp nước.
Do đó chăm sóc nuôi dưỡng cần phải thường xuyên bổ sung nước uống cho
bò kết hợp với lượng nước vi lượng mà cơ thể cũng bị mất theo mồ hôi trong
quá trình làm việc.
2.5.2. Nhóm nhân tố các điều kiện kinh tế xã hội
• Vốn
Đây là vấn đề bức xức nhất hiện nay làm ảnh hưởng đến chăn nuôi
chung và chăn nuôi bò nói riêng. Mặc dù chăn nuôi bò chủ yếu dựa vào
những phế phụ phẩm công nông nghiệp, đồng cỏ rẽ tiền nhưng cũng phải đầu
tư con giống, chuồng trại hơn nữa. Vòng quanh vốn trong chăn nuôi bò chậm

20
hơn lợn, gia cầm nên không phù hợp với tâm lý của người dân nhất là người
nghèo.
• Lao động
Phương thức chăn nuôi bò nước ta còn lạc hậu, đa số còn chăn thả nên
rất tốn công lao động dẫn đến số lượng bò trong một gia đình không thể cao
do không có công chăn dắt và giải quyết nguồn thức ăn thích hợp. Từ đó đặt
ra cho nghành chăn nuôi phải có nhiệm vụ tìm ra những chiến lược giải quyết
thích hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương
• Chính sách kinh tế
Các cấp chính quyền cần phải có một sự chỉ đạo đúng đắn và quan tâm
sâu sắc đến đời sống của người dân cải thiên cuộc sống và giảm bớt thành
phần đói nghèo trong xã hội. Tùy theo điều kiện tự nhiên của từng vùng mà
phát triển ngành nghề thích hợp. Như vậy ở đây có sự hợp tác giữa các nhà
chiến lược phát triển nông thôn và các cấp chính quyền địa phương từ đó đưa
ra các chính sách kinh tế khuyến khích người dân phát triển kinh tế cho chính
bản thân họ.
Đối với chăn nuôi bò hiện nay nhà nước đã có nhiều chính sách kinh tế
góp phần thúc đẩy ngành chăn nuôi bò ngày một phát triển như: chương trình
cải tạo đàn bò, các chính sách về đầu tư nghiên cứu, trường ngoài ra các tổ
chức, ban ngành ở địa phương cũng có một quy định biện pháp cụ thể về chăn
nuôi bò. Các chính sách, các quy định này sẽ góp phần thúc đẩy chăn nuôi bò
và làm cho người chăn nuôi bò tin tưởng hơn về còn đường làm ăn của họ.
• Thị trường tiêu thụ
Đây là yếu tố hàng đầu cần được quan tâm, sản phẩm của chúng ta chưa
đi vào thi trường thế giới bởi lẽ chất lượng thấp chưa cạnh tranh được với các
nước khác. Tuy nhiên ở nước ta lại có nhiều thành phố lớn như: Sài gòn, Hà
nội và sát nước ta có trung quốc. Xa hơn có Singapore, Hồng Kông, Nhật
bản là những nước thường phải nhập sản phẩm chăn nuôi từ những nước
khác. Do đó, ngành chăn nuôi cũng nên coi đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm

(thịt, trứng, sữa) nhiều nhất. Thủ đô hà nội mỗi ngày tiêu thụ 200 tấn thịt các
loại, hàng triệu quả trứng và hàng ngàn lít sữa.
21
Như vậy nếu thị trường rộng lớn, nhu cầu về thịt bò cao sẽ thúc đẩy
ngành chăn nuôi bò phát triển và ngược lại.
2.5.3. Nhóm các nhân tố điều kiện kỹ thuật
• Con giống
Con giống là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến năng suất chăn
nuôi, con giống tốt thì năng suất cao và ngược lại.
Đàn bò nước ta phần lớn chưa được cải tạo, tầm vóc nhỏ bé năng suất
sản xuất thấp, hiệu quả kinh tế từ chăn nuôi bò không cao. Do đó cần phải
tiến hành cải tạo đàn bò để nâng cao tầm vóc, tăng năng suất, thu nhập cho
người chăn nuôi cũng như thúc đẩy ngành chăn nuôi bò ngày một phát triển
Giống bò là một yếu tố quan trọng và cần thiết, phải được quan tâm hàng
đầu trong việc phát triển chăn nuôi bò, thường xuyên chọn lọc cải tạo hoặc có
thể kết hợp với việc nhập nôi các giống bò thích nghi với điều kiện địa
phương.
• Dinh dưỡng và vấn đề thức ăn
Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng sản xuất. Khan
và Davis, 1981 khi nghiên cứu về khả năng sản xuất của bò cho sữa và giống
bò địa phương chưa cải tạo thu được kết quả như sau: Trong điều kiện dinh
dưỡng tốt với khẩu phần cơ bản và rơm xử lý amoniac thì bò lai tăng trọng
nhanh hơn bò địa phương. Nhưng ngược lại trong điều kiện dinh dưỡng kém
khẩu phần cơ bản là rơm chưa xử lý thì bò địa phương ít bị giảm tăng trọng.
Ước tính hàng năm nước ta có khoảng 20 triệu tấn rơm rạ, gần 6 triệu tấn
lạc thân ngô, bã sắn. Đây là cơ sở giải quyết thức ăn cho bò. Dân số ngày
càng tăng, diện tích trồng cỏ ngày càng thu hẹp, việc xây dựng hệ thống chăn
nuôi gia súc nhai lại dựa trên các phế phụ phẩm sẵn có là yêu cầu sống còn
hiện nay và trong tương lai.
Thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong phát triển chăn nuôi bò. Cũng

như bao gia súc khác, bò không thể tồn tại khi không có thức ăn và không thể
cho năng suất cao khi nguồn thức ăn không ổn định, chất lượng thức ăn kém.
22
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các hộ nông dân chăn nuôi bò tại xã Đông Sơn.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: từ ngày 06/01 đến ngày 20/05/2010.
Phạm vi về không gian: địa điểm nghiên cứu được thực hiện tại xã Đông Sơn-
huyện A Lưới-tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thời gian số liệu trong nghiên cứu phản ánh thực trạng chăn nuôi bò tại xã.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp chọn mẫu
Cách chọn mẫu điều tra được xác định theo phương pháp có định hướng, sau
đó lấy ngẫu nhiên không lặp lại theo các bước cụ thể sau:
Chọn danh sách những hộ có nuôi bò trong xã.
Xác định số lượng loại hộ (theo tỉ lệ giàu nghèo đã được phân loại ở xã).
Chọn ngẫu nhiên không lặp lại các đối tượng hộ khác nhau.
Từ những tiêu chí và cách chọn đã nêu, tôi đã chọn và tiến hành điều tra với
số lượng mẫu cụ thể như sau:
Phân loại hộ Số lượng hộ điều tra
Khá 10
Trung bình 30
Nghèo 20
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập các số liệu thứ cấp qua các tài liệu đã được công bố của các cơ

quan thống kê và các cơ quan chuyên môn về chăn nuôi bò, nông nghiệp và
phát triển nông thôn. Các báo cáo về tình hình chăn nuôi bò đã được công bố
trong nước, các báo cáo về tình hình phát triển chăn nuôi bò ở các cơ quan
23
chuyên ngành và chính quyền xã. Ngoài ra các báo cáo khoa học và kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả công bố trên các sách báo, tạp chí chuyên ngành
chăn nuôi, nông nghiệp, internet.
Thu thập số liệu sơ cấp:
Phỏng vấn hộ bằng bảng hỏi đã được chuẩn bị sẵn mục đích nghiên cứu.
3.3. Phương pháp phân tích số liệu
Các số liệu được mã hóa và xử lý trên máy tính phần mềm Excel.
3.4. Nội dung nghiên cứu
3.4.1. Thực trạng chăn nuôi của xã
- Quy mô chăn nuôi của các nông hộ
- Cơ cấu đàn bò
- Mục đích chăn nuôi bò
- Tình hình sử dụng nguồn thức ăn cho chăn nuôi bò
- Tình hình sử dụng lao động cho việc chăn nuôi bò
- Phương thức chăn nuôi bò
- Tình hình chăm sóc và nuôi dưỡng
- Thú y, dịch bệnh
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm trong chăn nuôi
- Tình hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi bò
- Kết quả và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò của nông hộ
3.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chăn nuôi bò của nông hộ
- Thị trường
- Chính sách
- Dịch vụ đầu vào
- Tài nguyên đất (Đất, Đồng cỏ…)
3.4.3. Một số giải pháp để phát triển chăn nuôi bò

- Giải pháp về kỹ thuật
- Giải pháp về dịch vụ
- Giải pháp về chính sách
24
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm chung của địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Vị trí địa lý
Đông Sơn là một xã nằm ở phía Tây của huyện A Lưới, về vị trí địa lý:
- Phía Bắc giáp: xã Hương Lâm huyện A Lưới.
- Phía Nam giáp: xã A Đợt huyện A Lưới.
- Phía Tây giáp: nước Lào.
- Phía Đông giáp: xã Hương Phong huyện A Lưới.
4.1.2. Điều kiện tự nhiên
 Khí hậu thời tiết
Đông Sơn chịu ảnh hưởng của khí hậu đặc trưng của Miền Trung đó là
nhiệt đới ẩm gió mùa, khí hậu nóng gắt, khi rét thì kèm theo mua phùn. Hàng
năm trên địa bàn xã có hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Nhưng trong những
tháng này lại có sự khác nhau trong từng tháng. Từ tháng 9 đến tháng 11 có
gió bão kèm theo mưa lớn nên thường gây lũ lụt, còn từ tháng 12 đến tháng 3
năm sau do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên khí hậu khô hanh và trời
mưa phùn giá rét.
Còn mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 do chịu ảnh hưởng của gió Tây
Nam khô nóng nên đã gây hạn hán cho xã làm cho cây cối khô cháy, lượng
nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Nhiệt độ trung bình
hàng năm của xã là 27
0
C, nhiệt độ cao nhất là 37
0

C tập trung vào tháng 5;6;7.
Nhiệt độ thấp nhât là 6
0
C trong các tháng 12;1;2. Lượng mưa bình quân hàng
năm 1600-1900(mm) lượng mưa cao nhất là 2810(mm) và lượng thấp nhất là
1120(mm). Tuy lượng mưa lớn nhưng phân bố không đều cho các vùng vì
vậy nó còn ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và đời sống con người cũng
như vật nuôi.
 Đất đai và tình hình sử dụng đất tại xã Đông Sơn, huyện A Lưới, tỉnh
Thừa Thiên Huế:
25

×