Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

tìm hiểu về các web server thông dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.26 KB, 146 trang )


. CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
CHƯƠNG I
TÌM HIỂU VỀ CÁC WEB SERVER THÔNG DỤNG
I. GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS NT
1. Thế nào là một hệ điều hành mạng:
Mạng bao gồm các tài nguyên (máy trạm, máy in…) và các thiết bị
truyền thông (router, bridge). Với việc ghép nối các máy tính thành mạng
thì cần thiết phải có một hệ thống phần mềm có chức năng quản lý tài
nguyên, tính toán và xử lý truy cập một cách thống nhất trên mạng, hệ như
vậy được gọi là hệ điều hành mạng. Mỗi tài nguyên của mạng như file, đĩa,
thiết bị ngoại vi được quản lý bởi một tiến trình nhất định và hệ điều hành
mạng điều khiển sự tương tác giữa các tiến trình và truy cập đến các tiến
trình đó.
Quản lý các tài nguyên: tập tin ở xa, nạp và chạy các App dùng
chung, I/O với các thiết bị mạng dùng chung, chỉ cấp phát CPU trong tiến
trình NOS.
Căn cứ vào việc truy cập tài nguyên trên mạng mà người ta chia thực
thể trong mạng thành hai loại chủ và khách, trong đó máy khách (Client)
truy cập được vào tài nguyên của mình nhưng không chia xẻ tài nguyên của
nó với mạng, còn máy chủ (Server) là máy tính nằm trên mạng và chia xẻ
tài nguyên của nó với người dùng mạng.
Hiện nay các hệ điều hành mạng thường được chia làm hai loại là hệ
điều hành mạng ngang hàng và hệ điều hành mạng phân biệt (clent/server).
Với hệ điều hành mạng ngang hàng, mỗi máy tính trên mạng vừa có
thể đóng vai trò chủ lẫn khách tức là chúng có thể sử dụng tài nguyên của
mạng lẫn chia xẻ tài nguyên của nó cho mạng. Ví dụ: Lantastic của Artisoft,
Netware của Novell, Windows (for Workgroup, 95, NT client) của
Microsoft.
1
Với hệ điều hành mạng phân biệt các máy tính được phân biệt chủ và


khách, trong đó máy chủ mạng (Server) giữ vai trò chủ và các máy người
dùng giữ vai trò khách (các trạm). Khi có nhu cầu truy cập tài nguyên trên
mạng các trạm tạo ra yêu cầu và gửi chúng tới server và sau đó server thực
hiện và gửi trả lời.
2. Hệ điều hành mạng Windows NT
Windows NT là hệ điều hành mạng cao cấp của hãng Microsoft.
Phiên bản đầu tiên có tên là Windows NT 3.1 phát hành năm 1993 và phiên
bản server là Windows NT Advanced Server (trước đó là LAN manager
for Windows NT). Năm 1994 phiên bản Windows NT Server và Windows
NT Workstation phiên bản 3.5 được phát hành. Tiếp theo đó là sự ra đời
các phiên bản 3.51. Các phiên bản Workstation có thể sử dụng để thành lập
mạng ngang hàng, còn các phiên bản Server dàng cho quản lý file tập
trung, in ấn và chia sẻ các ứng dụng.
Năm 1995, Windows NT Workstation phiên bản 4.0 và Windows NT
Server 4.0 ra đời đã kết hợp với cấu trúc khung của người anh em
Windows 95 nổi tiếng phát hành trước đó không lâu (trước đây cấu trúc
khung của Windows NT giống Windows 3.1) đã được kết hợp giao diện
quen thuộc, dễ sử dụng của Windows 95 và sự mạnh mẽ, an toàn, bảo mật
cao của Windows NT.
Windows NT có hai bản mà nó đi đôi với hai cách tiếp cận mạng khác
nhau. Hai bản này gọi là Windows NT Workstation và Windows NT
server. Với hệ điều hành chuẩn của NT ta có thể xây dựng mạng ngang
hàng, server mạng và mọi công cụ quản trị cần thiết cho server mạng, ngoài
ra còn có thể có nhiều giải pháp về xây dựng mạng diện rộng. Cả hai bản
Windows NT Workstation và Windows NT server cùng được xây dựng trên
cơ sở nhân NT chung và các giao diện và cả hai cùng có những đặc trưng
an toàn theo tiêu chuẩn C2. Windows NT Workstation được sử dụng để kết
nối những nhóm người sử dụng nhỏ, thường cùng làm việc trong một văn
phòng. Tuy nhiên với Windows NT server ta có một khả năng chống hỏng
2

hóc cao, những khả năng cung cấp dịch vụ mạng lớn và những lựa chọn kết
nối khác nhau, Windows NT server không hạn chế số người có thể thâm
nhập vào mạng.
Với Windows NT server ta cũng có những công cụ quản trị từ xa vào
mạng mà có thể thực hiện việc quản trị những máy tính ở xa. Nó tích hợp
với tất cả những sơ đồ mạng BUS, STAR, RING và hỗn hợp.
Windows NT là hệ điều hành có sức mạnh công nghiệp đầu tiên cho
số lượng khổng lồ các máy tính IBM compatible, Windows NT là một hệ
điều hành thực sự dành cho người dùng, các cơ quan, các công ty xí nghiệp.
Windows NT là một hệ điều hành đa nhiệm, đa xử lý với địa chỉ 32 bit bộ
nhớ. Nó yểm trợ các ứng dụng của DOS, Windows, Win 32 GUI và các ứng
dụng dựa trên ký tự. Windows NT server là hệ điều hành mạng, đáp ứng
cho mạng cục bộ (LAN) vừa đáp ứng cho mạng diện rộng (WAN) như
Intranet, Internet.
Windows NT server hơn hẳn các hệ điều hành khác bởi tính mềm
dẻo, đa dạng trong quản lý. Nó vừa cho phép quản lý mạng theo mô hình
mạng phân biệt (Client/Server) vừa quản lý theo mô hình mạng ngang hàng
(Peer to Peer).
Windows NT server đáp ứng tốt nhất các dịch vụ viễn thông, một
dịch vụ được sử dụng rộng rãi trong tương lai.
Windows NT server cài đặt đơn giản, nhẹ nhàng và điều quan trọng
nhất là nó tương thích với hầu như tất cả các hệ mạng, nó không đòi hỏi
người ta thay đổi những gì đã có.
Cho phép dùng các dịch vụ truy cập từ xa, có khả năng phục vụ đến
64 cổng truy nhập từ xa.
Đáp ứng cho các máy trạm Macintosh nối với Windows NT server.
Windows NT server yểm trợ mọi nghi thức mạng chuẩn như
NETBUEI, IPX/SPX, TCP/IP … và các nghi thức khác. Windows NT cũng
tương thích với những mạng thông dụng hiện nay như Novell netware,
Banyan VINES và Microsoft LAN Manager. Đối với mạng lớn và khả năng

3
thâm nhập từ xa, sản phẩm Windows NT server cũng cung cấp các chức
năng bổ sung nhu cầu , khả năng kết nối với máy tính lớn và máy
Macintosh.
III. TỔNG QUAN VỀ WEB SERVER :
Web Server:
Web server là một phần mềm server đằng sau WWW. Nó lắng nghe
những yêu cầu từ phía client, chẳng hạn như một trình duyệt như Netscape
hoặc Microsoft Internet Explorer. Khi nhận được một yêu cầu từ phía
client, nó sẽ xử lý những yêu cầu đó và trả về một vài dữ liệu dưới dạng một
fom chứa các trang được định dạng dưới dạng văn bản hoặc hình ảnh.
Trình duyệt Web trả lại dữ liệu này với khả năng tốt nhất có thể và trình
đến người sử dụng.
Khái niệm về Web server đơn giản chỉ là một chương trình mà chúng
chờ đợi những yêu cầu từ phía client và đáp ứng những yêu cầu đó khi
nhận được. Web server kết nối với các trình duyệt hoặc các client sử dụng
giao thức HTTP, đó là một giao thức đã được chuẩn hóa các phương thức
của các yêu cầu gửi đi và xử lý các yêu cầu đó. Nó cho phép rất nhiều các
client khác nhau kết nối với các server cung cấp mà không gặp bất kỳ một
trở ngại nào trong vấn đề tương thích.
Hầu hết các tài liệu yêu cầu hoặc đáp ứng đều phải được định dạng
bằng ngôn ngữ HTML. HTML là một phần của một ngôn ngữ đánh dấu
khác gọi là SGML, nó được sử dụng rộng rãi bởi nhiều tổ chức và trong các
chính phủ liên bang.
HTML là nguồn sống của Web. Nó là một ngôn ngữ đánh dấu đơn
giản được sử dụng để định dạng văn bản. Trình duyệt thông dịch các thông
tin đánh dấu này và hiển thị các thông tin cần đáp ứng này với khả năng
tốt nhất có thể. Quan trọng hơn nữa, HTML cho phép liên kết với các tài
liệu và tài nguyên khác, đây là sự thể hiện tính siêu văn bản của Web.
4

Siêu văn bản cho phép người sử dụng xem một tài liệu khác lưu trữ ở
trên cùng một máy hoặc trong một máy khác đặt ở một nơi khác trên thế
giới. Nó cho phép thông tin tồn tại hầu như dưới dạng ba chiều. Người sử
dụng không những chỉ có thể đọc tài liệu mà còn có thể chuyển đến một chỗ
khác.
Tiến trình tìm và mang thông tin về hoàn toàn trong suốt đối với
người sử dụng. Nó là một ngôn ngữ uyển chuyển và dễ sử dụng. Sự điều
hướng thông tin qua nhiều thông tin theo một cách đặc biệt. Nó cho phép
ngwời sử dụng thu thập thông tin một cách dễ dàng và hiển thị chúng theo
cách mà người sử dụng dễ lựa chọn nhất.
Nếu bất ngờ người sử dụng hỏi bằng cách nào để tạo ra một trang
Web. Thì họ sẽ giáp mặt với hàng loạt các vấn đề có liên quan mà họ cần
phải tìm hiểu trước khi bắt đầu viết mã một trang HTML đầu tiên. Vấn đề
quan trọng nhất và là lý do cơ bản nhất là phải lựa chọn phần mềm server
nào để sử dụng, với những thông tin cơ bản nhất mà cuốn báo cáo này cung
cấp, sự lựa chọn có lẽ là không khó.
Các vấn đề mà cần phải quan tâm khi lựa chọn một Web server để
giao phó công việc cho nó.
- Phần mềm trả tiền hay đươc miễn phí.
- Dễ cài đặt.
- Dễ cấu hình.
- Dễ mở rộng hoặc tuỳbiến một vài diện mạo của server.
- Các đặc trưng cơ bản.
- Sự phát triển liên tục.
- Hỗ trợ bảo mật.
- Mã nguồn sẵn có.
- Hỗ trợ công nghệ.
- Hỗ trợ nền tảng.
- Hỗ trợ đối với các phần mềm thứ ba.
5

IV. INTERNET INFORMATION SERVER (IIS):
IIS là một dịch vụ tuỳ chọn của Windows NT server cung cấp các
tính năng về Web site. Giải pháp phổ biến nhất của Microsoft cho một Web
site là chạy IIS trên nền Windows NT server.
IIS là một thành phần cơ bản để xây dựng một Internet hoặc Intranet
server trền nền Windows NT 4.0, Workstation và Win 95. IIS được tích hợp
đầy đủ trong Windows NT 4.0. Với một bộ đầy đủ IIS và Windows NT 4.0
người sử dụng sẽ nhận được sự thuận tiện khi xây dựng một cơ chế bảo mật
trên Windows NT server và Windows NT File System (NTFS).
Người sử dụng có thể sử dụng các kỷ thuật Internet thêm vào được
cung cấp bởi IIS để nâng cao các tính năng Microsoft Back Office, bao gồm
các thành phần sau:
- Hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu Microsoft SOL Server
Client/Server.
- Hệ thống thông báo Microsoft Exchange Server Client/Server.
- Microsoft Proy Server.
- Microsoft SNA Server kết nối với mạng IBM enterprise.
- Hệ thống quản lý Server của Microsoft (tập trung quản lý các hệ
thống phân tán).
-Microsoft Commercial Internet Server (MCIS).
Với IIS người sử dụng có thể triển khai liên tục các ứng dụng mạng
lên các server ra đời muộn các nội dung Web mơi nhất. IIS đầy đủ hỗ trợ
các hệ thống ngôn ngữ lập trình VB, VB Script, J Script
TM
được phát triển
bởi Microsoft và Java Component Nó cũng hỗ trợ các ứng dụng CGI dành
cho các ngôn ngữ lập trình Web cơ sở và ISAPI mở rộng và các bộ lọc.
1. Cài đặt IIS trên Windows NT server:
Microsoft cung cấp các chương trình cài đặt khá thân thiện để cài đặt
IIS trên Windows NT server. Các bước cơ bản là lấy chương trình từ NT

Option Pack hoặc tải từ Internet và chạy Setup.exe.
6
Windows NT Option Pack: IIS là một thành phần của Windows NT
Option Pack. Một bộ Windows NT Option Pack sau khi cài đặt đầy đủ phải
bao gồm các thành phần sau:
Microsoft Transaction Server. (MTC)
Microsoft Management Console. (MMC)
Microsoft Index Server.
Microsoft Certificate Server.
Microsoft Site Server Express. (SSE)
- MTS là một thành phần cơ bản giải quyết các tiến trình hệ thống
cho các quá trình phát triển, phá huỷ và quản lý sự thi hành ở mức cao và
các ứng dụng server mạnh.
- MMC là một ứng dụng xuyên suốt phân chia các công cụ quản lý
mà nó có thể đưa ra các cách để quản trị các chương trình mạng, thêm vào
đó MMC được kết hợp với các sản phẩm của Microsoft như: Windows NT
và tất cả các sản Office.phẩm thuộc MS Back
Trong khi MMC tự nó không đưa cho người sử dụng bất kỳ một chức
năng nào được thêm vào cả mà chỉ cung cấp một môi trường chung cho
snap-ins. Snap-ins cung cấp môi trường quản trị ảo cho mỗi sản phẩm
tương thích của nó. Snap-ins được trình bày trong IIS như là một dịch vụ
quản lý Internet (ISN). Khi IIS khởi động, MMC cũng sẽ được khởi động
và nạp vào snap-ins.
Trong tương lai tất cả các sản phẩm của MS Back Office bao gồm cả
Windows, Windows NT, các công cụ quản trị mạnh sẽ được chuyển sang
MMC.
Một bộ IIS phải bao gồm đầy đủ các thành phần sau:
Content Index (Index Server).
FTP Publishing Service.
IIS Admin Service (Internet Service Manager snap-in).

Microsoft Network News Transfer Protocol (NNTP) Service.
Microsoft Simple Mail Transfer Protocol (SMTP) Service.
7
MSDTC (Microsoft Distributed Transaction Coordinator).
World Wide Web Publishing Service.
2. Quản lý IIS Web server:
+ HTTP server: Dịch vụ này tạo một WWW server công cộng. Server
này tạo nhiều trang HTML cho phép người sử dụng có thể chạy các ứng
dụng CGI để thi hành các công việc thêm vào ở server dựa trên các yêu cầu
của client. Văn bản, hình ảnh, âm thanh và các tài nguyên khác có thể được
tải xuống WWW client.
+ Gopher Server: Dịch vụ này cung cấp các tài nguyên cho các
Gopher client. Server gửi các file, các danh sách thư mục và các mục chọn
trình đơn khác đến Gopher client.
+ FTP server: Dịch vụ này là một cập nhật đến server được cài đặt
sẵn trên Windows NT (TM), nó chuyển các file có sẵn đến FTP client.
Mặc dù WWW đã thay thế hầu hết các chức năng của FTP, tuy nhiên
chỉ FTP mới có thể được sử dụng để sao chép các file từ một máy client đến
một máy server. Nếu những người truy cập từ xa cần làm việc đó, họ phải
sử dụng FTP.
+ Sự dễ dàng chia xẻ: Tất cả các dịch vụ trên là một phần của một
tiến trình như nhau với mục đích là làm hạn chế sử dụng bộ nhớ ngoài và
tăng hiệu quả. IIS cũng hỗ trợ thi hành sự giám sát các bộ đếm và kiểm tra
SNMP với FTP, Gopher, HTTP… Bộ đếm SNMP nằm dưới nút IIS của cây
tên MIB.
+ Internet Server API:
Các API này cung cấp các ứng dụng cho giao diện với IIS. Có 2 cách
để các API này sử dụng:
+ Các phần mở rộng CGI: Các API này cho phép người sử dụng viết
các CGI DLL mà nó ở trong vùng bộ nhớ giống như IIS. Đây là sự khác

biệt từ một CGI bình thường có thể thi hành, mà nó là một tiến trình rời
8
rạc. Sử dụng các phần mở rộng này làm tăng khả năng thi hành của server
và làm giảm bộ nhớ yêu cầu.
+ Bộ lọc: Các API này có thể được sử dụng để viết các DLL mà nó
ngăn chặn tất cả khảng năng tải HTTP đang được nhận bởi server. Một
ứng dụng có thể được viết mà nó thực hiện nén, giải nén, mã hóa, giải mã
hoặc thêm vào các xác thực.
+ Internet Service Manager:
Công cụ này được sử dụng để cấu hình và theo dõi tất cả các IIS trên
một mạng. Nó sử dụng RPC để cấu hình IIS trên một máy khác.
+ Các ứng dụng client:
IIS hỗ trợ các giao thức HTTP, Gopher, FTP và các client những giao
thức này như là các trình duyệt : Internet Explorer, Netscape.
+ Internet Database Connector (IDC):
- Với IDC người sử dụng có thể:
- Truy cập ODBC tương thích với các cơ sở dữ liệu.
- Tạo trang Web quản lý cơ sở dữ liệu.
- Chèn, cập nhật và xóa thông tin cơ sở dữ liệu do người sử dụng
muốn nhập vào từ trang Web.
- Thực hiện các câu lệnh SQL khác.
3. IIS WWW Server:
WWW là một bộ tập hợp các thông tin của client và server. Dữ liệu
siêu văn bản (hyper text) được chia xẻ bởi các server đang chạy phần mềm
Web và được truy cập bởi các client đang chay một phần mềm ứng dụng
Web gọi là trình duyệt Web.
WWW server cung cấp các thông tin phân tán và phần mềm, nhưng
theo hướng site hơn là hướng thư mục. Tài liệu Web là một tài liệu siêu văn
bản được viết bằng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML), và với các
thẻ đặc biệt để liên kêt đến nội dung các tài liệu khác, chúng được gọi là

siêu liên kết (hypelink). Với siêu liên kết, xuất phát từ một trang tài liệu
9
người sử dụng có thể đi đến mọi nơi trên thế giới để xem những trang tài
liệu khác chỉ bằng bước kích chuột vào liên kết mà trình duyệt thể hiện.
WWW đi kèm với mô hình mạng client/server và sử dụng giao thức
HTTP giữa client và server. Tài liệu được chứa trên nhiều các server tự trị
trên Internet và được truy cập bởi HTTP client gọi là trình duyệt Web.
Để truy cập vào tài nguyên WWW, client phải:
+ Chạy một trình duyệt WWW chẳng hạn như Internet Explorer
(TM)
Masaic
(TM)
hoặc Netscape
(TM)
… Có vài WWW client có sẵn và chúng có thể
được tải xuống trực tiếp từ Internet.
+ Kết nối đến một WWW server bằng cách cung cấp một địa chỉ
URL và gửi yêu cầu HTTP. Điển hình như client yêu cầu một file (trang
HTML, hình ảnh…) hoặc thư mục đang hiển thị từ server, client cũng có
thể gửi một ứng dụng đến server.
Server sẽ đáp ứng với trạng thái hoạt động hoặc thành công hoặc bị
lỗi và dữ liệu trả về cho yêu cầu của client. Sau khi dữ liệu được gửi đi, kết
nối sẽ đóng lại và không có phần nào của tài liệu đã gửi được giữ lại trên
server. Mỗi đối tượng trong một tài liệu HTTP đòi hỏi một kết nối khác
nhau.
WWW với giao thức HTTP đã trở thành một cánh thông dụng để
truy cập tài liệu trên Internet.
WWW cung cập một cách dễ dàng nhất để truy cập dữ liệu trên
Internet hoặc trên mạng Intranet của các công ty.
A) CÁC TIỆN LỢI CỦA VIỆC SỬ DỤNG DỊCH VỤ WWW:

- Trình duyệt WWW hỗ trợ nhiều kiểu dữ liệu. Một trình duyệt
WWW có thể tự động tải xuống và hiển thị các file văn bản, hình ảnh, chạy
video, sound clip và khởi chạy các ứng dụng trợ giúp cho tất cả các loại file
phổ biến. Người sử dụng không cần biết trình duyệt tải xuống hoặc sử dụng
các file dữ liệu ở xa như thế nào chỉ đơn giản là trình duyệt đã giúp ta trong
việc tải xuống và hiển thị các file.
10
Một ví dụ: Một WWW client đang mở một file ảnh BMP, người sử
dụng sẽ thấy nó hiển thị ngay lập tức nó trong cửa sổ ứng dụng của WWW
client. Nếu sử dụng một ứng dụng khác, chẳng hạn như FTP sẽ chỉ tải file
xuống và lưu trên đĩa, người sử dụng sẽ phải chạy một ứng dụng khác
chẳng hạn như Paint Bruh để xem nó.
- Trình duyệt WWW hỗ trợ nhiều giao thức. Trình duyệt WWW
không có giới hạn để truy cập chỉ một kiểu server. Trình duyệt WWW hỗ
trợ nhiều giao thức để truy cập file trên một FTP server, các bảng chọn
trên Gopher server, Newgroups và tài nguyên WWW.
B) GIỚI THIỆU VỀ GIAO THỨC HTTP:
HTTP là một giao thức được sử dụng chủ yếu trên Internet ngày nay.
HTTP là một giao thức đi tiên phong trong sự phát triển Web. Nó có một
đặc điểm chung là tính không biên giới.
Giao thức hướng đối tượng này được sinh ra từ sự cần thiết cho một
giao thức toàn cầu để làm đơn giản việc truy cập vào Internet.
HTTP là một giao thức client/server nằm ở tầng ứng dụng của mô
hình phân tần Internet. Bằng việc mở rộng những phương thức hay dòng
lệnh, người sử dụng có thể sử dụng HTTP cho nhiều chức năng khác nhau,
kể cả chức năng quản lý hệ thống tên server và các đối tượng phân tán.
HTTP không ngừng được cải tiến, dẫn đến việc W3C được đưa ra vào năm
1994 đã phát triển thành một tiêu chuẩn chung cho Web.
C) HOẠT ĐỘNG CỦA HTTP:
Các tiến trình xảy ra khi Client mở một tài liệu HTNL trên một

WWW server:
1/ Kết nối TCP: Mặc định HTTP server sẽ lắng nghe ở cổng 80. Trình
duyệt lựa chọn một cổng cục bộ (>1024) và thực hiện một kết nối TCP đến
cổng một server trước khi dữ liệu được gửi. Một HTTP server có thể lắng
nghe ở một cổng khác, tuy nhiên client cần phải cung cấp sô thứ tự cổng
chính xác ở URL để có thể kết nối.
2/ Yêu cầu phía Client:
11
Dòng yêu cầu: Chứa một câu lệnh yêu cầu gọi là phương thức và địa
chỉ URL của đối tượng được giải quyết yêu cầu bởi phương thức.
+ Phương thức: Được sử dụng để chỉ thị cho server thi hành một công
việc đặc biệt. Hầu hết các server bao gồm cả IIS chỉ hỗ trợ 3 phương thức
bởi vì các phương thức không được thi hành bởi hầu hết các trình duyệt.
GET: Phương thức này chỉ thị cho HTTP server gửi đến một đối
tượng (các Web site, file, hình ảnh…) bằng địa chỉ URL. Phương thức này
chỉ dùng trên HTTP client.
HEAD: Phương thức này cũng giống như GET, tuy nhiên nó chỉ trả
về thông tin header của đối tượng chứ không phải toàn bộ dữ liệu.
POST: Phương thức này được sử dụng bởi HTTP client để gửi một
đối tượng lên server.
Ví dụ: GET www.microsoft.com/HTTP
+ Trường tiêu đề của gói tin: Đây là một tập các trường mô tả client
và kiểu dữ liệu được gửi.
+ Dữ liệu: Nếu một client gửi một dữ liệu chẳng hạn một form đến
một server, nó sẽ nằm trong phiên này của yêu cầu.
3/ Server trả lời:
WWW server nhận một yêu cầu và quá trình này căn cứ trên phương
thức yêu cầu chứa trong dòng lệnh yêu cầu. Server sau đó sẽ trả lời.
Dòng Status : Chỉ ra yêu cầu thành công hoặc bị lỗi.
Message Header Field: Nó cung cấp các thông tin về server và kiểu

dữ liệu trả về.
Dữ liệu trả lời: Đây là dữ liệu yêu cầu ở dạng bit.
4/ Đóng kết nối.
D) GIỚI THIỆU VỀ SECURE SOCKETS LAYER (SSL)
SSL cung cấp một kết nối bảm đảm bằng cách mã hóa và giải mã dữ
liệu. Một SSL-enable server giống như IIS có thể kết nối với một SSL-
enable client chẳng hạn như trình duyệt Internet Explorer.
12
Giao thức SSL nằm ở tầng trình diễn OSI và di chuyển dữ liệu từ
tầng ứng dụng HTTP đến tầng chuyển vận TCP. Nó chịu trách nhiệm cho
việc chứng nhận, mã hóa và kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu. Chức năng
chứng nhận bảo đảm rằng dự liệu được gửi đến đúng một server cần gửi và
server thì bảo đảm. Việc mã hóa dữ liệu bảo đảm dữ liệu không thể bị đọc
bởi bất kỳ một người nào khác ngoài server nhận. Giải mã dữ liệu bảm
đảm dữ liệu không bị sửa đổi hoặc thay thế trong quá trình truyền đi.
Khi một client kết nối đến một WWW server sử dụng SSL sẽ xảy ra
các tiến trình sau:
Client dành lấy chứng nhận server: Client và Server tự giới thiệu về
chúng lẫn nhau bằng thông điệp HELLO và trao đổi thông tin (chứa các
phương thức mã hóa) để sử dụng, tại phiên trao đổi thông tin, chứng nhận
server (chứa một khoá công khai ủa server) và dữ liệu ngẫu nhiên sẽ được
truyền đi.
Client xác minh server: Client xác minh chứng nhận server từ một
chứng thực và sau đó sử dụng nó để gửi một thông điệp để xác thực server.
Nếu server không chuyển lại việc xác thực là đúng, client sẽ cảnh báo cho
người sử dụng “server is not who it claims to be “ hoặc có thể là một
“trojan” server.
Client/server xác nhận khóa chứng thực để sử dụng cho phiên này:
Nếu server trả lời lại thành công, client và server sẽ tạo ra một khóa
bí mật ngẫu nhiên (chỉ ra như một Master Key trong đặc tả SSL) từ việc

trao đổi dữ liệu ngẫu nhiên và phương thức mã hóa điển hình (chẳng hạn
như RSA)
Giải mã dữ liệu với một khóa: Tất cả các dữ liệu gửi ngoài kênh SSL
thì được mã hóa với một khóa bí mật.
4. Tổ chức Web site:
Các Web site phải tự nhập một mình có nghĩa là nó tự hỗ trợ chính
nó. Mỗi Web site có thể di chuyển dến một máy khác để cân bằng việc tải
xuống hoặc chỉ là cho mục đích lưu thông trên mạng. Để làm được việc này,
13
chúng phải tự hỗ trợ mình, tự có các bảo mật riêng và các phạm vi ứng
dụng riêng. Nếu người sử dụng là một nhà cung cấp Internet, họ sẽ muốn
thiết kế, di chuyển và có người sử dụng cập nhật các Web site mà không
quấy rầy đến các site khác trên cùng một máy.
Giao thức HTTP sử dụng các URL để yêu cầu các file từ Web server.
Từ khi hầu hết các file đều chứa trong hệ thống file, IIS cần chuyển một
URL sang một tên đầy đủ của file, IIS làm công việc này cho mỗi yêu cầu.
Tuy nhiên, nó sẽ đưa lên người quản trị để cấu hình server mà URL ánh xạ
đến thư mục đó.
Để thiết kế cấu trúc hệ thống file trên một máy mà nó host nhiều Web
site, người sử dụng cần biết sự khác nhau giữa thư mục gốc (Home Dir),
thư mục gốc ảo (Virtual Root) và thư mục con (Sub Dir). Người sử dụng
cũng cần biết khi nào thì phải sử dụng chúng.
Home Dir:
Một URL chứa một tên miền đang yêu cầu thư mục chủ. Ví dụ, URL
dưới đây yêu cầu một file mặc định trong thư mục chủ:

Công việc của người quản trị cần phải làm là giúp đỡ Web server ánh
xạ URL đến thư mục chủ. Trong ví dụ trên, thư mục chủ của Web site này
sẽ được ánh xạ đến:
C:\inetpub\wwwroot

Sub Dir:
Sub Dir là một thư mục kế thừa một ánh xạ URL từ một cấu trúc hệ
thống file. Ví dụ, nếu thư mục này đã tồn tại:
C:\intetpub\wwwroot\sale3
Sau đó, URL này cũng đã tồn tại:
/>14
Thư mục con không cần được định nghĩa đến Web server bởi người
quản trị hệ thống. Bởi vì chỉ cần tạo ra một thư mục cha bằng Explorer là
thư mục sẽ được tạo, không cần phải điều chỉnh trong cấu hình IIS.
Virtual Root:
Virtual Root là một thư mục con của một URL mà nó được ánh xạ
đến các thư mục trong hệ thống file mà không thừa kế sự tồn tại của các hệ
thống file này.
Ví dụ: Nếu người sử dụng muốn site của họ chứa trong một URL
đến:
C:\inetpub\maketing\website\extenal
Thư mục ảo sẽ tạo ra một Web site hiển thị như thể nó là một cấu
trúc thư mục khác hơn hiện tại nó có trong hệ thống file.
Khi nào thì cần sử dụng thư mục ảo:
Thư mục ảo được sử dụng khi thư mục con không được sử dụng. Bởi
vì thư mục con không giống như một Web server và chúng không có tất cả
chức năng của một thư mục ảo, chúng có thể được dùng ở mọi nơi. Thêm
vào đó, thư mụ con còn tổ chức tất cả các file chứa trong một nơi trung tâm
cho các Web site.
Các thư mục ảo dược dùng khi tất cả các file trong thư mục ảo không
thể chứa được trên cùng một ổ đĩa. Ví dụ: Nếu người sử dụng có một Web
site mà lớn hơn 2 Gb họ không thể chứa tất cả chúng trên cùng một ổ đĩa.
Trong trường hợp này họ sẽ cần đến các Web site phân tán trong nhiều
thư mục ảo trên các thư mục ở mỗi ổ đĩa. Để làm được người sử dụng phải
chia Web site của họ lên nhiều đĩa. Về mặt lý thuyết, các truy cập ngẫu

nhiên ngang qua nhiều ổ đĩa sẽ nhanh hơn các truy cập trên cùng một đĩa.
Nếu người sử dụng có nhiều Web site và đang chia xẻ thông tin, các
thư mục ảo có thể sử dụng để hoàn thành công việc này. Ví dụ, nếu phải
chia xẻ hình ảnh, cả hai Web site cùng có một thư mục ảo gọi là Graphic
mà nó ánh xạ tới cùng một vị trí trên ổ đĩa. Điều này sẽ không làm được với
15
thư mục con. Sự cập nhật các file trong thư mục Graphic sẽ ảnh hưởng đến
cả hai site.
5. Các kiểu của bảng thuộc tính của dịch vụ WWW
Có 3 kiểu (hoặc còn gọi là lớp) khác nhau của bảng thuộc tính:
Master, Default và File. Người sử dụng có thể định cấu hình riêng cho từng
site của mình một trong 3 kiểu trên. Nhưng mọi sự thay đổi đều có ràng
buộc với nhau, nó sẽ ảnh hưởng đến các site con và các file.
Các loại bảng khác nhau của bảng thuộc tính sẽ có ích về khía cạnh
phân cấp. Với bảng thuộc tính Master nằm ở phân cấp cao nhất và bảng
thuộc tính File nằm ở cấp thấp nhất.
Master:
Các bảng thuộc tính Master quyết định các thuộc tính mặc định của
các Web site ảo đã tạo với sự thiết lập của IIS, mà các Web site này quyết
định các thuộc tính của các file đã được tạo ra trong mỗi Web site. Trong
suốt quá trình cài đặt, IIS sẽ nạp các thuộc tính mặc định cho các bảng
thuộc tính Master. Mỗi site ảo mà người sử dụng tạo ra sẽ kế thừa việc thiết
lập này. Nếu họ thay đổi thiết lập ban đầu của bảng thuộc tính Master, các
Web site ảo con sẽ kế thừa các thiết lập mới này nhưng các Web site ảo tạo
trước đó sẽ giữ nguyên.
Default:
Quá trình cài đặt sẽ tạo ra các Web site với các thuộc tính mặc định
của nó. Những các file nào mà được tạo ra với Web site mặc định sẽ kế thừa
các thiết lập này.
File:

Các file tạo ra trong thư mục ảo sẽ kế thừa các thiết lập của thư mục
ảo đó, ứng với các file được tạo ra trong các trang Web mặc định sẽ kế thừa
các bảng thuộc tính của Web site đó. Sau khi một file được tạo ra thì các
thuộc tính được cấu hình ở mức file.
16
6. Bảng thuộc tính WWW:
Dịch vụ WWW trên IIS có thể cấu hình 9 bảng thuộc tính sau:
Web Site: Sử dụng bảng thuộc tính Web Site để thiết lập sự nhận biết
Web site, chỉ rõ số kết nối cho phép và cho phép hoặc cấm truy cập vào
một Web site.
Operators: Sử dụng bảng thuộc tính Operators để điều khiển các tài
khoản người dùng nào có quyền quản trị các Web site của người sử dụng.
Performance: Sử dụng bảng thuộc tính Performance để điều chỉnh
cho thật tốt sự thi hành của các Web site.
ISAPI filter: Sử dụng bảng thuộc tính ISAPI filter chứa các bộ lọc
ISAPI. Người sử dụng có thể sử dụng ISAPI để chạy các ứng dụng từ xa.
Yêu cầu một URL mà nó ánh xạ đến một bộ lọc đang hoạt động tại các ứng
dụng đó. Có thể sử dụng các thông sô cài đặt của nó để ánh xạ một tên file
đến bộ lọc cho phép trên một Web server.
Home Direcory: Sử dụng bảng thuộc tính Home Direcory để thay đổi
thư mục chứa các Web site và điều chỉnh các thuộc tính của nó.
Document: Sử dụng bảng thuộc tính Document để chỉ định một tài
liệu mặc định và gán các chức năng mặc định cho Web site.
Directory Security: Sử dụng bảng thuộc tính Directory Security để
cấu hình các tính năng bảo mật cho Web server.
HTTP Header: Sử dụng bảng thuộc tính HTTP Header để thiết lập
các gia trị trả về của trình duyệt trong phần header của một trang HTML.
Custom Error: Sử dụng bảng thuộc tính Custom Error để liệt kê các
thông báo trả về trình duyệt dành cho các lỗi HTTP.
7. Cấu hình WWW

- Chia xẻ thư mục, file:
Bảng thuộc tính của thư mục WWW trong Internet Service Manager
(ISM) cho phép người quản trị chia xẻ các thư mục và file cho WWW
client. Những thư mục này là những thư mục cụ bộ từ phân vùng
17
FAT/NTFS hoặc là các thư mục từ những server khác mà IIS có thể truy
cập được.
WWW chia xẻ kết nối mặc định: Khi mà một client chỉ cung tên
server ngay tại địa chỉ URL gọi là thư mục chủ. Ví dụ, nếu một client mở
một địa chỉ: dịch vụ IIS trả về một tài liệu mặc
định trong thư mục chủ trên www.microsofts server. Các thư mục chia xẻ
khác vơi thư mục chủ được tham chiếu đến thư mục ảo.
- Sử dụng ISM để chia xẻ thư mục:
Có hai hộp thoại hiện ra cùng với ISM khi ta cấu hình việc chia xe
thư mục WWW. Thẻ Directory, WWW hiện thị danh sách tất cả các cấu
hình thư mục ảo WWW. Nó cũng cho phép người sử dụng thiết lập các
thuộc tính kềm theo cho tất cả các thư mục chia xẻ.
+ Tài liệu mặc định:
File này được trả về khi người sử dụng mở một thư mục và không chỉ
định tên file. Điển hình cho file này là các file tên default.htm hoặc
index.htm.
+ Thư mục đang duyệt:
Nếu người sử dụng mở một thư mục mà không chứa một tài liệu mặc
định, server sẽ trả về một danh sách các file trong thư mục.
+ Bảo mật:
IIS có nhiều chức năng bảo mật để giữ gìn server và dữ liệu của
người sử dụng khỏi những cuộc xâm nhập bất hợp pháp và hacker. IIS dựa
vào sự thiết lập của Windows NT (TM) và một hệ thống chứng nhận C2.
Giữ an toàn cho IIS server là một sự kết hợp của việc thiết lập bảo mật cho
Windows NT và các chứng năng bảo mật của dịch vụ IIS. Thêm vào đó nếu

server kết nối với Internet, một bộ chọn kênh (rooter) hoặc bức tường lửa
có thể được thiết lập để cung cấp thêm độ an toàn.
8. Thư mục ảo:
18
Thư mục ảo là một thư mục phi vật lý chứa trong thư mục chủ của
dịch vụ IIS (WWW hoặc FTP) nhưng nó xuất hiện trong suốt đối với người
sử dụng vào các Web site này.
Thư mục ảo tăng khả năng linh hoạt cho việc người sử dụng quyết
định lưu trữ file ở đâu trên server của họ. Bằng cách sử dụng các thư mục
ảo để có thể cập nhật và truy cập dễ dàng nhất. Nó cũng cho phép tăng
thêm dung lượng lưu trữ cho Web site mà không cần phải tắt server.
Thư mục ảo có thế thiết lập cho cả dịch vụ WWW lẫn FTP chạy trên
IIS. Thư mục ảo có thể tạo ra các thư mục định vị ở:
- Trên cùng một đĩa: Như là các thư mục chủ WWWroot hoặc
FTProot.
- Một đĩa ở một máy khác trong mạng cục bộ.
- Ở một đĩa của máy khác trên mạng, mà máy này phải cùng tên miền
với máy có dịch vụ IIS.
a) Thư mục ảo cục bộ:
Người sử dụng có thể tạo ra các thư mục ảo cục bộ cho các thư mục
được lưu trữ trên bất kỳ đĩa nào trên một máy tính được cài đặt IIS.
Khi cấu hình mộït thư mục ảo cục bộ, người sử dụng phải cài đặt một
biệt danh cho thư mục. Biệt danh này có thể là tên thư mục hoặc một tên
bất kỳ nào khác mà nó nhận diện một Web site đến người sử dụng. Họ cũng
phải cung cấp một đường dẫn đầy đủ cho thư mục ảo.
b) Thư mục ảo từ xa:
Sử dụng thư mục ảo từ xa cho các thư mục đã được cài đặt trên các
máy khác với tên miền của máy đã cài đặt IIS.
Cũng như đối với các thư mục ảo cục bộ, khi người sử dụng cấu hình
một thư mục ảo từ xa, họ được yêu cầu tạo một biệt danh cho thư mục và

phải cung cấp một một đia chỉ cho thư mục tuân theo quy ước UNC (quy
ước đặt tên địa chỉ toàn cục). Để truy cập thư mục với một UNC, phải nhập
vào một tên của người sử dụng và password phù hợp. Tên người sử dụng và
19
password sẽ được sử dụng bởi người truy cập vào dữ liệu chứa trong thư
mục ảo.
Chú ý:
Chắc chắn rằng tài khoản của người sử dụng mà đã thiết lập sẽ cho
phép truy cập Internet đến một thư mục ảo từ xa mà chỉ cung cấp một
quyền tối thiểu cho việc sử dụng site này. Đừng nên dùng tài khoản của nhà
quản trị để truy cập các thư mục ảo.
c) Thư mục ảo từ xa và FrontPage:
Công cụ quản lý và soạn thảo FrontPage tự động quản lý việc sử
dụng các thư mục ảo. Khi được cài đặt, FrontPage sẽ khởi tạo các thư mục
ảo cho các thư mục chứa các phần mở rộng có thể thực thi. Thêm vào đó,
ban có thể cho phép các phần mở rộng của file chuyển thành các đối tượng
có thể thực thi được bằng cách đánh dấu vào các thư mục chứa chúng,
chẳng hạn như các đối tượng mở rộng sau:
Active Server Pages (.ASP)
Các file Internet database connector (.idc)
CGI
Phần mở rộng ISAPI (.dll)
Perl Script (.pl)
Chú ý: bởi vì FrontPage không hỗ trợ đối với các vùng có nội dung
không liền nhau vì vậy không thể dùng thư mục ảo để trộn các vùng có nội
dung không liền nhau trong FrontPage.
9. Server ảo:
Nhiều tên miền có thể được host lên một máy đơn đang chạy IIS bằng
chách sử dụng server ảo.
Với nhiều server ảo người sử dụng có thể host nhiều site Web và site

FTP lên một máy đơn đang chạy IIS, điều này có nghĩa là không cần cấp
một máy và một phần mềm trọn gói cho mỗi site này. Người sử dụng đơn
giản chỉ cần một địa chỉ IP duy nhất cho mỗi tên miền được phân công đến
20
server và bằng cách sử dụng Host Header người sử dụng có thể sử dụng
một địa chỉ IP cho nhiều tên miền. Tuy nhiên chỉ site WWW mới có thể sử
dụng Host Header. Server ảo cũng tập trung hóa việc áp dụng và đơn giản
hóa việc nâng cấp các phần mềm server.
Việc host nhiều server ảo lên cùng một máy có thể giảm bớt sự thi
hành của phía server nói chung và server ảo sử dụng Host Header đòi hỏi
một giao thức HTTP phiên bản 1 tương hợp với trình duyệt Web.
Host Header:
Khả năng của các Host Header của HTTP phiên bản 1 cho phép
người sử dụng kết hợp nhiều tên của máy Host với chỉ một địa chỉ IP. IIS
sử dụng thông tin Host Header để đổi địa chỉ các tên khác nhau của server
ảo. Để sử dụng Host Header người sử dụng phải chuyển đổi từ Host name
thành địa chỉ IP sử dụng cả hệ thống tên miền (DNS) server hoặc các file
của các Host. Chức năng của file host là hỗ trợ sự chuyển đổi từ các tên
Host thành các địa chỉ IP.
Chú ý:
IIS cung cấp các trình duyệt Web không tương thích với một danh
sách các server tương thích với địa chỉ IP cho trước. Khi người sử dụng
chọn một server, một cookie mới sẽ được thay thế trên ổ đĩa của người sử
dụng và cookie này sẽ được sử dụng cho những lần truy cập sau đến server
ảo.
10. IIS FTP Server:
FTP là một giao thức được dùng để truyền nhận file giữa hai máy
trên mạng Internet.
FTP là một giao thức ra đời sớm nhất được sử dụng trên mạng
TCP/IP và mạng Internet. Mặc dù WWW đã thay thế hầu hết các chức

năng của FTP, FTP vẫn còn được sử dụng để chép một file từ một client
đến một server trên Internet. Không như HTTP, FTP sử dụng 2 cổng, một
21
để truyền và một để nhận file. Như vậy FTP vẫn còn có hiệu lực hơn HTTP
cho những tác vụ đặc biệt của việc truyền file.
Để sử dụng FTP truyền file giữa hai máy, cả hai máy đều phải có vai
trò riêng, một là FTP Client, một là FTP Server. FTP Client ra lệnh cho
server tải xuống hoặc đưa lên một file cũng như tạo và thay đổi các thư
mục.
FTP sử dụng giao thức TCP như một phương tiện cho tất cả các kết
nối và dữ liệu trao đổi giữa client và server. TCP là một phương thức kết
nối có định hướng, có nghĩa là có một phiên kết nối được thành lập giữa
client và server trước khi dữ liệu được truyền đi. Sự kết nối còn lại này
hoạt động trong toàn bộ phiên hoạt động của FTP. Giao thức có định
hướng này rất nổi tiếng về độ tin cậy và sự phục hồi lỗi ứng với các đặc
điểm sau:
- Điều khiển luồng: Bởi vì các client và server đều tham gia trong việc
truyền các gói tin vì vậy các vấn đề về việc truyền tin như là các gói tin làm
tràn bộ nhớ và lạc mất các gói tin là không thể xảy ra.
- Sự chứng nhận: Máy tính gửi các gói dữ liệu và mong chờ một tín
hiệu chứng nhận từ các máy tính nhận. Sự chứng nhận này kiểm tra xem
máy đó đã nhận được gói tin hay chưa.
- Sự truyền lại: Nếu việc truyền đi của máy tính không nhận được
một tín hiệu ACK ứng với một khoảng thời gian đã định trước, nó sẽ giả
định rằng gói tin đó đã bị mất hoặc bị thất lạc thì sau đó nó sẽ truyền lại gói
tin đó.
Tính tuần tự: Tất cả các gói tin sẽ được đánh số và gửi cùng lúc, vì
thế máy nhận sẽ biết cách tổ chức dữ liệu nhận được.
- Checksum: Tất cả các gói tin được chứa trong một checksum để
đảm bảo tính toàn vẹn của dữ liệu. Nếu dữ liệu bị thất lạc ở một nơi nào đó

trong suốt quá trình truyền, checksum sẽ chỉ ra rằng dữ liệu nhận được
không giống với dữ liệu gửi.
a) Các thuộc tính của FTP trên IIS:
22
Mỗi site FTP mà người sử dụng tạo ra đều có một bảng thuộc tính
riêng của nó. Những cài đặt chung hoặc các thuộc tính cho mỗi site được
hiển thị trong các bảng thuộc tính này.
Dịch vụ FTP sử dụng 5 bảng thuộc tính để cấu hình cho các dịch vụ
FTP, cụ thể như sau:
FTP Site. (Site FTP)
Security Account. (Bảo mật tài khoản)
Messages. (Thông báo)
Home Directory. (Thư mục gốc)
Directory Secuity. (Bảo mật thư mục)
Trong suốt quá trình cài đặt, IIS gán các giá trị mặc định cho việc
thiết lập trên các bảng thuộc tính khác nhau. Người sử dụng có thể dùng
chung các tài liệu trên site FTP của họ mà không phải thay đổi các thiết lập
mặc định này nhưng cũng dễ dàng trong việc thay đổi các thuộc tính được
thiết lập theo ý thích.
Mỗi site FTP được tạo ra và mỗi file ứng với mỗi site FTP đều có một
thuộc tính riêng mà người sử dụng có thể điều chỉnh để tuỳ biến những cấu
hình thiết lập tên từng site một hoặc từng file một. Họ cũng có thể điều
chỉnh việc thiết lập các thuộc tính mặc định các site và các file con đã thiết
lập tuỳ biến trước đó.
Có 3 kiểu (hoặc các lớp) của các bảng thuộc tính FTP với IIS và
chúng tương tự như 3 lớp của bảng thuộc dùng trên các site WWW. Các
lớp thuộc tính FTP gồm: Master, Dedault và File. Người sử dụng có thể tuỳ
biến cấu hình của 3 kiểu thuộc tính này của bảng thuộc tính nhưng khi
thay đổi cấu hình ở một nơi nào đó thì nó cũng ảnh hưởng đến các site và
các file con mà họ đã tạo.

b) Bảo mật FTP
Các đặc trưng bảo mật của dịch vụ FTP cũng giống như dịch vụ
WWW. Khác nhau cơ bản ở chỗ không có giao thức cho việc thiết lập bảo
mật dữ liệu của FTP giống như HTTP và SSL
23
- Truy cập phía server: Dịch vụ i có thể được cấu hình trên trang
thuộc tính Security Account cho các kết nối đến client và những địa chỉ IP
đặc biệt. Đây là một cách tốt để ngăn chặn những người sử dụng không
mong muốn truy cập vào server.
- Truy cập phía người dùng: Dành cho các server với các file chung,
các client thường kết nối dưới một tên người dùng ẩn danh. Nếu dịch vụ
FTP được cấu hình cho phép điều này trong thuộc tính Security Account,
nó sẽ ánh xạ tên người dùng ẩn danh đến một cấu hình tài khoản của người
sử dụng Windows NT. Tài khoản mặc định tạo ra là IUSR_computername
và được sử dụng bởi IIS.
Nếu cho phép sử dụng tên người dùng ẩn danh bị tắt. Người sử dụng
sẽ được cung cấp một tên người dùng chính xác. Tên người dùng này phải
đúng là môt tài khoản Windows NT ở FTP Server hoặc trong một miền mà
FTP Server cung cấp.
- Truy cập tài nguyên FTP: Dịch vụ FTP có thể cấu hình trên trang
thuộc tính Security Directory để cho phép Client chỉ có thể đọc hoặc ghi
lên file trong một thư mục được chia xẻ.
- Truy cập File: Nếu các yêu cầu đã qua các kiểm tra bảo mật trước
đó, dịch vụ FTP sẽ đưa các yêu cầu này đến hê thống file để đạt được tài
nguyên. Dịch vụ FTP đóng vai trò của người sử dụng FTP Client khi tạo ra
các yêu cầu. Nếu hệ thống file từ chối truy cập đến tài nguyên, FTP server
sẽ trả về khoảng 550 tên file “Access Denied” (từ chối truy cập). Các truy
cập file được cấu hình bằng cách sử dụng File Manager hoặc các thuộc tính
file trong Explorer.
V. APACHE WEB SERVER:

1. Giới thiệu về Apache Web Server:
24
Apache là một phần mềm Web server được cung cấp bởi tập đoàn
Apache Group. Đây là một Web server được hỗ trợ để chạy chủ yếu trên
UNIX va LINUX và rất được phổ biến bởi tính chặt chẽ, uyển chuyển và
linh hoạt. Hiện nay Apache là một Web server đang quản lý hơn 50% số
Web site đang có trên thế giới.
2. Tổ chức Web site:
Trước khi bắt đầu xây dựng một Web site, người sử dụng có thể
muốn tìm hiểu tổ chức của nó. Khi có nhiều hơn các khả năng suy nghĩ về
các cách tổ chức cấu trúc một Web site, người sử dụng có thể suy nghĩ về nó
như một viễn cảnh đi lại. Trong những suy nghĩ thêm của nó về khía cạnh
này, sẽ nảy sinh ra những câu hỏi: Người sử dụng có thể làm gì để dễ dàng
giữ gìn Web site của mình? Các quy ước nào sẽ làm đơn giản Web site của
họ?
3. Cài đặt Apache trên Windows:
Chạy file Apache.msi đã tải Apache về, người sử dụng sẽ phải nhập
các thông tin sau:
- Có hay không việc chạy Apache cho tất cả mọi người sử dụng (như
một dịch vụ) hoặc cài đặt Apache để chạy trên một cửa sổ giao tiếp khi
chọn shortcut khởi động Apache.
- Tên Server, tên miền và tài khoản email của người quản trị.
- Tên thư mục để cài Apache vào (mặc định là C:\Program
Files\Apache Group\Apache mặc dù người sử dụng có thể thay đổi sang
một thư mục bất kỳ mà họ muốn)
- Kiểu cài đặt. Chức năng “Complete” sẽ cài đặt mọi thứ, bao gồm cả
mã nguồn nếu người sử dụng đã tải về gói –srm.msi. Chọn cài đặt
“Custom” nếu không muốn chọn cài đặt tài liệu hoặc mã nguồn từ gói cài
đặt này.
Trong suốt quá trình cài đặt Apache sẽ cấu hình các file trong thư

mục conf cho thư mục lựa chọn cài đặt của người sử dụng, tuy nhiên nếu
25

×