Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

tìm hiểu vai trò của htx nông nghiệp đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân xã hương toàn, huyện hương trà, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.26 KB, 53 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Từ lâu, kinh tế HTX là một hình thức tổ chức sản xuất phổ biến ở các nước
trên Thế giới, bản thân nó xuất phát từ sự tự nguyện hợp tác của các cá nhân
mong muốn làm tăng hiệu quả công việc. Trong nông nghiệp, kinh tế HTX
đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi lẽ hoạt động nông nghiệp vốn đòi hỏi sự
hợp tác của nhiều người trong quá trình sản xuất. Kinh tế HTX trong nông
nghiệp ở nước ta hình thành khá sớm do nhu cầu tập thể hóa sản xuất và
muốn xây dựng một nền nông nghiệp có trình độ cơ giới hóa cao. Do đó nó đã
trở thành đối tượng được khuyến khích phát triển trong các chính sách nông
nghiệp của nước ta.
Những năm gần đây, nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ,
cùng với xu thế hội nhập kinh tế Quốc tế nên việc phát triển kinh tế nhiều
thành phần đang là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Ở khu vực nông thôn
nước ta thành phần kinh tế HTX trong nông nghiệp đang đóng vai trò nòng
cốt trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa quy mô lớn, góp phần cải thiện đời sống của người dân ở
vùng nông thôn.
Từ khi Luật HTX có hiệu lực đến nay, qua hơn 20 năm đổi mới, hầu hết các
HTX trên cả nước đều tiến hành đổi mới hoạt động để phù hợp với nhu cầu
phát triển chung của thời đại. Số lượng HTX làm ăn kém hiệu quả đã giảm đi,
thay vào đó là xuất hiện nhiều HTX điển hình trong sản xuất, kinh doanh hiệu
quả. Đặc biệt từ sau khi Luật HTX sửa đổi năm 2003, ngày càng có nhiều
HTX sản xuất, kinh doanh hiệu quả, hoạt động kinh doanh của nhiều HTX đã
có nhiều chuyển biến đáng kể, phát triển và dần đi vào ổn định. Ở nhiều nơi,
HTX đóng vai trò làm đầu mối trong việc tham gia các chương trình kinh tế -
xã hội của Nhà nước, góp phần không nhỏ vào việc xóa đói giảm nghèo đặc
biệt ở các khu vực vùng sâu vùng xa. Trong quá trình phát triển các HTX đã
liên minh lại với nhau để sản xuất, kinh doanh tạo nên một sức mạnh mới cho
1


mình. Chính sự thay đổi tích cực này đã góp phần đáng kể vào công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thừa Thiên Huế là một địa phương có phong trào HTX khá mạnh so với cả
nước, nó được hình thành và phát triển từ sau khi đất nước hoàn toàn giải
phóng. Hiện nay, trên toàn tỉnh có tất cả 256 HTX các loại đang hoạt động
trong đó có 162 HTX nông nghiệp [9]. Theo xu hướng chung, từ sau khi có
Luật HTX thì hầu hết các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng tiến hành
đổi mới tổ chức hoạt động để sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn nhưng nhìn
chung quy mô và hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của các HTX này vẫn
chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của kinh tế hộ.
Hương Toàn là một xã thuần nông của huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
Huế, nông nghiệp ở đây chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu nhập và thu hút
hầu hết lực lượng lao động của địa phương. Ở xã Hương Toàn hiện đang tồn
tại hai HTX nông nghiệp (HTX nông nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn). Hai
HTX này đang giữ vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp
của xã và thúc đẩy kinh tế của người dân trong lĩnh vực nông nghiệp ngày
càng phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh thì
hai HTX này đang gặp phải nhiều khó khăn làm hạn chế đến vai trò của mình
trong quá trình phát triển nông nghiệp của xã.
Trên cơ sở đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu vai trò của HTX Nông
nghiệp đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân xã Hương
Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế”
1.2. Mục tiêu đề tài
 Tìm hiểu các hoạt động chính của HTX
 Đánh giá vai trò của HTX đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của
xã viên và người dân
 Đánh giá đóng góp của HTX vào quá trình phát triển nông thôn mới
của địa phương
2
PHẦN 2

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác
2.1.1. Các khái niệm liên quan đến kinh tế hợp tác và HTX
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của
con người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung,
của lao động và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát
triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã
hội hóa sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác
dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển của các hình thức và thính
chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp hơn, phản ánh một phạm vi hợp tác - hợp tác
trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế hợp
tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết
hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải
quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống kinh tế,nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ thì
kinh tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ
có điều kiện phát triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được xây dựng
trên nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ độc lập của
các thành viên tham gia. Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là nhu cầu khách
quan. Quá trình hợp tác được thực hiện bằng nhiều hình thức từ đơn giản đến
phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Trình độ xã hội hóa sản xuất càng phát
triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác càng sâu rộng, do đó
tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở
trình độ cao hơn. [1, 11-13]
HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp
sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh của tập thể của
từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt

3
động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ,
vốn tích lũy và các vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật.[6]
HTX nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng
xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ
cho kinh tế hộ gia đình của các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh
doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ,
vốn tích lũy và các vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật.[7]
2.1.2. Vai trò của kinh tế hợp tác trong nền kinh tế
Hợp tác lao động có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Hợp tác
trong phạm vi xí nghiệp làm cho năng suất và hiệu quả lao động tăng
lên. Trong bộ tư bản, Mác đã phân tích rõ ưu thế của hợp tác lao động
thông qua việc phân tích ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong nông nghiệp.
Có thể khái quát những ưu thế này trên một số phương diện như:
 Bổ sung cho sự khéo léo của mỗi lao động cá thể
 Giải quyết được những công việc nặng nhọc mà một người không thể
làm được
 Giải quyết kịp thời những công việc mang tính thời vụ
 Tạo ra sự kích thích thi đua giữa những người lao động
 Chuyên môn hoá việc sản xuất những chi tiết sản phẩm, tạo điều kiện
để cải tiến công cụ sản xuất

4
Trên phạm vi toàn xã hội hợp tác lao động giữa các chủ thể độc lập đáp ứng
nhu cầu đa dạng về sản phẩm cho sản xuất và tiêu dùng của con người. Từ đó,
nó tác động mạnh mẽ trở lại thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã
hội, làm xuất hiện những ngành nghề mới, mở rộng mối quan hệ giao lưu
kinh tế. Đồng thời nó cũng tạo ra sự cạnh tranh về sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm có hiệu quả nhất. [4]
2.1.3. Tính tất yếu khách quan về sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của
vấn đề hợp tác hóa trong nông nghiệp
Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn quá trình phát triển kinh tế hàng hóa
diễn ra trên Thế giới đều chỉ rõ kinh tế hợp tác và HTX là đòi hỏi khách quan
của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh trong
kinh tế thị trường càng gay gắt thì người lao động riêng lẻ, các hộ sản xuất cá
thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với
nhau trong sản xuất kinh doanh, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển.
Phát triển kinh tế hợp tác và HTX còn là con đường để giải quyết mâu thuẫn
giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hóa lớn nhằm đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa. Chính vì vậy, kinh tế hợp tác và HTX đã
có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu trong lòng các nước
tư bản chủ nghĩa và ngày nay tại các nước phát triển, kinh tế HTX phát triển
rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. [3]
Những hộ tiểu nông cá thể không thể không liên kết lại trước những diễn biến
phức tạp của điều kiện tự nhiên, trước sự chèn ép của các cơ sở kinh doanh
lớn trong lĩnh vực cung ứng vật tư kỹ thuật và tiêu thụ nông sản phẩm Sự
liên kết tự nhiên đó đã gắn bó những người sản xuất nhỏ trong các tổ chức
kinh tế (được gọi là HTX) theo yêu cầu sản xuất của họ.
C.Mác cho rằng đối với “nghề nông hợp lý” thì phải có “Bàn tay của người
tiểu nông sống bằng lao động của mình” hoặc phải có “sự kiểm soát của
những người sản xuất có liên quan với nhau”. Khi nói về sự liên kết giữa
những người nông dân, F.Ănghen chỉ rõ: “Liên hiệp kinh tế của nông dân với

hiệp hội mà trong đó có thể ngày càng giảm bớt sự bóc lột lao động làm thuê,
những hiệp hội đó dần dần sẽ chiếm được đa số áp đảo những bộ phận cấu
thành của hiệp hội sản xuất toàn xã hội ”. Khi nói về tính tất yếu của sự hợp
5
tác trong nông nghiệp, Cauki cũng chỉ ra: “Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của nền nông hộ đã dẫn đến nhu cầu hợp tác phong phú, nhiều vẻ”.
Từ các luận điểm trên đã cho thấy hợp tác hoá nông nghiệp là một xu hướng
phát triển tất yếu xuất phát từ yêu cầu sản xuất của những người sản xuất tiểu
nông. Trên thực tế, sự phát triển nông nghiệp trên thế giới đã chứng tỏ các
luận điểm trên là hoàn toàn đúng đắn và HTX là một tổ chức kinh tế thu hút
nông dân sản xuất nhỏ với mức độ, quy mô và hình thức khác nhau. Nhiều
mô hình HTX điển hình được hình thành ở các nước trên thế giới (như hợp
HTX cung ứng phân bón hoá học, HTX tiêu thụ rau, HTX nuôi gà, nuôi ong,
HTX tín dụng ) đã chứng tỏ sự cần thiết của HTX nông nghiệp trong khu
vực kinh tế nông thôn.[2]
Đối với sự phát triển của nước ta, kinh tế hợp tác và HTX không chỉ là những
hình thức tổ chức của kinh tế nhằm xã hội hóa lực lượng sản xuất và lao động,
mà còn là nhân tố rất quan trọng để xây dựng, thiết lập quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa để làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh và giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; kinh
tế hợp tác và HTX cũng là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao
động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công – nông – trí thức. Do
đó, phát triển kinh tế hợp tác và HTX là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế tập thể, nòng
cốt là HTX dưới tác dụng chủ đạo của kinh tế Nhà nước ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.[3]
2.1.4. Đặc điểm hợp tác hoá trong nông nghiệp
Hợp tác giữa những người nông dân gắn liền với sự lệ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, đặc tính sản xuất phân tán, tự sản tự tiêu và đặc biệt là tâm lý tư hữu,

tầm nhìn hạn hẹp của người sản xuất nhỏ tiểu nông. F.Ănghen cho rằng:
“Phải để cho người nông dân có thời giờ suy nghĩ trên mảnh đất của họ”.
Trong tác phẩm Bàn về chế độ hợp tác, mặc dù cho rằng “HTX là bước quá
độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, để tiếp
thu nhất đối với nông dân” nhưng V.I Lênin đã nhắc nhở phải kiên trì giáo
dục, thuyết phục người nông dân và khi nói về sự nôn nóng vội vàng đưa
6
nông dân vào HTX V.I.Lênin đã cảnh báo rằng: “Chính sách đó sẽ bị phá sản
đối với một Đảng nào muốn dùng nó”.
Từ đặc điểm trên cho thấy hợp tác hoá trong nông nghiệp là một vấn đề cực
kỳ phức tạp nên không thể nóng vội mà phải kiên trì và điều quan trọng là
hợp tác hoá phải được tiến hành trước hết trên cơ sở tôn trọng lợi ích và sự tự
nguyện của nông dân.[2]
2.2. Tình hình phát triển của hợp tác hóa trong nông nghiệp trên Thế giới
và ở Việt Nam
2.2.1. Trên Thế giới
Trên thế giới, tỷ lệ nông dân tham gia HTX chưa phải là cao (ở Philipin chỉ có
khoảng 10% nông dân hoạt động trong các HTX, tỷ lệ này ở Thái Lan là 4 -
5%, ở Hàn Quốc là 15%, ở Nhật Bản là 18% ). Tuy nhiên điều quan trọng là
tính thiết thực của vấn đề; các HTX không nhất loạt ra đời cùng một lúc mà
được thành lập vào thời điểm khác nhau tuỳ theo sự chín muồi của chúng.
Nông dân chỉ vào HTX khi cần thiết (ở Đài Loan lúc đầu các hộ nông dân khá
giả thường chưa vào HTX, nhưng sau này khi kinh tế HTX phát triển, thị
phần của HTX lớn dần thì những người này mới lại muốn gia nhập HTX);
Các HTX thường phải giải quyết những khâu mà bản thân một nông dân riêng
lẻ khó có thể tự đảm nhận như áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, chế biến và
tiêu thụ nông sản, tín dụng, Thông thường khi đã đăng ký hoạt động HTX
thường được sự hỗ trợ ban đầu của Chính phủ về kỹ thuật và tài chính [2]
Một số mô hình phát triển HTX ở các nước
Tại Nhật Bản

Từ 1870-1890 ở Nhật đã xuất hiện các HTX sản xuất lụa và chè. Một thế kỷ
trước, năm 1900, luật tổ hợp tác sản xuất được ban hành quy định 4 nội dung
hoạt động chính của các HTX lúc đó: cung ứng vật tư nguyên liệu phục vụ
sản xuất, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, sử dụng tập thể các máy móc thiết bị.
Khác Với đài Loan và Hàn Quốc, Nhật không ép buộc nông dân xây dựng
một hệ thống HTX từ trung ương xuống địa phương. Sau 20 năm phát triển,
khi các HTX cơ sở đã trưởng thành, thực sự hình thành nhu cầu liên kết và
phối hợp toàn quốc, Liên hiệp HTX toàn quốc mới ra đời.
7
Một đặc điểm nổi bật khác của HTX nông nghiệp Nhật Bản đó là hình thức
hợp tác trong phân phối chứ không hợp tác trong sản xuất. HTX nông nghiệp
chịu trách nhiệm thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu: thứ nhất là cung cấp cho
nông dân các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, hoá
chất nông nghiệp, thức ăn, trang thiết bị sản xuất và kỹ thuật cho sản xuất
trồng trọt và chăn nuôi gia súc cũng như các hàng hoá cần dùng cho nông hộ:
thứ hai là giúp cho người nông dân tiêu thụ các sản phẩm bằng cách thu gom,
bảo quản dự trữ và bán các sản phẩm nông nghiệp và vật nuôi dựa vào mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm quốc gia và quốc tế.
Theo Luật HTX nông nghiệp, năm 1972, Liên hiệp các HTX nông nghiệp
quốc gia Nhật Bản (ZEN-NOH) chính thức được thành lập và được chính phủ
giao thực hiện các mục tiêu về phát triển nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống
HTX nông nghiệp Nhật Bản được phân làm 3 cấp, hoạt động với tôn chỉ dựa
vào sự nỗ lực hợp tác giữa các HTX nông nghiệp cấp cơ sở, các liên đoàn cấp
tỉnh và cấp trung ương tạo thành một bộ máy thống nhất hoàn chỉnh từ trung
ương đến địa phương.
Một trong những đặc trưng nổi bật của HTX nông nghiệp Nhật Bản là hình
thức HTX nông nghiệp đa chức năng về hoạt động kinh doanh. Các HTX đa
chức năng không bị hạn chế về qui mô hoạt động, họ tham gia hầu hết các
hoạt động và dịch vụ từ marketing, cung ứng vật tư, nhận tiền gửi và cho vay,
bảo hiểm, hướng dẫn kinh doanh nông nghiệp cho nông dân.

Tại Hà Lan
Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Hà Lan rất phát triển, mỗi trang trại thường
tham gia nhiều hoạt động của nhiều HTX. Các HTX dịch vụ phục vụ nông
nghiệp ở Hà Lan ra đời cuối thế kỷ 19, khi kinh tế trang trại bắt đầu đi vào
sản xuất hàng hóa và phát triển cho đến ngày nay. HTX cung ứng đầu tiên ra
đời từ năm 1877, HTX sữa từ năm 1886, HTX tiêu thụ rau quả từ năm 1887
và năm 1896 HTX tín dụng nông nghiệp đầu tiên được thành lập cùng với
HTX chế biến củ cải đường và bột.
Đến thời kỳ 1939-1945, mạng lưới HTX dịch vụ phục vụ nông nghiệp và
nghề làm vườn ra đời theo hướng chuyên ngành theo từng loại sản phẩm và
phần lớn hộ nông dân thường tham gia vào 3 - 4 HTX.
8
Trong quá trình phát triển, các HTX trong nữa thế kỷ gần đây giảm nhiều về
số lượng, cụ thể HTX tín dụng từ 1.322 cơ sở, HTX cung ứng từ 1.160 cơ sở
thời gian 1949-1950 đã giảm xuống còn 935 cơ sở (tín dụng) và 107 cơ sở
cung ứng. Việc giảm số lượng HTX, sáp nhập HTX quy mô nhỏ thành quy
mô lớn để tập trung nguồn vốn và các điều kiện khác đã tạo năng lực kinh
doanh hiệu quả dịch vụ của HTX đối với nông dân, tạo ưu thế cạnh tranh của
HTX trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường nước ngoài.
Vì vậy kim nghạch xuất khẩu nông sản có sự tham gia của các HTX chiếm
25% khối lượng kim nghạch xuất khẩu của Hà Lan. Các HTX xuất khẩu các
mặt hàng chủ yếu: thịt bò, thịt gia cầm, sữa, trứng, rau quả, hoa tươi. Riêng về
hoa, Hà Lan chiếm 60% thị trường thế giới. Ngoài ra các HTX tham gia nhập
khẩu ngũ cốc và nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc.[4]
2.2.2. Thực trạng về hợp tác hóa trong nông nghiệp ở Việt Nam
2.2.2.1.Thực trạng chung
Ở Việt Nam sau cải cách ruộng đất Đảng và Chính phủ ta đã hướng nông dân
tham gia các HTX sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian ngắn (1958 - 1960),
85% nông dân miền Bắc đã vào HTX và tỷ lệ đó cũng đã khá cao đối với cả
nước sau này. Sự tiến triển của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp Việt Nam

có thể thấy qua 2 thời kỳ (Trước và sau “Đổi mới”).
 Trước “Đổi mới”
Do quan điểm ấu trĩ về phát triển kinh tế, chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý
tập trung gò bó, vấn đề tập thể hoá và mở rộng quy mô HTX được coi trọng.
Từ đó Chính phủ Việt Nam đã định ra các bước đi của phong trào hợp tác hoá là:
Thứ nhất: Từ thấp lên cao (thuộc quan niệm về tập thể hoá về tư liệu sản
xuất). Số HTX bậc cao tăng nhanh và đạt tỷ lệ tương đối cao (năm 1960 là
10,8%; năm 1965 là 60,1%, năm 1975 là 88%)
Thứ hai: Từ nhỏ đến lớn (thường là quy mô xã)
- Những kết quả chủ yếu từ phong trào hợp tác hoá là
+ Bảo đảm chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, giữ gìn hậu thuẩn vững
mạnh cho công cuộc chống Mỹ cứu nước, đấu tranh thống nhất đất nước.
+ Bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới trong nông
nghiệp, nâng cao năng lực cây trồng, vật nuôi và nâng cao đời sống nông dân.
9
+ Góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao trình độ thâm canh cho
người lao động.
+ Phát triển liên kết kinh tế trong nông thôn, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.
- Những mặt yếu kém chủ yếu của phong trào hợp tác hoá trước “Đổi mới” là:
+ Nhận thức ấu trĩ, đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá.
+ Nóng vội, ồ ạt, nặng về hình thức trong chỉ đạo.
+ Cứng nhắc về cơ chế quản lý và chính sách điều hành.
Rất tiếc tình trạng kéo dài trên chậm được phát hiện và được lặp lại máy móc
ở miền Nam sau ngày giải phóng. Hậu quả trên dẫn đến tình trạng trì trệ kéo
dài trong sản xuất, phát sinh nhiều mâu thuẫn về kinh tế, xã hội. Trước tình
hình đó, năm 1981 Chỉ thị 100BBT (khoá IV) về “Cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong HTX
sản xuất nông nghiệp” ra đời. Tuy Chỉ thị 100BBT chưa phải là sự đổi mới
căn bản về cơ chế quản lý trong nông nghiệp nhưng đã làm cho người lao
động quan tâm hơn đến công việc của mình và kết quả là từ năm 1981 đến

1984 (mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi) nhưng sản lượng lương
thực tăng lên liên tục, nông nghiệp được phát triển hơn.
Sự không bền vững của cơ chế quản lý cũ cộng với sai lầm của chính sách
Giá - Lương - Tiền năm 1985 đưa kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng và tất yếu dẫn đến đòi hỏi phải đổi mới triệt để.
 Sau “Đổi mới”
Sự thay đổi của nông nghiệp nông thôn Việt Nam được kể đến như là một
thành tựu từ sau khi có Nghị quyết 10 BCT (13/4/1988) của Bộ chính trị về
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Theo tinh thần đó, hộ nông
dân được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ, được tự quyết định lấy mọi hoạt
động kinh tế của mình. Từ đấy mọi hoạt động của hộ trở nên thiết thực hơn và
mọi nhu cầu hợp tác của nông dân cũng bắt nguồn từ yêu cầu sản xuất của họ.
- Theo tinh thần Nghị quyết 10 BCT, hoạt động của các HTX nông nghiệp đã
có sự thay đổi căn bản:
+ Hộ xã viên được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh với diện tích đất
được giao tạm thời (5 năm), được quyền lựa chọn các yếu tố đầu vào, tự quyết
định việc bán sản phẩm Quan hệ giữa HTX và xã viên không phải là quan
10
hệ chỉ huy và bị chỉ huy như trước mà xã viên được chủ động lựa chọn dịch
vụ từ HTX hoặc từ các thành phần kinh tế khác.
+ HTX không quản lý tập trung các tư liệu sản xuất như trước, không điều
hành từng khâu, từng việc, từng thời gian như trước mà chức năng chỉ huy đã
được thay thế bằng chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ.
+ Bộ máy quản lý của HTX gọn nhẹ hơn (phổ biến giảm 40 - 50% cán bộ
quản lý), từ đó chi phí quản lý giảm, tệ tham ô lãng phí giảm, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của xã viên tăng lên.
+ Quy mô HTX được điều chỉnh (chia tách các HTX quá lớn hay sáp nhập
một số HTX nhỏ).
Trong những năm đầu thực hiện Nghị quyết 10 BCT kinh tế hộ phát triển khá
nhanh chóng, nhưng vẫn còn không ít các HTX khá lúng túng trước cơ chế

quản lý mới.
Năm 1993 cả nước có khoảng 64% nông hộ HTX nông nghiệp. Sau khi ban
hành luật Đất đai (năm 1993) và sau Nghị định 64 CP của chính phủ về việc
giao đất cho hộ nông dân sử dụng lâu dài, tính tự chủ trong hoạt động kinh tế
hộ được phát huy một cách cao độ.[2]
2.2.2.2. Phát triển HTX theo Luật
Năm 1997 Luật HTX được ban hành, các hợp tác trên mọi vùng của đất nước
đều được hướng dẫn chuyển đổi theo Luật. Sự chỉ đạo về việc chuyển đổi xã
HTX theo Luật được quán triệt tới mọi vùng nông thôn. Cán bộ các cấp được
phổ biến tinh thần cho chuyển đổi, được tập huấn cách làm trong chuyển đổi
và các bước chuyển đổi HTX đều được tổ chức thực hiện theo quy trình thống nhất.
Thực trạng hợp tác hóa trong nông nghiệp ở các vùng diễn ra với các đặc trưng sau:
+ Vùng đồng bằng Sông Hồng: Nhiều HTX đã hình thành và hoạt động dịch
vụ trong nhiều năm nay, cơ sở vật chất kỹ thuật (trước hết là thủy lợi và điện)
tương đối khá, nhiều HTX còn vốn quỹ, cán bộ HTX ít nhiều đã qua đào tạo.
+ Vùng miền núi và trung du phía Bắc: Nhiều nơi sản xuất còn mang nặng
tính tự sản xuất, tự tiêu phân tán nên chủ yếu là xây dựng các tổ hợp tác nhằm
quản lí sử dụng tốt các công trình xây dựng cơ bản, đồng thời tiếp nhận sự hỗ
trợ về vốn và vật tư cho nông dân.
11
+ Vùng khu 4 cũ và Duyên hải miền trung: là vùng có điều kiện sản xuất khó
khăn, cơ sỏ vật chất kỹ thuật và điều kiện sản xuất của nông hộ thấp kém nên
một số nơi có điều kiện sẽ phát triển các HTX dịch vụ đa dạng, còn lại chủ
yếu xây dựng các tổ hợp tác.
+ Vùng đồng bằng miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên: Là vùng phát triển
mạnh về cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi hàng hóa nên nông dân
được khuyến khích xây dựng các tổ hợp tác giúp nhau vay vốn, chế biến tiêu
thụ sản phẩm, tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, nơi có đủ các điều kiện thì
hướng dẫn nông dân xây dựng các HTX.
+ Vùng đồng bằng Sông Cửu Long: Tiếp tục phát triển các tổ hợp tác đa dạng

làm cơ sở để xây dựng các HTX mới nhằm thực hiện các dịch vụ sau thu
hoạch và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.[4]
2.2.3. Tình hình phát triển HTX Nông nghiệp ở tỉnh Thừa Thiên Huế
2.2.3.1. Thực trạng tình hình HTX NN ở tỉnh Thừa Thiên Huế trước
năm 1997
Phong trào hợp tác hóa ở tỉnh Thừa Thiên Huế bắt đầu vào thời kỳ
1977-1978. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đại bộ phận nông dân hăng
hái gia nhập HTX đi theo con đường làm ăn tập thể mà Đảng và Nhà nước đã
dẫn dắt. Quá trình hình thành và phát triển HTX đã góp phần làm ổn định tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn.
Do áp dụng theo mô hình HTX kiểu cũ vốn chứa đựng nhiều khuyết tật như:
tập thể hóa tư liệu sản xuất một cách cao độ, ruộng đất HTX quản lý, các
khâu công việc HTX điều hành tập trung, bộ máy quản lý HTX cồng kềnh và
kém hiệu lực, chế độ phân phối công điểm, bao cấp nặng nề, vốn quỹ của
HTX sử dụng không đúng mục đích kinh tế, bản thân người lao động không
được làm chủ tư liệu sản xuất, không làm chủ trong quá trình sản xuất nên
không khai thác hết tiềm năng lao động, đất đai không phát huy được hiệu
quả sản xuất.
Khắc phục tình trạng trên, từ năm 1981, thực hiện Chỉ thị 100 của Ban bí thư
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động nông dân phấn khởi đón
nhận, khơi dậy sinh khí mới cho nông thôn, gợi mở hướng tìm tòi mới. Tuy
vậy đây chỉ là bước đột phá của giải pháp tình thế.
12
Thực hiện nghị quyết 5 của ban chấp hành Trung ương Khóa VII về tiếp tục
đổi mới và phát triển xã hội ở nông thôn, thực hiện Nghị quyết 64 CP về giao
đất nông nghiệp cho hộ nông dân sử dụng lâu dài, những quan điểm mới về
kinh tế hợp tác của Nghị quyết 5 là cơ sở ra đời nhiều hình thức hợp tác đa
dạng có hiệu quả ở nông thôn, hợp tác từng khâu dịch vụ, điều hành sản xuất.
Tất cả trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ.[8]
2.2.3.2. Hiện trạng các HTX NN thực hiện Luật 1997 đến năm 2003

Việc chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX từ năm 1998 đến năm
2003 đều nhằm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và thực hiện
Nghị quyết số 13/NQ-TW lần thứ 5 khóa IX về “Tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” Phong trào HTX ở Thừa Thiên Huế đã
có nhiều chuyển biến tốt về số lượng, chất lượng như: Chia tách, sát nhập,
giải thể HTX, chuyển đổi HTX cũ thành lập HTX mới theo Luật. Các chuyển
biến đó đã giúp cho quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối và
nội dung hoạt động ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Quá trình đổi mới
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, ngày
càng nhiều mô hình HTX hoạt động có hiệu quả. Kết quả sau 5 năm thực
hiện chuyển đổi từ khi thực hiện NQ 04-NQ/TU Thừa Thiên Huế từ ngày
21/8/1997 đến năm 2003 thì có 149 HTX chuyển đổi theo luật, 9 HTX thành
lập mới, 4 HTX chưa chuyển đổi được. [5]
2.2.3.3. Tình hình phát triển HTX từ năm 2003- 2010
Luật HTX sửa đổi năm 2003 cùng các văn bản hướng dẫn đã thể chế hóa
quan điểm của NQ số 13/NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể, tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển. Từ sau
năm 2003 nhiều HTX đã khắc phục trình trạng suy thoái, mặc dù số lượng
HTX giảm nhưng tỷ lệ HTX kinh doanh có hiệu quả lại tăng dần lên trong
quá trình hoạt động theo luật mới, thúc đẩy việc tổ chức lại và khuyến khích
thành lập mới HTX, Liên hiệp HTX, minh bạch hóa thủ tục thành lập và đăng
ký kinh doanh. [5]
13
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là hai HTX nông nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn, các xã viên của 2 HTX đó
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 03/1/2011 đến 06/5/2011

- Địa điểm nghiên cứu: Tại HTX nông nghiệp Tây Toàn và HTX nông nghiệp
Đông Toàn, xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nội dung nghiên cứu: Vai trò của HTX nông nghiệp đối với hoạt động sản
xuất nông nghiệp của xã viên.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1.Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Hương Toàn
3.3.2. Tổng quan tình hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ của HTX nông
nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn
3.3.2.1. Quá trình thành lập và phát triển của 2 HTX
3.3.2.2. Tình hình số lượng xã viên, nhân sự và cơ cấu tổ chức 2 HTX
3.3.2.3. Nguồn vốn và cơ sở vật chất
3.3.3. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của 2 HTX
3.3.3.1. Hoạt động sản xuất
- Trồng trọt: năng suất, sản lượng của sản xuất lúa và hoa màu của 2 HTX
- Chăn nuôi: tổng số lượng đàn gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản của 2 HTX
3.3.3.2. Hoạt động kinh doanh dịch vụ
- Dịch vụ sức kéo, thủy lợi
- Dịch vụ cung ứng vật tư đầu vào
- Dịch vụ hỗ trợ vốn sản xuất
- Bảo vệ thực vật
- Các hoạt động dịch vụ khác: bảo vệ nông, khuyến nông, chuyển giao các mô
hình kỷ thuật mới…
14
3.3.4. Đóng góp của 2 HTX vào quá trình phát triển nông thôn mới của
địa phương
3.3.5. Những đóng góp tích cực của HTX đối với đời sống sinh hoạt hàng
ngày của xã viên
- Hỗ trợ gia đình chính sách, neo đơn, nghèo khó vào các dịp lễ tết, giáp hạt
- Trợ tang, phúng điếu xã viên qua đời
- Lập quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ An ninh quốc phòng

- Hỗ trợ kinh phí cho các đoàn thể hoat động
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1.Chọn mẫu nghiên cứu
- Mẫu khảo sát: 50 hộ là xã viên của HTX và chọn theo phương pháp ngẫu
nhiên với tỷ lệ hộ Khá - Trung bình - Nghèo đã định trước.
Phỏng vấn người am hiểu: Ban chủ nhiệm của 2 HTX và những người am
hiểu về nội dung nghiên cứu
- Yêu cầu mẫu khảo sát:
Là xã viên của HTX và có sử dụng các dịch vụ của HTX
3.4.2.Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Tổng quan các tài liệu liên quan phục vụ quá trình nghiên cứu của đề tài, thu
thập các tài liệu thứ cấp bao gồm các báo cáo KT-XH của xã và báo cáo hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của hai HTX
Thu thập các tài liệu thứ cấp từ các nguồn khác như internet, sách báo, các bài
tạp chí và trên các phương tiện truyền thông.
3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
Tiến hành thu thập các thông tin sơ cấp về các vấn đề liên quan đến HTX của
xã viên, các vấn đề về quản lí điều hành của HTX, các dịch vụ mà HTX cung
ứng cho xã viên… Sử dụng các công cụ như phỏng vấn sâu người am hiểu,
phỏng vấn hộ theo bảng hỏi bán cấu trúc, thảo luận nhóm xã viên.
- Phỏng vấn hộ: Tiến hành khảo sát 50 hộ là xã viên của HTX (25 hộ của
HTXNN Tây Toàn, 25 hộ của HTXNN Đông Toàn) ở hai thôn thuộc hai
HTX, mẫu phỏng vấn phải được chọn ngẫu nhiên với tỷ lệ hộ Khá - Trung
bình - Nghèo được định trước. (tương ứng với tỷ lệ hộ Khá - Trung bình -
Nghèo của thôn khảo sát)
15
- Thảo luận nhóm: tiến hành hai cuộc thảo luận nhóm xã viên, mỗi cuộc gồm
khoảng 7-10 xã viên. Nội dung thảo luận là đánh giá vai trò của HTX và đánh
giá chất lượng của một số dịch vụ nông nghiệp mà HTX đang cung cấp cho
xã viên.

3.4.4. Xử lí số liệu
- Đối với các thông tin mang tính chất định tính thì tiến hành tổng hợp, so
sánh rồi rút ra các nhận định, nhận xét.
- Đối với các thông tin mang tính chất định tính thì tiến hành mã hóa và xử lí
số liệu bằng phần mềm Excel sau đó rút ra các nhận xét.
16
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Hương Toàn
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Hương Toàn thuộc huyện Hương Trà nằm ở vị trí phía Bắc TP Huế và
theo Quốc lộ 1A 9Km, cách trung tâm huyện về phía Tây Nam 6Km.
Có toạ độ địa lý :
Phía Đông giáp xã Hương Vinh, Hương Sơ.
Phía Tây giáp xã Hương Xuân.
Phía Nam giáp xã Hương Chữ.
Phía Bắc giáp xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền.
Tổng diện tích tự nhiên 1.220 ha, toàn xã có 12 đơn vị thôn, giáp.
Là một xã đồng bằng của huyện Hương Trà chủ yếu là diện tích ruộng thấp
trũng, có chiều dài 5km tuyến đường tỉnh lộ 8B đi qua đã được xây dựng hoàn
thành năm 2000 chạy dọc từ làng Hương Cần đến Nam Thanh khá thuận lợi
cho việc vận chuyển hàng hoá.
4.1.1.2. Địa hình
Hương Toàn là một xã có địa hình, địa thế đơn giản giới hạn độ cao so với
mực nước biển không quá 2,2m; thấp nhất 0,2m. Hình dạng bề mặt chủ yếu là
bằng phẳng, đều được cấu tạo bởi trầm tích trẻ gồm chủ yếu là đất phù sa
được sông bồi đắp, thành phần cơ giới thịt trung bình, tầng đất canh tác
thường dày >10cm, rất thuận lợi cho lúa và rau màu phát triển.
4.1.1.3. Khí hậu

Khí hậu của xã Hương Toàn cũng mang tính chất chung thời tiết của huyện
Hương Trà, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm riêng của khí hậu vùng
đồng bằng.
- Chế độ thuỷ nhiệt : Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,0
o
C, nhiệt độ cao
nhất là 40
o
C, nhiệt độ thấp nhất là 10,5
o
C. Tổng tích nhiệt năm là 9150
o
C, số
giờ nắng trung bình năm là 1952 giờ.
17
- Chế độ mưa : Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung mưa bắt
đầu từ tháng 9 và kết thúc vào cuối tháng 12 hàng năm. Lượng mưa tập trung
cao nhất từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, vào những tháng này thường xảy
ra lũ lụt và lượng mưa giai đoạn này chiếm 70 – 75% lượng mưa cả năm,
lượng mưa trung bình năm 2.500mm, lượng mưa thấp nhất 200mm. Số ngày
mưa bình quân hàng năm là 153 ngày.
- Chế độ gió: Diễn biến theo mùa và được phân thành hai mùa rõ rệt
+ Gió Tây Nam khô nóng xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm
+ Gió Đông Bắc ẩm lạnh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mang
theo không khí lạnh. Tháng 1 thời kỳ gió Đông Bắc hoạt động mạnh nhất.
Bão thường xuyên xuất hiện từ tháng 8, tập trung và thường xảy ra từ
tháng 9 đến tháng 10.
- Độ ẩm : Độ ẩm tương đối bình quân là 84,5% độ ẩm thấp tuyệt đối là 15%,
tính chất của các dòng không khí khác nhau trong các mùa đã tạo nên thời kỳ
khô và ẩm khác nhau, mùa đông có độ ẩm lớn và có nhiều mưa nhất.

- Thuỷ văn : Ranh giới phía Bắc của xã là lưu vực sông Bồ. Lưu lượng nước
mùa mưa lớn, mực nước lũ trung bình hàng năm lên tới 1,5m, riêng mực nước
lũ tháng 11 năm 1999 lên tới trên 3m, lòng sông hẹp, quanh co, nhưng không
dốc, do đó nước trong mùa mưa thoát chậm, gây ngập úng. Lưu lượng nước
lớn cho nên gây hiện tượng sạt lở bờ sông. Ngoài ra trong xã có nhiều con hói
nhỏ góp phần điều hoà nguồn nước, thuận lợi cho cung cấp nước đồng ruộng.
( Nguồn: Kế hoạch phát triển nông nghiệp xã Hương Toàn)
4.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Toàn xã có hơn 85% dân số sống về nông nghiệp và các ngành nghề thủ
công như nấu rượu gạo, làm cốm, chằm nón, làm bún và các ngành nghề dịch
vụ. Trên địa bàn xã hiện có 2 HTX nông nghiệp đang hoạt động và giữ vai trò
quan trọng đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của xã, thúc đẩy kinh tế
nông hộ ngày một phát triển.
Người dân có mức sống trung bình, thu nhập hằng năm khoảng 7 triệu
đồng/người/năm.
Tỷ lệ hộ nghèo khoảng 7,239%
18
4.1.2.1. Về kinh tế
 Nông nghiệp
-Trồng trọt
Toàn xã có 653,36ha đất nông nghiệp, trong đó diện tích trồng cây hàng năm
635,4ha, chiếm 97,25%; diện tích lúa nước: 555,72ha; đất màu: 78,88ha
- Chăn nuôi
Ngành chăn nuôi của xã vẫn còn nhỏ lẻ, chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình để
tận dụng các sản phẩm phụ từ sản xuất nông nghiệp. Hiện nay trên địa bàm xã
có 4 trang trại trồng trọt và chăn nuôi kết hợp nhưng quy mô còn hạn chế.
Hiện tại trên địa bàn đủ lượng thịt so với nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, nhưng
nông dân sản xuất chăn nuôi thu nhập vẫn đang còn thấp do giá cả thị trường
bấp bênh và không có đầu ra ổn định.
- Nuôi trồng thủy sản

Đất sông hồ và mặt nước chuyên dùng: 135, 95 ha rất thuận lợi cho việc tưới
tiêu và nuôi trồng thuỷ sản, diện tích ao hồ nuôi cá nước ngọt là 8,51 ha, cá
lồng trên sông Bồ: 180 lồng.
 Thương mại, dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp
- Trên địa bàn xã đã có một chợ trung tâm và 04 chợ vệ tinh nhỏ lẻ, để
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cũng như trao đổi sản phẩm hàng hoá; chưa có hệ
thống lò mổ tập trung. Do vậy chưa thúc đẩy được quá trình phát triển sản
xuất hàng hoá
- Hệ thống phương tiện tiếp cận thị trường còn thiếu và yếu. sản phẩm
hàng hoá trên địa bàn chủ yếu là bán cho thương lái tại chổ, do vậy giá cả còn
gặp nhiều bấp bênh, thiếu ổn định, nông dân dễ bị ép giá.
4.1.2.2. Về xã hội
 Dân số- lao động
19
Bảng 1: Tình hình dân số - lao động của xã Hương Toàn
Danh mục Đvt Số lượng
Tổng số hộ hộ 2.735
Tổng số hộ nghèo hộ 198
Tổng nhân khẩu người 13.679
Lao động nông nghiệp người 3.514
Lao động tiểu thủ cồng nghiệp người 1.088
Lao động thương mại dịch vụ người 998
Lao động khác người 881
Tổng số lao động người 6.481
(Nguồn: Đánh giá tinh hình nông thôn và báo cáo về nội dung, nhiệm vụ xây dựng
nông thôn mới đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của xã Hương Toàn )
Đa số là lao động nông nghiệp và ngành nghề thủ công, một số ít được đào
tạo chuyên môn làm việc ở cơ quan, nhà máy; lao động phổ thông còn nhiều
dẫn đến thu nhập chưa cao, số hộ nghèo vẫn còn khá cao chiếm tỷ lệ 7,239%.
Nhiệm vụ đặt ra cho công tác đào tạo là phải nâng cao trình độ để đáp

ứng nhu cầu phát triển KT-XH trong thời gian tới, đồng thời tìm việc
làm cho số lao động nông nhàn góp phần nâng cao thu nhập và giữ vững
trật tự địa phương.
 Xã hội
- Hiện tại đội ngũ cán bộ xã đến các thôn giáp tương đôí ổn định có khả năng
đảm đương công tác. Tình hình hoạt động các tổ chức trong hệ thống chính trị
thường xuyên và năng nổ, tuy nhiên cần phải có kế hoạch đào tạo cán bộ mới
đáp ứng kịp trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hóa hiện nay.
- Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tương đôí ổn định, là đơn vị hai năm
liền nhận được bằng khen của tỉnh.
- Người dân đa số theo Phật giáo chiếm hơn 50% dân số, riêng thôn Dương
Sơn 100% tín đồ theo đạo Thiên chúa giáo với 217 hộ gồm 1289 nhân khẩu,
có nhà thờ và tu viện nữ tu lâu đời.
20
4.2. Tổng quan tình hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ của HTX nông
nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn
4.2.1.Quá trình thành lập và phát triển
Hai HTX nông nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn thuộc xã Hương Toàn, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập năm 1978 dưới sự chỉ đạo
của UBND huyện Hương Điền (nay là huyện Hương Trà và Quảng Điền) và
xã Hương Toàn, hiện nay mỗi HTX gồm có 6 đội sản xuất (là 6 thôn, giáp của
xã). Qua quá trình hoạt động của mình, kể từ khi thành lập hai HTX đã có
đóng góp đáng kể vào sự phát triển nông hộ nói riêng và của xã nói chung. Từ
sau khi có Luật HTX năm 1997 thì đến năm 1998 cả hai HTX đều tiến hành
đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển chung. Với sự đổi mới về cả bộ
máy quản lý lẫn tổ chức sản xuất, kinh doanh thì trong những năm vừa qua cả
hai HTX đã thu được nhiều kết quả tích cực. Hiện nay, cả hai HTX đều chưa
thuộc liên minh HTX tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2.2. Tình hình số lượng xã viên, nhân sự và cơ cấu tổ chức hai HTX
4.2.2.1. Về xã viên

Hầu hết các hộ nông nghiệp và lao động nông nghiệp trên địa bàn xã đều là xã
viên thuộc hai HTX nông nghiệp Tây Toàn và Đông Toàn.
Bảng 2: Số lượng xã viên của 2 HTX
HTX Đvt Số lượng
Đông Toàn Xã viên 3.320
Tây Toàn Xã viên 3.121
Tổng Xã viên 6.441
(Nguồn: Dự thảo kế hoạch - xây dựng đơn giá sản xuất kinh doanh của 2 HTX)
4.2.2.2. Về nhân sự và cơ cấu tổ chức
Tình hình tổ chức cơ cấu nhân sự của 2 HTX nhìn chung đã đáp ứng nhu cầu
hoạt động của mình. Tuy nhiên, do điều kiện cụ thể của mỗi HTX nên có sự
khác nhau nhất định trong việc tổ chức nhân sự.
21
Bảng 3: Tình hình nhân sự
Danh mục Đvt HTX Tây Toàn HTX Đông Toàn
1. Tổng số cán bộ người 8 6
2. Theo chức năng
- Ban chủ nhiệm người 2 2
- Ban kiểm soát người 1 0
- Kế toán người 4 2
- Thủy quỹ người 1 1
- Văn phòng người - 1
(Nguồn: Dự thảo kế hoạch - xây dựng đơn giá sản xuất kinh doanh của 2 HTX)
Căn cứ vào số liệu của bảng 4 thì cơ cấu tổ chức của 2 HTX có điểm khác
nhau. Cụ thể chức danh kế toán của HTX Tây Toàn gồm có 4 người đảm
nhận các chức năng như: Kế toán trưởng, kế toán tài vụ, kế toán kho và kế
toán tài sản trong khi đó ở HTX Đông Toàn chỉ có 1 kế toán trưởng và 1 kế
toán viên đảm nhận toàn bộ cồn việc kế toán của HTX. Một điểm khác biệt
giữa bộ máy quản lý của 2 HTX đó là HTX Tây Toàn có Ban kiểm soát hoạt
động độc lập với BQT HTX trong khi đó HTX Đông Toàn lại không có Ban

kiểm soát hoạt động độc lập với BQT HTX. Ngoài ra, cả 2 HTX đều có các
đổi trưởng và đội phó làm việc ở các đội sản xuất, trực tiếp điều hành mọi
hoạt động của xã viên.
Do đó bộ máy tổ chức quản lý của 2 HTX cũng có điểm khác nhau
22
Chú thích:
Quan hệ lãnh đạo
Quan hệ chỉ huy, chỉ đạo
Quan hệ kiểm tra, kiểm soát
Sơ đồ 1b: Bộ máy tổ chức quản lý của HTX NN Tây Toàn
Ban chủ
nhiệm
Đại hội xã viên
BQT HTX
Các đội sản
xuất
Các bộ phận
chức năng
Hộ xã viên
Ban kiểm soát HTX
23
Ban chủ
nhiệm
Đại hội xã viên
BQT HTX
Các đội sản
xuất
Các bộ phận
chức năng
Hộ xã viên

Sơ đồ 1a: Bộ máy tổ chức quản lý của HTX NN Đông Toàn
4.2.3. Nguồn vốn và cơ sở vật chất
- Nguồn vốn là vấn đề quan trọng mang tính quyết định cho sự hoạt động của
một đơn vị kinh tế. Tính đến năm 2010 thì tình hình vốn hoạt động của 2
HTX như sau
Bảng 4: Nguồn vốn sản xuất, kinh doanh của 2 HTX
Danh mục Đvt Đông Toàn Tây Toàn
Vốn cố định đồng 5.450.536.247 6.858.015.184
Vốn lưu động đồng 4.641.018.899 3.914.596.562
Tổng số vốn đồng 10.091.555.146 10.772.611.746
(Nguồn: Dự thảo kế hoạch - xây dựng đơn giá sản xuất kinh doanh của 2 HTX)
Căn cứ Luật chuyển đổi HTX, căn cứ điều lệ quy định của HTX, việc thực
hiện nguyên tắc hoạt động phải đảm bảo bảo toàn vốn và sinh lời vốn. Với
quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của mình nhìn chung cả 2
HTX đều làm ăn hiệu quả, số vốn cổ phần của xã viên hàng năm đều được
tăng lên.
Bảng 5: Giá trị cổ phần của xã viên
Năm Đvt Đông Toàn Tây Toàn
Năm 2009 đồng 898.314,2 544.405,94
Năm 2010 đồng 933.601,2 587.010,42
(Nguồn: Dự thảo kế hoạch-xây dựng đơn giá sản xuất kinh doanh của 2 HTX)
- Cơ sở vật chất
Qua hơn 30 thành lập và phát triển cơ sở vật chất của cả 2 HTX tương đối ổn
định. Cả 2 HTX đều có văn phòng làm việc khang trang, kiên cố, có nhà kho
đủ tiêu chuẩn để bảo quản và kinh doanh vật tư nông nghiệp. Riêng HTX NN
Đông Toàn có hội trường khoảng 100 m
2
đủ điều kiện tổ chức các buổi tập
huấn kỹ thuật và đại hội xã viên. Ngoài ra, cơ sở vật chất phục vụ quá trình
sản xuất của HTX khá đầy đủ, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp

của xã viên.
24
Bảng 6a: Cơ sở vật chất của HTX NN Tây Toàn
Danh mục
Đơn vị
tính
Số lượng Ghi chú
Nhà làm việc
m
2
100
Nhà cấp 4
Nhà kho
m
2
250 Đảm bảo lưu trữ
Máy tính, máy in cái 2 -
Hệ thống phát thanh hệ thống
1 Mỗi đội sản xuất có 2-3
loa phát thanh
Bàn, ghế, … bộ 5 -
Tủ đựng tài liệu, sổ sách cái 3 -
Tổng diện tích đất NN ha 379,000 -
Máy bơm nước cái
29 Hợp đồng với tư nhân
(22 cái)
Máy cày cầm tay cái 36 Hợp đồng với tư nhân
Hệ thống kênh mương km 20,992 -
Bảng 6b: Cơ sở vật chất của HTX NN Đông Toàn
Danh mục

Đơn vị
tính
Số lượng Ghi chú
Nhà làm việc
m
2
90 Nhà cấp 4
Nhà kho
m
2
150 Đảm bảo lưu trữ
Hội trường
m
2
100 -
Máy tính cái 1 -
Hệ thống phát thanh hệ thống
1 Mỗi đội sản xuất có 2-3
loa phát thanh
Bàn, ghế,… bộ 7 -
Tủ đựng tài liệu, sổ sách cái 4 -
Tổng diện tích đất NN ha 384,136 -
Máy bơm nước cái 27
Hợp đồng với tư nhân
(25 cái)
Máy cày cầm tay cái 31 Hợp đồng với tư nhân
Hệ thống kênh mương km 20 -
(Nguồn: Dự thảo kế hoạch-xây dựng đơn giá sản xuất kinh doanh của 2 HTX)
25

×