Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

tìm hiểu hệ thống tín dụng ở xã quảng trung, huyện quảng trạch, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.49 KB, 63 trang )

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở nông
thôn và hơn 70% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy, sản xuất
nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong chiến lược ổn định đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Để đạt được mục tiêu của Đảng và Nhà nước
về phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn thì vấn đề vốn cho đầu tư sản xuất là một yếu tố hết sức
quan trọng.
Từ khi đổi mới khu vực nông thôn Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu đáng kể, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế. Nhận
thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và Nhà nước đã có rất
nhiều chính sách, biện pháp để thúc đẩy và hỗ trợ cho sự phát triển của hệ
thống tín dụng nông thôn để đáp ứng nguồn vốn cho người dân đầu tư phát
triển sản xuất.
Tuy nhiện, một thực tế tồn tại là hệ thống tín dụng nông thôn nước ta
vẫn còn chậm phát triển so với đòi hỏi thực tế. Theo nghiên cứu và báo cáo
của các tổ chức trong nước và quốc tế, tình trạng nghèo nàn, lạc hậu vẫn còn
phổ biến ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân chủ yếu không chỉ do thiếu vốn
sản xuất, mà khi có vốn người dân lại không biết cách sử dụng làm giảm giá
trị đồng vốn, mặt khác trình độ hiểu biết của người nông dân còn hạn chế,
phương thức sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống và lạc hậu, sử dụng
nhiều lao động với năng suất thấp… Do vậy, để phát triển nông nghiệp, thay
đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống người dân, một trong những nhiệm
vụ hàng đầu là phải mở rộng tín dụng cho khu vực nông thôn, hướng dẫn sử
dụng hợp lý đồng vốn vay để đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư và phát
triển. Cho nên việc tiếp cận đầy đủ, toàn diện đến các nguồn tín dụng vẫn là
một trong những vấn đề hết sức khó khăn của nhiều hộ nông dân. Thực trạng
này đòi hỏi hoạt động tín dụng nông nghiệp và nông thôn cần phải được cải
1


thiện hơn nữa, góp phần giúp cho người dân tiếp cận, sử dụng các nguồn tín
dụng hiệu quả hơn.
Xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình là xã mà sản
xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính, bên cạnh đó cũng có một số ngành
nghề phụ khác như mộc, nề, nón, buôn bán các hoạt động sản xuất nông
nghiệp hay phi nông nghiệp đều cần đến dịch vụ tài chính vi mô, nhu cầu vốn
tín dụng của người sản xuất khá lớn nhưng các nguồn dịch vụ tín dụng nông
nghiệp, nông thôn, cũng như các hộ được tiếp cận vay vốn còn hạn chế, cơ
chế hoạt động trong cung cấp, quản lý vốn của các tổ chức tín dụng còn nhiều
vấn đề bất cập, việc sử dụng vốn vay của hộ để đầu tư vào sản xuất nông
nghiệp, ngành nghề mặc dù có hiệu quả nhưng chưa cao. Trong điều kiện hiện
nay, phát triển tín dụng nông nghiệp, nông thôn là điều cần thiết và người vay
phải biết sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả để phát triển sản xuất, khắc
phục những điều kiện khó khăn trong cuộc sống. Vậy việc mở rộng và nâng
cao vai trò của hoạt động tín dụng trong lỉnh vực phát triển nông thôn, nông
nghiệp và nông dân trong tiến trình xây dựng nông thôn mới là rất quan trọng.
Do vậy, tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu" Tìm hiểu hệ thống tín
dụng ở xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình".
1.2.Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu các tổ chức tín dụng tại xã Quảng Trung, huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình
- Tìm hiểu thực trạng tiếp cận vốn tín dụng của hộ dân trên địa bàn xã
- Đánh giá kết quả hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn xã
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và bản chất của tín dụng
2.1.1.Khái niệm về tín dụng
*Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là “phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay
và người đi vay. Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao

2
quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho người đi vay trong thời gian nhất định,
khi tới thời hạn trả nợ người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá
cho người cho vay kèm theo một khoản lãi”.
Như vậy, khi đến thời hạn trả, bên đi vay phải có trách nhiệm thanh
toán đầy đủ cả gốc và lãi theo như điều khoản đã thoả thuận. Bên cho vay là
người chủ sở hữu của số tiền hay hàng hoá đã chuyển giao quyền sử dụng
trong một khoảng thời gian nhất định, với mục đích sinh lời.
Trong mối quan hệ trên xuất hiện một nhu cầu, đó là người cho vay
muốn bảo tồn giá trị của vốn bỏ ra và có lợi ích tăng thêm, do đó thoả thuận
với người đi vay một phần giá trị tăng thêm, phần giá trị tăng thêm đó được
gọi là lãi (lợi tức tín dụng).
Như vậy, lợi tức tín dụng là chi phí sử dụng tiền vay mà người đi vay
phải trả, đồng thời cũng là lợi ích mà người cho vay nhận được khi quyết định
chuyển giao quyền sử dụng hiện tại để tích luỹ cho tiêu dùng trong tương lai.
Trong quan hệ tín dụng này, cả hai bên đều đạt được mục đích của mình,
người đi vay giải quyết được nhu cầu về vốn đầu tư sản xuất kinh doanh,
người cho vay thì nhận được khoản lợi tức tín dụng của mình.
Sự ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với sự phân công lao động
xã hội và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong bất kỳ một xã hội nào
mà ở đó có sản xuất hàng hoá thì tất yếu ở đó có hoạt động tín dụng. Tín dụng
tồn tại và hoạt động là yếu tố khách quan và cần thiết cho sự phát triển kinh tế
xã hội. Trong điều kiện hiện nay, nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ,
sự tồn tại của các mối quan hệ cung cầu về tiền vốn là một đòi hỏi cần thiết
khách quan của nền kinh tế. Tín dụng là một hiện tượng kinh tế nảy sinh trong
điều kiện sản xuất hàng hoá. “Sự phát triển của nền kinh tế thường xuyên phát
sinh nhu cầu về vốn rất lớn và cũng xuất hiện khả năng cung ứng vốn của các
cá nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi”. Sự ra đời và phát triển của tín dụng
không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu điều hoà vốn trong xã hội mà còn là động
lực thúc đẩy tăng trưởng phát triển [1].

Dưới đây là biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng tín dụng trong 10 năm qua
từ 2001-2010. Nhìn vào biểu đồ ta thấy rằng năm 2008 tăng trưởng tín dụng
lớn nhất và đến năm 2010 lại giảm xuống khá mạnh.
3
(Tin tài chính, 8/1/2011)
Biểu đồ 1: Tăng trưởng tín dụng 10 năm trở lại đây ở Việt Nam, từ 2001 -
2010 (đơn vị: %).
Xét cụ thể sự tăng trưởng tín dụng trong năm 2010. Trong các phân
vùng được tính toán, tín dụng đối với khối SMEs (tín dụng phục vụ khối
doanh nghiệp nhỏ và vừa) có tốc độ tăng cao nhất. Năm 2010 ghi nhận mức
tăng ước đạt 30.2%, cao hơn hẳn so với các lĩnh vực hoặc nhóm đối tượng
khác, cao hơn mức bình quân 28% ước tính cho ba năm gần nhất. Một dữ liệu
chưa đủ đại diện cho khả năng lớn mạnh của nhóm đối tượng này trong năm
2010, nhưng được gắn với tỷ trọng khoảng 90% tổng số doanh nghiệp Việt
Nam hiện có.
Điểm nhấn thứ hai trong tốc độ tăng trưởng tín dụng gắn với lĩnh vực
phi sản xuất. Lĩnh vực này gắn với hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng
khoán, bất động sản và tín dụng tiêu dùng. Kết quả năm 2010 cho thấy tốc độ
tăng tín dụng ở nhóm này chỉ còn 27.20%, gần với mức tăng trưởng chung,
4
nhưng đã thấp hơn rất nhiều so với tốc độ của năm 2009 (41.74%) và chỉ
chiếm tỷ trọng 18,9% trong tổng cơ cấu dư nợ của hệ thống.
Một mảng tín dụng được các ngân hàng tập trung, thường được ưu đãi hơn,
trong năm 2010 là tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, tốc độ tăng là 26.2%. Mảng tín
dụng đối với nông nghiệp và nông thôn vẫn khá khiêm tốn khi tăng 23.2%
[25].
2.1.2.Bản chất của tín dụng
Trong thời kỳ tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy cùng với sự phát
triển của lưc lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội được mở rộng thì
quan hệ hàng – tiền cũng được hình thành và bước đầu phát triển. Tiền tệ

ngày càng thể hiện đầy đủ hơn chức năng của mình. Đây cũng chính là những
điều kiện tiền đề làm nảy sinh những quan hệ về tín dụng. Các Mác đã viết về
bản chất của tín dụng như sau: “Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu
trong một thời gian và chẳng qua chỉ là tạm thời chuyển từ tay người sở hữu
sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh
toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với
điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định”.
Đồng thời, Mác cũng quan niệm: “Trình bày nguồn gốc phát sinh của tiền tệ
nghĩa là phải khai triển các biểu hiện của giá trị, biểu hiện bao hàm trong
quan hệ giá trị của hàng hóa từ hình thái ban đầu đơn giản nhất và ít thấy rõ
nhất đến hình thái tiền tệ là hình thái mà ai nấy đều thấy” [1].
2.1.3. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng. Sau đây là một số cách phân loại:
- Cách đầu tiên.
+ Dựa theo tính chất và đặc điểm cho vay: Tín dụng vẵng lai, tín dụng
chiết khấu, tín dụng nhận trả, tín dụng cầm đồ, tín dụng bảo lảnh, tín dụng
cho thuê tài chính, tín dụng trả nhiều lần.
+ Phân loại theo thời gian: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín
dụng dài hạn.
+ Phân loại theo đối tượng cho vay: Tín dụng đối với khu vực kinh tế
quốc doanh, tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh [2].
5
- Cách thứ hai
+ Theo thời gian vay: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng
dài hạn.
+ Theo hình thức biểu hiện của vốn vay: Tín dụng bằng tiền, tín dụng
bằng hiện vật.
+Theo phương diện tổ chức và luật pháp: Tín dụng chính thức và tín
dụng không chính thức.
+Theo chủ thể tham gia quan hệ tín dụng: Tín dụng phát triển, tín dụng

nhà nước, tín dụng tư nhân trên thị trường mở rộng, tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng [3].
- Cách thứ ba: Tín dụng vốn lưu động ngắn hạn, tín dụng vốn cố định,
tín dụng luân chuyển dành cho các khoản phải trả hoặc hàng hóa dự trữ, tín
dụng dự phòng, tín dụng vốn hoạt động dài hạn [4].
Trong các cách phân loại trên, đề tài tập trung xem xét ở cách phân loại 1 và 2
2.2. Khái niệm về tổ chức tín dụng, ngân hàng và chương trình tín dụng
-Tổ chức tín dụng: Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
ngân hàng [5].
- Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng
hợp tác và các loại hình ngân hàng khác [5].
- Chương trình tín dụng; Trong nền kinh tế mở, ngoài tín dụng thanh
toán và đầu tư ở tầm vĩ mô còn có chương trình tín dụng ở tầm vĩ mô giữa các
chính phủ, các chương trình tín dụng vi mô của các tổ chức phi chính phủ,
trong nội bộ từng quốc gia, tùy theo mục tiêu chiến lược cụ thể mà các
chương trình tín dụng riêng biệt đặc thù trong từng lĩnh vực trong một thời
hạn nhất định. Đối với các tổ chức phi chính phủ có hoạt động tài chính vi mô
thì cần phân biệt thành hai loại: Các dự án chỉ có hoạt động tài chính vi mô và
dự án có hoạt động tài chính vi mô lồng ghép với các hoạt động khác [6].
6
2.3. Khái niệm tài chính vi mô
Tài chính vi mô được coi là một công cụ phát triển kinh tế mang lại lợi
ích cho người dân có thu nhập thấp, các dịch vụ tài chính nói chung bao gồm
tiết kiệm và tín dụng. Tuy nhiên một số tổ chức tài chính vi mô cũng cung cấp
các dịch vụ như bảo hiểm và thanh toán. Cùng các trung gian tài chính, rất
nhiều tổ chức tài chính vi mô cung cấp các dịch vụ trung gian mang tính xã

hội như hình thành tổ nhóm, nâng cao kiến thức về tài chính cũng như khả
năng quản lý giữa các thành viên trong một nhóm. Do đó định nghĩa về tài
chính vi mô thường bao gồm hai yếu tố: Trung gian tài chính và trung gian xã
hội, tài chính vi mô không chỉ đơn giản là một công cụ ngân hàng, nó là một
công cụ phát triển.
Tài chính vi mô có ba loại nguồn: Từ các thể chế chính thức, bán chính
thức và nguồn phi chính thức.
Các tổ chức tài chính vi mô có thể là: Các tổ chức phi chính phủ, các tổ
nhóm cho vay và tiết kiệm, các hiệp hội tín dụng, các ngân hàng quốc doanh,
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Và tín dụng nông thôn cũng là một trong các thành phần của tài chính
vi mô tôi đang nghiên cứu.
2.4. Chức năng và vai trò của tín dụng
2.4.1.Chức năng của tín dụng
- Tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế thông qua hai quá trình huy động và cho vay nhằm sử dụng vốn
có hiệu quả để giúp cho sự tăng trưởng kinh tế -xã hội.
-Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông xã hội: Khi sử dụng tín dụng
người ta có thể thay tiền mặt bằng các phương tiện tín dụng, từ đó làm giảm
lượng tiền mặt trong lưu thông nên tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
-Phản ánh và kiểm soát hoạt động kinh tế: Chức năng này phát huy
tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của hai chức năng trên, thông qua kế
hoạch huy động và cho vay của ngân hàng, sẽ phản ánh được mức độ phát
triển của nền kinh tế về các mặt, đồng thời qua nghiệp vụ cho vay, ngân
hàng có điều kiện nhìn tổng quát vào cấu trúc tài chính của từng đơn vị
7
cho vay, từ đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản
lý kinh tế của nhà nước [7].
Từ những chức năng trên, đề tài sẽ xem xét xem hệ thống tín dụng
tại địa bàn đã đạt được những chức năng nào, chức năng nào còn hạn chế,

chức năng nào được phát huy và có thêm chức năng nào khác.
2.4.2.Vai trò của tín dụng
2.4.2.1.Vai trò của tín dụng nói chung
-Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển:Trong quá trình sản
xuất kinh doanh để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh
nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn, dự trữ - sản xuất - kinh doanh.
-Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư: Nó là động lực kích thích
tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển,
qua đó cho thấy vốn tín dụng giữ một vai trò khá quan trọng trong kết cấu vốn
cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp.Tín dụng luôn là nguồn trợ thủ đắc
lực cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, là người bạn trong tiến trình sản xuất
kinh tế.
-Tín dụng là công cụ để tài trợ cho các nghành kinh tế kém phát triển
và phát triển các ngành mũi nhọn. Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là
ngành đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước và là ngành chịu nhiều tác động nhiều nhất của điều
kiện thời tiết. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt, nhà nước phải đầu tư tập
trung phát triển nông nghiệp để giải quyết nhu cầu tối thiểu của xã hội, đồng
thời thúc đẩy các ngành khác phát triển.
-Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả: Với chức năng tập trung tận
dụng các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giảm khối
lượng tiền mặt tồn động trong lưu thông. Trong điều kiện nền kinh tế bị lạm
phát thì tín dụng là một công cụ hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát.
-Tín dụng góp phần ổn định đời sống tạo công ăn việc làm, ổn định trật
tự xã hội. Nền kinh tế phát triển trong môi trường ổn định tiền tệ là điều kiện
nâng cao đời sống các thành viên trong xã hội, từ đó rút ngắn chênh lệch về
thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thay đổi cấu trúc xã
8
hội. Sự đa dạng các hình thức vay, các loại hình tín dụng đã góp phần đáng kể
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho người dân, để cải thiện đời sống, tạo công

ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo.
-Tín dụng tạo điều kiện phát triển quan hệ quốc tế, trong nền kinh tế
mở cửa hiện nay, sự phát triển của một nước luôn gắn liền với thị trường thế
giới, tín dụng liên kết các nước với nhau và đóng vai trò quan trọng trong việc
mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để
phát triển đất nước [8].
2.4.2.2.Vai trò của tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân
*Tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở một số nước
Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn ở
nhiều nước trên thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn. Tác động
của biến đổi khí hậu, sức ép từ nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học, bệnh
dịch phát triển trên phạm vi toàn cầu cùng với những bất ổn trong khu vực tài
chính tiền tệ đã đẩy ngành nông nghiệp và người nông dân đối mặt với ngày
càng nhiều thách thức.
-Tại Nhật Bản: Chính phủ khuyến khích phát triển nông nghiệp bằng
cách thành lập ngân hàng nông- công nghiệp địa phương. Vào những năm
1960, chính phủ đã có chương trình cho vay để tăng đầu tư cho nông nghiệp,
cho vay để mua sắm trang thiết bị, mở rộng đất trang trại, xây dựng cơ sở hạ
tầng. Nguồn vốn thông qua HTXNN, lãi suất cho vay phát triển nông nghiệp
là lãi suất thấp, thời gian vay dài hạn, sự hình thành của HTXNN là huy động
tiết kiệm và vốn dư thừa từ nông nghiệp và nông dân cho vay các thành phần
kinh tế kinh doanh ngoài nông nghiệp. Ngày nay theo xu thế ngày càng phát
triển, Nhận Bản càng chứng tỏ vị thế của mình trên thị trường thế giới về đủ
mọi chủng hàng, chất lượng tốt là nhờ sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho
người dân, để họ đầu tư sản xuất có kế hoạch và mang tính chuyên nghiệp từ
sản xuất nông nghiệp tới công nghiệp.
-Tại Philippin:Tín dụng nông nghiệp nông thôn khá phát triển, hệ thống
cung cấp vốn tín dụng bao gồm: Ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng tiết kiệm,
các ngân hàng thương mại và các ngân hàng chính phủ. Trong đó ngân hàng
9

nông nghiệp phát triển mạnh nhất trong lỉnh vực nông nghiệp nông thôn,
chuyên cung cấp tín dụng cho người dân nông thôn đầu tư sản xuất. Chính
phủ đã có một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp khá tốt.
Từ năm 1975, chính phủ đã bắt buộc các ngân hàng thương mại trích 25% cho
vay ngành nông nghiệp, từ năm 1986 trở lại đây, chính phủ ban hành chính
sách mới và được thực thi dưới sự bảo trợ của hội đồng chính sách tín dụng
nông nghiệp ( nội dung chính sách mới là chấp nhận cơ chế thị trường việc
tạo nguồn tài chính, thực hiện lãi suất thị trường, giảm trợ cấp ưu tiên trong
ngân hàng nông nghiệp, chấm dứt hoạt động cho vay trực tiếp của các cơ sở
nhà nước phi tài chính, cung cấp các dịch vụ và thực hiện cơ chế bảo hiểm để
giảm rủi ro khi thực hiện cho vay) [9].
Vai trò của tín dụng trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Triển khai nhiệm vụ trong năm 2010, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh, mục tiêu của toàn nghành
năm 2010 sẽ tiếp tục phát triển ổn định, bền vững sản xuất nông nghiệp, tạo
được sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng, an toàn thực phẩm,
hiệu quả và sức cạnh tranh cao, góp phần tích cực vào ổn định và tăng trưởng
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội cho khu vực nông thôn và nông dân. Để
đạt được mục tiêu này, ngành nông nghiệp cũng triển khai đồng bộ nhiều giải
pháp hỗ trợ sản xuất, đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện các chủ trương,
chính sách cho khu vực “tam nông” nhằm tạo thế và đà cho nông nghiệp,
nông thôn tiếp tục bứt phá .
Theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, mặc dù đã có những chuyển biến căn
bản, nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất
manh mún, nhỏ lẻ, phân tán. Đặc tính cố hữu này dẫn đến nhiều hạn chế
khiến không chỉ khó cơ giới hóa, năng suất thấp, giá thành cao mà nông dân
còn thiệt thòi về nhiều mặt, như các ngân hàng, tổ chức khuyến nông rất khó
đưa dịch vụ tới từng hộ nhỏ lẻ.
Điểm yếu trong sản xuất cũng khiến cho trong khâu lưu thông, xuất
khẩu, nông sản Việt Nam vẫn bị hạn chế trong khâu chế biến và tạo dựng

thương hiệu. Do đó, vấn đề lớn nhất của ngành nông nghiệp hiện nay là thay
đổi tập quán sản xuất từ nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất chuyên.
10
Chủ tịch Đỗ Hoài Nam nhấn mạnh “Chúng ta đang chứng kiến những
bức xúc xã hội đang tích đọng trong nông thôn. Bình đẳng xã hội, dân chủ cơ
sở nông thôn, hiệu lực và chất lượng hoạt động của các cấp chính quyền địa
phương, v.v… là những vấn đề lớn và phức tạp đang đặt ra gay gắt trong quá
trình phát triển của khu vực nông thôn hiện nay Vì rằng, “Tam nông” không
đơn thuần là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề xã hội, chính trị: Không có sự
ổn định của nông thôn thì không có ổn định của toàn xã hội, không có sự giàu
có của nông dân thì không có sự giàu có của cả nước, không có hiện đại hóa
nông nghiệp thì không có hiện đại hóa đất nước. Vì vậy tín dụng có một số
vai trò rất quan trọng trong phát triển nền nông nghiệp nước ta.
-Thông qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay vốn
đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng đã đóng góp vai trò
quan trọng trong việc thực hiện các chính sách việc làm, dân số, y tế, giáo
dục, các chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
-Tín dụng góp phần tạo ra và duy trì quy mô kinh doanh phù hợp, trong
hầu hết cơ sở sản xuất nông nghiệp luôn tồn tại sự lệch pha giữa nhu cầu và
khả năng về vốn. Tín dụng ra đời như một yếu tố khách quan để giải quyết sự
lệch pha này, từ nguồn vốn tín dụng, các cơ sở sản xuất nông nghiệp sẽ mua
được đầy đủ yếu tố đầu vào còn thiếu để thực hiện các hoạt động sản xuất của
mình, đồng thời duy trì các hoạt động một cách liên tục.
-Tín dụng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khai thác
tốt nguồn lực địa phương. Tính chất thời vụ thể hiện rõ nét trong sản xuất
nông nghiệp. Nguồn vốn từ các khoản tín dụng sẽ giúp người dân sản xuất
nông nghiệp bù đắp những chi phí ở thời kì chưa có thu nhập, làm cho quá
trình sản xuất được diễn ra một cách liên tục, tính tự chủ trong hoạt động sản
xuất. Ngoài ra vốn tín dụng còn giúp người dân sản xuất nông nghiệp có thể
mua sắm máy móc, mở rộng quy mô, đầu tư thâm canh để tăng năng suất,

nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm sức lao động đem lại thu nhập cho
gia đình.
-Tín dụng góp phần điều chỉnh kinh doanh: Trong nền kinh tế thị
trường, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng khắt khe, thường xuyên có sự
biến đổi, chính những thay đổi của thị trường buộc người sản xuất phải biết
11
điều chỉnh và đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Với nguồn vốn
tín dụng, họ có thể mua giống mới, áp dụng tiến bộ kỷ thuật, đầu tư dây
chuyền sản xuất tiến bộ để mang lại số lượng và chất lượng cao hơn, nâng cao
giá trị sản phẩm và luôn được thị trường chấp nhận.
- Tín dụng góp phần giải quyết các biến động và hạn chế những rủi ro
trong sản xuất nông nghiệp. Những biến động về giá cả và thiên tai là nổi lo
lớn của hộ sản xuất nông nghiệp, lúc đó các khoản tín dụng sẽ phần nào đó
khắc phục khó khăn về vốn, đảm bảo hoạt động sản xuất diễn ra theo kế
hoạch, mua yếu tố đầu vào dự trữ cho sản xuất [10].
2.5. Cơ chế tín dụng và đặc điểm của hộ gia đình sản xuất kinh doanh
2.5.1. Cơ chế tín dụng
- Lãi suất: Là giá cả của khoản co vay, được biểu hiện bằng tỉ lệ % giữa
giá trị lãi của khoản vay và khoản vay trong một thời gian nhất định [11].
-Thủ tục cho vay: Là một tập hợp các bước, các công việc cần thiết
phải tiến hành giữa người đi vay và người cho vay để thực hiện hoàn thành
theo một trình tự một nghiệp vụ tín dụng.
-Thời hạn cho vay: Là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
-Mức cho vay:
+ Đối với hình thức cho vay có thế chấp, giá trị món vay luôn được xác
định trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp.
+ Đối với hình thức cho vay theo tín chấp, mức cho vay là số tiền tối đa
mà các tổ chức tín dụng có thể cho người cần vốn vay.

2.5.2. Đặc điểm của hộ vay vốn tín dụng
- Hộ gia đình là đơn vị sản xuất cá thể mang nặng tính tự cấp, tự túc, tỷ
trọng hàng hóa sản xuất ra thường không lớn.
-Trình độ sản xuất, trình độ áp dụng khoa học kĩ thuật chưa cao.
- Sản xuất của hộ thường phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, rủi ro cao,
sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất theo thời vụ.
- Là người dân sống ở vùng nông thôn nên bản chất hiền lành, chịu khó
làm ăn, sống có tính cộng đồng cao.
12
- Người dân có ý thức cao trong vay và trả tương đối sòng phẳng.
-Trong trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng, mùa màng thất bát hộ
thường không có khả năng trả được nợ. Tuy nhiên, ý thức hoàn trả nợ để duy
trì tín dụng trong cộng đồng làng xã thường rất cao [19].
Đây là những chỉ tiêu ta có thể kiểm chứng trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu.
2.5.3. Mô hình TBP ( The theory of planned behaviour)
Mô hình thể hiện sự quan tâm của hộ trong việc hình thành ý định sử
dụng dịch vụ tín dụng .
Thang đo các yếu tố ảnh hưởng tới ý định sử dụng dịch vụ tín dụng:
- Thái độ/ sở thích: Yếu tố này được đo lường qua 5 biến quan sát; số
lượng vốn vay, lãi vay, kỳ trả lãi, thời gian đáo hạn và mức độ ưu đãi cho
người dân.
- Sự thuận tiện trong vay vốn: Yếu tố này được đo lường qua 4 biến
quan sát; thủ tục vay, số lượng giấy tờ cần thực hiện, thời hạn thực hiện và
mức độ thuận tiện trong dao dịch với nhân viên các tổ chức tín dụng.
- Điều kiện vay: Yếu tố này được đo lường qua 5 biến; việc thế chấp tài
sản, việc tín chấp bảo lảnh của các đoàn thể xã hội tại địa phương, phương án
sản xuất kinh doanh, hộ nằm trong điều kiện chính sách và mức độ thân quen
với ngân hàng.
- Trách nhiệm: Yếu tố này được đo thông qua 5 biến; mức độ mong

muốn được vay vốn tại ngân hàng, kỳ vọng của gia đình trong việc được vay
Thái độ/ sở thích
Sự thuận tiện
Điều kiện
Trách nhiệm
Ý
định
vay
vốn
13
vốn tại ngân hàng, kỳ vọng về mức tăng thu nhập của hộ khi vay vốn, trách
nhiệm đối với các khoản vay và sự quan tâm về hiệu quả vốn vay [12].
Nhìn chung các yếu tố trên tôi đều đưa vào xem xét trong đề tài nghiên
cứu của mình.
2.6.Thực trạng về hoạt động tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn và nông dân ở Việt Nam
Khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), thương mại nông nghiệp đã đóng góp lớn vào nguồn thu
ngoại tệ, tăng thu nhập cho khu vực nông nghiệp, cải thiện đời sống của hộ
nông thôn. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn, Nghị
quyết Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ đạo cần: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân: Hiện
nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có
tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền
nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng
suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; tạo điều kiện từng bước hình
thành nền nông nghiệp sạch; phấn đấu giá trị tăng thêm trong nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản tăng 3 – 3.2%/năm. Tốc độ phát triển công nghiệp và dịch
vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Gắn phát triển

kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính
trị – xã hội.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung mà Đảng và Nhà nước đã đề ra
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong bối cảnh nguồn vốn còn
hạn chế, thì việc phát triển một thị trường tài chính nông thôn là rất quan
trọng, trong đó hoạt động tín dụng phải giữ vai trò nòng cốt để tạo nguồn vốn
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn [14].
Ngày 12/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP
về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn để thay thế
Quyết định 67 nhằm tiếp tục tạo ra cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến
14
khích các tổ chức tín dụng tăng cường chuyển vốn về đầu tư cho vay đối với
lĩnh vực này theo cơ chế cho vay thương mại với lãi suất phù hợp.
Ngoài ra, Nghị định này cũng nhằm tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận
dễ dàng hơn với nguồn vốn ngân hàng thông qua việc đơn giản hóa thủ tục và
hỗ trợ những hộ dân vay vốn trong trường hợp gặp rủi ro do những nguyên
nhân khách quan, bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh…
Một điểm mới của Nghị định 41 là mức cho vay không có tài sản đảm
bảo của các đối tượng khách hàng ở nông thôn đã được nâng lên đến 50 triệu
đồng đối với cá nhân, hộ sản xuất; 200 triệu đồng đối với hộ kinh doanh, sản
xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ ở nông thôn và lên đến 500 triệu đồng đối
với HTX, chủ trang trại. Ngoài ra trong trường hợp phát sinh rủi ro trên diện
rộng theo thông báo của các cấp có thẩm quyền thì tổ chức tín dụng thực hiện
khoanh nợ trong thời gian 2 năm cho khách hàng và số lãi không thu do
khoanh nợ này được giảm trừ vào lợi nhuận trước thuế của tổ chức tín dụng.
Mục tiêu của hoạt động tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
là đáp ứng đầy đủ, kịp thời, có hiệu quả nguồn vốn cho nhu cầu phát triển
toàn diện lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói, giảm nghèo,
nâng cao mức sống của người nông dân. Để đạt được mục tiêu này, trong thời

gian qua, hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn đã có những bước phát
triển nhất định, thể hiện ở việc: (i) mạng lưới cho vay nông nghiệp, nông thôn
ngày càng gia tăng; (ii) doanh số cho vay và dư nợ tín dụng ngày càng tăng;
(iii) đối tượng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngày càng mở rộng. Các định chế
tài chính tham gia cung cấp tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn ngày
càng mở rộng . Hầu hết các NHTM đều mở rộng cho vay trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT)
được thành lập năm 1988 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 12/1990,
sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực. Mạng lưới hoạt động của NHNo
& PTNT ngày càng tăng, năm 2003 có 1726 chi nhánh, phòng giao dịch, đến
nay, NHNo&PTNT có hơn 2000 chi nhánh nằm rải rác khắp cả nước.
+ Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) được thành lập theo Quyết
định số 131/2002/QĐ – TTg ngày 4/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ nhằm
15
tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại trên cơ sở tổ chức lại
Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Qua gần 6 năm hoạt động, NHCSXH là
ngân hàng có mạng lưới lớn thứ hai trong hệ thống ngân hàng Việt Nam với
65 chi nhánh cấp tỉnh và Sở giao dịch; 601 phòng giao dịch cấp huyện, 8,649
điểm giao dịch cấp xã và trên 180,000 tổ tiết kiệm và vay vốn. Hoạt động của
NHCSXH đang từng bước được xã hội hoá, ngân hàng luôn có sự phối hợp
chặt chẽ với các hội, đoàn thể để thực hiện nghiệp vụ uỷ thác cho vay vốn ưu
đãi để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Chính phủ.
+ Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) bắt đầu từ một chương
trình thí điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng 7/1993, là hình thức hợp
tác xã tiết kiệm và tín dụng cấp xã xây dựng theo mô hình Caisse Populaire ở
Quebec, Canada. Khi đó, một trong những mục tiêu quan trọng của NHNN là
khôi phục lòng tin của hộ đối với hệ thống tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ
của hàng loạt hợp tác xã tín dụng(1). QTDND là loại hình tín dụng hợp tác
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, dịch vụ ngân hàng chủ yếu ở nông

thôn. Mục tiêu hoạt động là nhằm huy động nguồn vốn tại chỗ để cho vay tại
chỗ, tương trợ cộng đồng, vì sự phát triển bền vững của các thành viên. Theo
thống kê, hiện nay, cả nước có 989 QTDND hoạt động với tổng nguồn vốn
gần 14,000 tỷ đồng (chưa tính QTDND Trung ương và 24 chi nhánh), tổng dư
nợ hơn 12,000 tỷ đồng, thu hút gần 1.3 triệu thành viên là đại diện hộ gia
đình.
+ Các chương trình, dự án tài chính vi mô: Từ đầu thập niên 1990, các
tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài đã bắt đầu tham gia hỗ trợ kỹ thuật
cho các chương trình tín dụng cho người nghèo. Trong đó đáng kể là các tổ
chức Groupe de Recherche et d’Echanges Technologiques (GRET),
ActionAid, Développement International Des Jardins (CARE), Save The
Children Fund (Anh), và OXFAM. Các NGO đã tham gia tích cực vào việc
huy động tiết kiệm, cũng như đào tạo năng lực cho các nhóm tiết kiệm tín
dụng, và các tổ chức quần chúng. Khách hàng của các NGO là phụ nữ nghèo,
cộng đồng dân tộc thiểu số và người nghèo ở vùng sâu vùng xa; thường là
những đối tượng mà khu vực tài chính chính thức chưa đủ khả năng tiếp cận
để phục vụ.
16
Bên cạnh sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào thị
trường tài chính nông thôn, các tổ chức đoàn thể, quần chúng trong nước cũng
tích cực triển khai các chương trình, dự án tài chính vi mô lớn như chương
trình Quỹ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm (CEP) của Liên đoàn lao
động thành phố Hồ Chí Minh; Quỹ tình thương của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và mạng lưới tài chính vi mô M7. Những tổ chức quần chúng tham
gia tích cực vào hoạt động tiết kiệm và tín dụng là Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Cựu chiến binh và Hội Người làm
vườn. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ được xem là thành công nhất trong
việc đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính của các hội viên.
Những hạn chế trong hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn và
nông dân hiện nay

Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn tuy đạt được những kết quả
nhất định, song so với mức tăng tín dụng chung của toàn bộ nền kinh tế còn
thấp. Điều đó cho thấy tín dụng nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đủ cho
nhu cầu và mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả của tín dụng
ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn
chưa cao, chưa gắn kết được giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến và
thị trường tiêu thụ, tiềm năng kinh tế đồi rừng và miền ven biển ở nhiều vùng
chưa được khai thác tốt.
Sở dĩ như vậy là do:
- Trong hoạt động sản suất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều rủi ro, do
diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh luôn rình rập, thị
thường tiêu thụ sản phẩm nông sản, thực phẩm chưa ổn định, một số mặt hàng
xuất khẩu thì phụ thuộc quá nhiều vào giá cả thế giới…, thêm vào đó, công tác
nghiên cứu, dự báo kinh tế liên quan đến lĩnh vực này còn yếu nên đã gây ra hậu
quả nghiêm trọng cho sản xuất. Tất cả những điều đó đã gây những khó khăn
nhất định cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của các định chế tài chính
- Thu nhập của các hộ nông dân còn thấp, cùng với việc xử lý quyền sử
dụng đất của người nông dân còn có những bất cập, nên việc cho vay các
khoản vốn lớn để mở rộng sản xuất của hộ gia đình nông thôn là rất hạn chế.
Với chính sách cho vay không có đảm bảo đến 100 triệu không đủ để thúc
17
đẩy việc mở rộng sản xuất của các hộ gia đình, để chuyển dịch mạnh mẽ cơ
cấu nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách đất đai hiện nay cũng khó để tăng cường khả năng tích tụ
ruộng đất để mở rộng qui mô chuyên canh vật nuôi cây trồng theo mô hình
các trang trại, gia trại lớn như các nước phát triển khác. Điều này cũng hạn
chế nhất định nhu cầu vay vốn lớn để phát triển, tạo ra sự chuyển dịch mạnh
mẽ cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-NĐH.
- Công nghệ ngân hàng cũng như màng lưới viễn thông mới chỉ phát
triển ở các vùng đô thị đông dân, còn tại vùng sâu, vùng xa vẫn chưa phát

triển, hạn chế cho việc tiếp cận tín dụng của hộ, cũng như các định chế tài
chính khó có thể mở rộng mạng lưới của mình. Và điều đó cũng giải thích tại
sao các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn,
chủ yếu là tín dụng truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông
nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát
triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các
dịch vụ hỗ trợ đi kèm…
- Bên cạnh đó, phần lớn người dân ở vùng nông thôn, đặc biệt là ở khu
vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân trí không đồng đều, chưa tiếp cận hoặc
tiếp cận chưa đầy đủ các tiến bộ khoa học kỹ thuật nên nếu như không có một
sự đảm bảo, tư vấn về việc làm kinh tế, phát triển sản xuất từ phía người cung
cấp vốn thì chắc chắn họ sẽ hạn chế tiếp cận với vốn vay. Ngoài ra, vì chưa có
các sản phẩm bảo hiểm đi kèm nên nếu có sự biến động lớn về giá cả, thị
trường tiêu thụ, thiên tai, dịch bệnh,… thì khả năng trả nợ ngân hàng của hộ
cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nên các ngân hàng chỉ cho vay nhỏ giọt và
vay cầm chừng.
- Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ
của hộ đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ
chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản,
phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện
cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết
các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp cho ngân hàng
18
để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một giấy chứng nhận thì mất
rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối
với người dân có trình độ văn hóa thấp và làm nảy sinh những tệ nạn như cò
vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi,… và không đáp ứng kịp thời
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tư duy bao cấp trong hoạt động tín dụng đối với khu vực nông

nghiệp, nông thôn vẫn còn tồn tại làm tăng chi phí hoạt động của các định chế
tài chính, đồng thời tăng tính ỷ lại và bóp méo thị trường tài chính nông thôn.
- Chưa có chiến lược phát triển nông thôn phù hợp, quy hoạch vùng sản
phẩm nông nghiệp chưa rõ ràng, thị trường tiêu thụ chưa mở rộng và ổn định,
nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp kịp thời. Việc hỗ trợ kỹ
thuật cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi chưa đồng bộ, việc bao tiêu sản
phẩm chưa có kế hoạch, quy hoạch cụ thể, chắc chắn làm hạn chế mở rộng
phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều
khó khăn [13].
19
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là những hộ tham gia vay vốn tín
dụng, các tổ chức, hội, nhóm tín dụng đang hoạt động trên địa bàn xã Quảng
Trung và cán bộ cấp thôn, xã, huyện:
+ Cấp thôn: Trưởng thôn
+ Cấp xã: Phó chủ tịch xã, kế toán xã, các đoàn thể xã hội, các tổ tín
dụng, cán bộ văn hóa, cán bộ địa chính
+ Cấp huyện: Cán bộ của NHNo & PTNT và NHCSXH là người phụ
trách tín dụng của xã
3.1.2.Phạm vi nghiên cứu
Thời gian thực tập tốt nghiệp tại điểm: 03/01/2011 đến 06/05/2011 và
hoàn chỉnh khóa luận là 09-20/05/2011
Địa điểm nghiên cứu: Xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình, đây là địa bàn có hoạt động tín dụng khá phát triển.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội
+ Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, địa hình, thời tiết, đất đai

+ Điều kiện kinh tế xã hội: Dân cư và lao động, cơ cấu thu nhập
- Đặc điểm của hộ nghiên cứu
+ Số lao động, độ tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ
+ Nhà ở, diện tích đất sản xuất, cơ cấu thu nhập và thu nhập
- Hệ thống tín dụng của xã
+ Các tổ chức tín dụng: Mối quan hệ của các tổ chức tín dụng đối với
hộ dân, quy chế hoạt động của các tổ chức, những hoạt động hổ trợ khi cho
vay vốn.
- Thực trạng tiếp cận tín dụng của hộ dân
20
+ Tình hình vay vốn của hộ: Mức vay của các hộ, cơ cấu số hộ vay vốn
từ các tổ chức, mức độ tiếp cận các nguồn vốn, mục tiêu sử dụng vốn của các
tổ chức so với thực tế sử dụng vốn của hộ.
+ Kiến thức của hộ về tín dụng: Sự hiểu biết của hộ dân về các tổ chức
tín dụng. Quan điểm của hộ về quy chế hoạt động của các tổ chức: Lãi suất,
thủ tục, thái độ phục vụ của cán bộ tín dụng
+Yếu tố ảnh hưởng nhất đến quyết định vay vốn: Vấn đề quan tâm nhất
của hộ khi quyết định vay vốn, tham khảo các đối tượng để vay vốn.
- Đánh giá kết quả đạt được của các tổ chức tín dụng
+ Kết quả đạt được từ 2008-2010: Doanh số cho vay, số hộ vay, số hộ
gửi tiết kiệm, dư nợ vay của các tổ chức
+ Đánh giá của hộ về lợi ích và hiệu quả của các tổ chức tín dụng
- Thuận lợi và khó khăn của hộ khi tiếp cận vốn tín dụng

3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm và mẫu khảo sát
+ Điểm nghiên cứu phải có các hoạt động tín dụng diễn ra trong các
năm từ 2006-2010.
+ Thuận lợi cho việc điều tra thu thập số liệu trong quá trình nghiên
cứu.

Vậy tôi đã chọn xã nghiên cứu là xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình.
3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Đối với thông tin thứ cấp
+ Thu thập thông qua các báo cáo tổng kết và phương hướng phát triển
kinh tế của xã, các tài liệu liên quan.
+ Thu thập thông qua các báo cáo tổng kết của các tổ chức tín dụng.
- Đối với thông tin sơ cấp
+ Phỏng vấn sâu: những người cung cấp thông tin nồng cốt gồm: phó
chủ tịch xã; cán bộ nông nghiệp, những người phụ trách về tín dụng ở địa
phương, cán bộ ngân hàng nông nghiệp huyện Quảng Trạch, cán bộ ngân
hàng chính sách xã hội huyện Quảng Trạch.
21
+ Điều tra hộ: Điều tra hộ được tiến hành với 60 hộ tham gia vay vốn.
Những hộ này được chọn một cách ngẫu nhiên có định hướng theo tiêu chí hộ
nghèo và hộ không nghèo. Những hộ này tham gia vay vốn tín dụng từ năm
2006-2010.
3.4. Phân tích và xử lý số liệu
- Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp phân tích: Phân tích định tính và
phân tích định lượng nhằm đánh giá những hoạt động của các tổ chức tín
dụng trên địa bàn và khả năng tiếp cận vốn vay của hộ.
- Số liệu được sử lý bằng phần mềm Excel.
22
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình cơ bản của xã Quảng Trung
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lí và điều kiện thời tiết
Xã Quảng Trung là một xã thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình, đây là xã thuần nông, là xã nối liền với đường liên huyện, cách trung

tâm huyện 8 km. Nằm từ 17°44'28" đến 17°45'57" độ vĩ bắc từ 106°19'36"
đến 106°21'15" độ kinh đông. Phạm vi ranh giới: Phía bắc giáp xã Quảng
Trường, được giới hạn bởi nhánh bắc Sông Gianh. Phía nam giáp xã Quảng
Sơn. Phía tây giáp xã Quảng Tiên. Phía đông giáp xã Quảng Tân và xã Quảng
Hải. Vị trí là đầu mối giao lưu giữa các vùng lân cận thông qua Chợ Sãi. Đây
là nơi giao lưu buôn bán chủ yếu của các xã lân cận, vì vậy mà xã Quảng
Trung thuận lợi cho việc phát triển ngành nghề dịch vụ với các địa phương
khác.
Điều kiện thời tiết khí hậu là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng và các hoạt động sản
xuất khác của hộ. Xã cũng giống như những địa phương khác thời tiết mang
đậm nét đặc thù của khí hậu miền trung, thường xuyên bị lũ lụt, hạn hán là
mối đe dọa nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân. Xã
nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt. Đó là
mùa mưa và mùa khô, mùa mưa kéo dài hơn mùa nắng, mùa mưa bắt đầu từ
tháng 10 năm trước và kéo dài cho đến tháng 3 năm sau. Mùa nắng bắt đầu từ
tháng 4 và kết thúc trong tháng 9. Đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp hoạt
động của hai loại gió mùa chính, gió mùa Đông Bắc và gió Tây Nam. Gió
Đông Bắc bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm trước và kết thúc vào tháng 3
năm sau thường gây mưa lụt vào tháng 10 và tháng 11. Gió Tây Nam hoạt
động từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 8, thường gây nóng và khô hạn.
- Đất đai và đặc điểm địa hình
23
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, đóng vai trò hết sức quan trọng và
cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất. Dưới đây là biểu đồ thể hiện quy hoạch
sử dụng đất của xã từ 2005-2010.
( Nguồn: phỏng vấn cán bộ xã, năm 2011)
Biểu đồ 2: Cơ cấu sử dụng đất của xã từ 2005-2010
Nhìn vào biểu đồ 2: Ta thấy rằng có sự biến động lớn về diện tích đất
sử dụng vào các lỉnh vực từ 2005-2010, đất trồng cây, đất nuôi trồng thủy sản,

đất ở và đất xây dựng cơ bản tăng lên mạnh, còn đất chưa sử dựng giảm đáng
kể. Trong đó, đất trồng trọt năm 2010 tăng thêm 3.74% tương ứng 57.64 ha so
với năm 2005 do đo đạc địa chính, chính sách dồn điền đổi thửa và nhất là
quy hoạch sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng trồng cây hàng
năm, cây lâu năm. Đất xây dựng cơ bản và đất ở cũng tăng thêm 3.29% tương
ứng 35.75 ha so với năm 2005 do định hướng của tỉnh, huyện về mở mang
đường liên xã, liên thôn, ngõ xóm, xây dựng nhà cửa. Thời gian qua hoạt
động nuôi trồng thủy sản khá phát triển, đất nuôi trồng thủy sản tăng thêm
1.59% tương ứng 11 ha, người dân đồng loạt đào ao nuôi tôm cá nhưng năng
suất thấp, đa số người dân thua lỗ do sự thiếu hiểu biết. Cùng với sự chỉ đạo
sáng suốt của cán bộ xã, diện tích đất chưa sử dụng đã sử dụng hợp lý, không
24
để lãng phí nên diện tích đất chưa sử dụng giảm đáng kể 8.62% tương ứng
44.95 ha so với năm 2005.
Dân cư xã Quảng Trung sinh sống tập trung trên địa bàn 4 thôn, đó là:
Thôn Thượng thôn, thôn Trung thôn, thôn Biểu lệ và thôn Công hòa, là vùng
đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng. Trong đó thôn biểu lệ là vùng
đồng bằng vừa là vùng gò đồi, thôn công hòa cách trung tâm xã qua nhánh
sông gianh và là vùng thấp trũng, thường xuyên bị ngập úng và thiếu nước
sạch để sinh hoạt.
4.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội của xã năm 2010
Quảng Trung là một xã nghèo, cơ cấu thu nhập của xã gồm: Trồng trọt,
chăn nuôi, thủy sản, ngành nghề dịch vụ. Ngành nghề chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp (trồng lúa nước), nhưng diện tích đất sản xuất ít, trung bình mỗi
hộ 5 - 6 sào, hộ nhiều nhất là 15 sào. Nếu chỉ trông chờ vào lúa nước thì xã
mãi là một xã nghèo.Trong cơ chế thị trường và thời đại thông tin nên người
dân đã tìm tòi, học hỏi thêm nhiều ngành nghề mới phù hợp với bản thân và
địa phương để tăng thêm thu nhập, từng bước cải tạo cuộc sống, làm giàu cho
gia đình và xã hội. Do đó, không ít bộ phận dân cư chọn con đường xuất
khẩu lao động ra nước ngoài và đa số người dân có thêm nghề phụ; buôn bán,

làm nón lá, thợ nề, mộc dân dụng Nhìn chung đời sống kinh tế của đa phần
người dân đang cải thiện dần theo thời gian.
4.1.2.1. Sản xuất nông nghiệp
Trong cơ cấu ngành nghề tạo thu nhập của xã, trồng trọt và chăn nuôi là
hai lĩnh vực có vị trí quan trọng, tuy năng suất đưa lại qua từng năm không
cao nhưng mang tính ổn đỉnh theo thời gian.
- Trồng trọt
Bảng 1: Năng suất một số loại cây trồng chính của xã từ 2006-2010
( ĐVT: ha )
Năm/ loại
cây
Lúa cả năm
Ngô Rau các loại
Đông xuân Hè thu
2006 49 50 37.6 68
2007 48 47.5 35.3 70.2
25

×