Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đạo đức của tín đồ Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.99 KB, 82 trang )

Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: Đạo Công giáo ở Thanh Hóa 5
1.1. Sự du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Thanh Hóa 5
1.1.1. Vài nét về đạo Công giáo và quá trình du nhập đạo Công
giáo ở Việt Nam
5
1.1.2. Quá trình truyền bá và phát triển đạo Công giáo ở Thanh Hóa 15
1.2. Tình hình đạo Công giáo ở Thanh Hóa hiện nay 22
Chơng 2: Đạo đức tín đồ Công giáo ở Thanh Hóa
hiện nay dới ảnh hởng của đạo Công
giáo và những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy những giá trị tích cực, hạn
chế những biểu hiện tiêu cực của nó
35
2.1. Đời sống đạo đức của tín đồ Công giáo ở Thanh Hóa hiện nay 35
2.1.1. Những giá trị tích cực trong đời sống đạo đức của tín đồ
Công giáo ở Thanh Hóa dới ảnh hởng của đaọ Công giáo
hiện nay
35
2.1.2. Một số biểu hiện tiêu cực trong đời sống đạo đức của tín đồ
Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa dới ảnh hoửng của đạo Công
giáo hiện nay
44
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những giá trị tích
cực và hạn chế những biểu hiện tiêu cực trong đời sống đạo
đức của tín đồ Công giáo ở Thanh Hóa
52
2.2.1. Một số quan điểm chỉ đạo 52
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu 54


Kết luận 69
1
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 70
Phô lôc 76
2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hiện tợng xã hội phổ biến, có ảnh hởng to lớn đến
sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng ngời trong lịch sử. Hiện nay, ảnh
hởng của tôn giáo đang có chiều hớng gia tăng đối với các lĩnh vực trong đời
sống xã hội ở hầu khắp các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Công giáo là một chi phái lớn của Ki tô giáo, có tác động nhiều mặt
đến đời sống, đạo đức, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều n-
ớc trên thế giới, nhất là ở châu Âu.
Mặc dù Công giáo đợc du nhập vào Việt Nam thời gian cha lâu, nh-
ng với tất cả tính riêng biệt của mình, Công giáo đã và đang có ảnh hởng
sâu sắc đối với đời sống tinh thần trong xã hội. Trong tình hình hiện nay,
khi mà nớc ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng, mặt trái của nó
đã làm cho đạo đức xã hội có phần bị suy thóai. Vai trò của tôn giáo cũng
nh đạo Công giáo đã tác động vào đời sống xã hội, đặc biệt là đối với đạo
đức của tín đồ Công giáo ở nớc ta nói chung, ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Chính sự tác động, ảnh hởng ấy có những mặt tích cực, nhng cũng đang gây
ra những hậu quả nhiều mặt, không chỉ đối với các tín đồ Công giáo, mà cả
với các lực lợng xã hội khác trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở
các địa phơng. Đạo Công giáo đã ảnh hởng tiêu cực đến cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực t tởng-văn hóa ở nớc ta hiện nay.
Trong tình hình ấy, việc đi sâu nghiên cứu ảnh hởng của đạo Công
giáo đối với đạo đức đợc thể hiện qua lối sống của tín đồ Công giáo ở
Thanh Hóa, để đề ra các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
3

tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong sự nghiệp đổi mới đất nớc là
một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay ở nớc ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về ảnh h-
ởng của các tôn giáo đề cập đến sự ảnh hởng của nó đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội (xem: "Sự thống nhất giữa "Kính chúa" và "Yêu nớc"
trong t tởng Đặng Đức Tuấn. Triết học, số 2 tháng 4/2000.(Đỗ Lan Hiền)"
"Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại" (5.01.01); "Góp phần tìm hiểu đạo
đức trong kinh thánh" (5.01.01); "Vận dụng quan điểm khoa học về tôn
giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"
(5.01.02), "Khía cạnh nhân văn của giáo lý Thiên Chúa giáo và công tác
xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào Thiên Chúa giáo" (5.01.01);
"Công tác vận động quần chúng theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc nớc ta
hiện nay" (5.03.14); "Một số vấn đề về lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt
Nam" (Đỗ Quang Hng), "Bớc đầu của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam" (Sự
phát triển của t tởng ở Việt Nam) - của Giáo s Trần Văn Giàu; "Đời sống
đạo của ngời dân công giáo ở thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh" (Nguyễn Hồng Dơng); "Thập giá và lỡi gơm" (Trần Tam Tĩnh); "ảnh
hởng của các hệ t tởng và tôn giáo đối với con ngời Việt Nam hiện nay" (Đề
tài KX.07.03)."Những quan điểm đổi mới và hoàn thiện chính sách tôn
giáo và tín ngỡng của nớc ta hiện nay" (KX.04.13) Và nhiều công trình
nghiên cứu khác của Trung tâm khoa học về Tín ngỡng và Tôn giáo - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, các trung tâm nghiên cứu của
Giáo hội Công giáo, ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam ). Dới các góc
độ khác nhau, các công trình nghiên cứu đó đã đặt ra và giải quyết nhiều
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách, góp phần cung cấp cơ sở
4
khoa học cho chủ trơng đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc ta đối
với tôn giáo trong mỗi giai đoạn cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi

mới hiện nay.
Tuy nhiên, về ảnh hởng của đạo Công giáo đối với đạo đức thể hiện
qua lối sống của tín đồ Công giáo ở nớc ta, nhất là ở tỉnh Thanh Hóa thì
lĩnh vực này cha có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và trực tiếp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu ảnh hởng của đạo Công giáo đối với đạo đức
của tín đồ Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức
tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới ở địa phơng.
Nhiệm vụ: Với mục đích nh trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Tìm hiểu quá trình du nhập và tình hình của đạo Công giáo ở
Thanh hóa hiện nay.
- Phân tích tình hình đạo đức đợc biểu hiện qua lối sống của tín đồ
Công giáo ở tỉnh Thanh hóa dới ảnh hởng của đạo Công giáo.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa ph-
ơng và của đất nớc.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không đi sâu nghiên cứu đạo Công
giáo với ảnh hởng của nó đối với các mặt của đời sống xã hội, mà chỉ tập
trung nghiên cứu về ảnh hởng của đạo Công giáo đối với đạo đức đợc thể
hiện qua lối sống của tín đồ Công giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong
tình hình hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
5
- Thực hiện đề tài này, ngời viết luận văn dựa trên cơ sở vận dụng
tổng hợp về lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh cũng
nh quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề tôn giáo, đạo đức để tiến
hành nghiên cứu, ngời viết luận văn đã sử dụng tổng hợp các phơng pháp
lịch sử - lôgíc, phơng pháp phân tích và tổng hợp , ngoài ra còn sử dụng
kết quả của phơng pháp điều tra xã hội học v.v Đồng thời kế thừa có chọn

lọc một số công trình nghiên cứu của nhiều tác giả có liên quan đến nội
dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần tìm hiểu về lịch sử đạo Công giáo ở Thanh Hóa, chỉ ra
ảnh hởng của đạo Công giáo đối với đạo đức của tín đồ Công giáo trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Bớc đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo ở tỉnh Thanh Hóa trong quá
trình đổi mới của địa phơng và đất nớc để góp phần xây dựng nền văn hóa
mới, con ngời mới xã hội chủ nghĩa.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận văn này trớc hết là
phục vụ cho công tác vận động đồng bào Công giáo của địa phơng. Có thế
làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu có nội dung liên quan đến
nội dung của luận văn này và làm tài liệu cho sinh viên các Trờng đại học,
cao đẳng, khi nghiên cứu về ảnh hởng của đạo Công giáo đối với đạo đức
tín đồ ở Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm có 2 chơng, 4 tiết.
6
7
Chơng 1
Đạo Công Giáo ở Thanh hóa
Đạo Công giáo là một tôn giáo có đối tợng thờ cúng là Đức chúa
Trời và đấng cứu thế Giêsu, với hệ thống giáo lý đồ sộ và bộ máy hết sức
chặt chẽ.
Với t cách là một tôn giáo thế giới điển hình, đạo Công giáo có mặt
ở nhiều nớc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển của đạo Công giáo vô cùng phức tạp. Trong phạm vi đề tài này,

chúng tôi chỉ xin lợc qua những mốc chính trong tiến trình lịch sử đạo Công
giáo; từ đó, phân tích quá trình du nhập của nó vào Việt Nam nói chung,
Thanh hóa nói riêng, để có cơ sở xem xét ảnh hởng của đạo Công giáo đối
với đạo đức tín đồ Công giáo ở Thanh hóa hiện nay.
1.1. Sự du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Thanh hóa
1.1.1. Vài nét về đạo Công giáo và quá trình du nhập đạo Công
giáo ở Việt Nam
Vào đầu công nguyên, đế chế La Mã đã trở thành một vơng quốc
hùng mạnh. Đó là một đế chế đợc dựng lên trên một chế độ nô lệ dã man,
tàn bạo và bất công, với những mâu thuẫn hết sức gay gắt và phức tạp giữa
các giai tầng xã hội. Trong vơng quốc La Mã, những ngời nô lệ chỉ là
những " công cụ biết nói " mà thôi. Để tăng cờng thế lực của mình, đế quốc
La Mã đã tiến hành chiến tranh xâm lợc và áp đặt chế độ nô dịch tàn bạo
đối với nhiều quốc gia, dân tộc khác
Trớc sự hà khắc của chế độ nô lệ, sự bạo tàn của tầng lớp quý tộc
chủ nô cầm quyền, trong lòng đế quốc La Mã đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh
của những ngời nô lệ, điển hình là cuộc khởi nghĩa nô lệ do ngời anh hùng
Spáctaquýt vào năm 74 trớc công nguyên cầm đầu là thiên lịch sử bi hùng
8
của La Mã. Để đảm bảo lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô, duy trì trật tự
trong chế độ nô lệ trớc phong trào đấu tranh của quần chúng, chính quyền
La Mã đã thẳng tay đàn áp và phong trào đấu tranh của quần chúng bị dìm
trong biển máu. Sau thất bại của phong trào đấu tranh, đời sống của những
ngời lao động (chủ yếu là của những ngời nô lệ) càng thêm cùng cực, họ
không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn khủng hoảng nặng nề về t tởng,
tinh thần. Quần chúng căm hờn bọn thống trị tàn bạo nhng cảm thấy mình
bất lực, họ mong chờ một Đấng thiêng liêng từ trên trời xuống cứu vớt.
Nhân dân lao động hy vọng có nớc công lý " nghìn năm " sẽ xuất hiện và
bọn thống trị sẽ bị Thợng đế trừng phạt (ớc mong này đợc ghi một cách
bóng gió trong quyển Khải huyền) là quyển sách đầu tiên của bộ " Tân ớc ".

Trong bối cảnh đó, một tôn giáo mới, với mong muốn cứu rỗi những ngời
cùng khổ xuất hiện, do Kitô sáng lập nên gọi là đạo Kitô, còn gọi là đạo Cơ
đốc giáo.
Sự hởng ứng của quần chúng theo đạo này đã làm cho bọn thống trị
lo sợ, chúng cấm đoán, đàn áp, tớc đoạt cả tài sản vì chúng coi đây là một
thứ đạo mới chống lại chính quyền. Trong hàng ngũ những ngời Kitô giáo
đầu tiên cũng có những ngời thuộc tầng lớp trên bị phá sản và dần dần họ
cũng đứng trong hàng ngũ giáo sĩ của đạo này. Những ngời này giải thích
sự khốn cùng là do tội lỗi mà ra. Họ làm cho ông Chúa mà quần chúng
mong chờ trớc kia thành ông Chúa xuống trần chuộc tội cho loài ngời ở đời
sau. Họ không chống đối bọn thống trị nữa mà lại thần thánh hóa uy quyền
chúng bằng cách kêu gọi quần chúng hãy tuân theo chính quyền vì chính
quyền là do Thợng đế sinh ra (Kinh thánh của Phao-Lô).
Đến thế kỷ thứ IV, vua Công-stăng- tanh thấy đạo này có lực lợng
và có thể lợi dụng đợc nên không còn cấm đoán mà cho đợc bình đẳng với
tôn giáo của Đế quốc Rôma. Sau đó Kitô giáo đợc nhận là Quốc đạo và bảo
vệ đế quốc Rôma. Từ đó về sau Kitô giáo không còn là tôn giáo của những
ngời nghèo khổ nữa, mà trở thành công cụ bảo vệ chế độ ngời bóc lột ngời,
9
dựa vào bọn thống trị để mu lợi và có lúc đã mu đồ nắm cả bọn vua chúa
thế tục ở Châu Âu; điển hình là Công giáo tự coi mình là chính thống giáo
của Kitô, có tòa thánh Vaticăng ở Rôma do giáo Hoàng đứng đầu, là ngời
thay mặt Chúa trời để chăn dắt con chiên, tín đồ của Chúa.
Hiện nay đạo Công giáo có mặt ở nhiều nớc trên thế giới với gần
một tỷ tín đồ với một hệ thống giáo lý, giáo luật đồ sộ. Đây là một tôn giáo
điển hình có hệ thống tổ chức đợc hình thành sớm, chặt chẽ, từ trên xuống
dới. Có ảnh hởng to lớn trong đời sống xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc,
trong đó có Việt Nam. Bởi Giáo hội coi việc truyền giáo là một sứ mệnh tự
thân đi mở nớc Chúa, cũng nh thực hiện lời dạy của Chúa "Các con hãy đi
dạy đạo và rửa tội cho mọi quốc gia nhân danh Cha, và Con, và các Thánh

thần" [32. 28].
Quá trình đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu dài và hết
sức phức tạp, hiện vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận, bàn cãi về lịch sử đạo
Công giáo ở Việt Nam.
Theo ý kiến của các nhà sử học, các nhà nghiên cứu, cũng nh sự
khẳng định của giáo hội Công giáo Việt Nam, đạo Công giáo du nhập từ
Việt Nam vào tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời vua Lê Trang
Tôn. Giáo sĩ ngời châu âu đầu tiên tên là Inêxu vào truyền đạo ở vùng Ninh
Cờng, Quần Anh, Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định. Lúc đầu vào truyền đạo của
hai dòng tu ở Việt Nam đó là dòng Chúa cứu thế của ngời Bồ Đào Nha và
dòng Đa Minh của ngời Tây Ban Nha. Đây cũng là một thời kỳ Giáo hoàng
của Giáo hội Rôma đã phân chia thế giới ra hai dòng truyền giáo, để mở
rộng nớc Chúa. Đó là phía Đông là dòng Bồ Đào Nha và phía Tây là dòng
Tây Ban Nha. Đây là hai nớc Công giáo phát triển mạnh nhất lúc bấy giờ.
Dòng Đa Minh có cơ sở ở Đàng trong từ năm 1550 sau đó họ bị Chúa
Nguyễn trục xuất vì có những biểu hiện đáng ngờ, còn dòng Tên hoạt động
cả Đàng trong và Đàng ngoài. Chính dòng này, chẳng bao lâu một nhân vật
10
nổi tiếng là Alexandre Derhoodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) đã đặt chân vào
cửa Lạch Bạng - Thanh Hóa truyền đạo và ra Bắc Hà. Trong khi đó hai đế
quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha suy yếu và càng về sau vai trò của Pháp
càng mạnh, nhất là sau năm 1558 khi MEP (Hội truyền giáo nớc ngoài
FARI) ra đời.
Có thể nói từ năm 1533-1658, là một giai đoạn đánh dấu sự truyền
giáo của Giáo hội Tây Ban Nha và Giáo hội Bồ Đào Nha, đang từng bớc
chuyển qua giáo hội Pháp đợc diễn ra trong thế kỷ XVI-XVII là giai đoạn
hết sức gian nan, vất vả và đẫm máu, nhng cộng đồng Kitô giáo lớn mạnh
khá nhanh. Năm 1627 ngời Việt Nam đầu tiên có tên tuổi trong sổ hộ tịch
của giáo hội, là ông Đỗ Hng Viễn (ngời Bồng Trung, Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa). Kết thúc giai đoạn này đã có khoảng mời vạn tín đồ trong đó tám vạn

ở Đàng ngoài và hai vạn ở Đàng trong nhng cha có linh mục ngời Việt
Nam. Đây cũng là giai đoạn Công giáo muốn phát triển trên toàn thế giới.
Với ý đồ đó, các nhà truyền giáo tìm mọi cách để truyền đạo. Mặc dù đạo
Công giáo, với t cách là một tôn giáo thế giới, với tính chất nhất thể chế, lại
là một sự cỡng bức văn hóa. Đó chính là điểm yếu của Công giáo, mãi
nhiều thập kỷ Giáo hội Rôma mới khắc phục đợc. Đặc biệt ở phơng Đông
là nơi có nhiều tín ngỡng tôn giáo, giàu truyền thống văn hóa nên cũng là
một cản trở lớn đối với Công giáo. Ngay từ buổi đầu đối với các dân tộc ph-
ơng Đông nói chung, Việt Nam nói riêng thì đó là sự phản ứng về văn hóa,
sự phản ứng về tôn giáo, nhất là phản ứng của Tam giáo đồng nguyên, phản
ứng của tập tục thờ cúng Tổ tiên, mà Công giáo vấp phải. Điều đó buộc
Giáo hội Công giáo có một sự thỏa hiệp nhất định. Trải qua một thời gian
khá lâu, Giáo hội Công giáo buộc phải có sự "nhợng bộ" nhất định. Đặc
biệt là trớc khi họ trở thành tín đồ Công giáo thì họ là ngời Việt Nam, nên
tín ngỡng tôn giáo, truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống đã thấm sâu
trong t tởng họ. Dẫn đến có sự đấu tranh t tởng gay gắt và quyết liệt khi
theo đạo Công giáo, bên cạnh đó có sự ngăn cấm của chính quyền phong
11
kiến đối với Công giáo khi vào Việt Nam. (Mãi đến năm 1937, Tòa thánh
Vatican mới có sắc chỉ cho phép đợc thờ cúng Tổ tiên với những quy định
cụ thể). Nh lời nhận xét của Linh mục Léopold Cadiere "Tôi nghiên cứu tín
ngỡng, các thực hành nghi lễ tôn giáo, phong tục, tập quán của họ và phải
thừa nhận rằng, ngời dân Việt Nam rất sâu sắc về tôn giáo, tín ngỡng của họ
trong sáng và khi họ cầu cứu đến trời, tế tự trời cũng có thể họ cũng đến với
một đấng Toàn năng mà chính tôi đang thờ kính và gọi bằng Chúa" [38.13].
Cho đến 1658-1945 là giai đoạn của Giáo hội Pháp thông qua Hội
truyền giáo nớc ngoài FARI (MEP), ở Việt Nam. Đây là giai đoạn công
cuộc truyền đạo phải trả bằng máu, vì đây không chỉ là sự đụng độ giữa hai
nền văn minh Đông Tây, mà chủ yếu còn là sự đụng độ giữa tinh thần yêu
nớc chống xâm lợc của nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc thực dân

phơng Tây đi xâm chiếm thuộc địa mà Giáo hội Công giáo là kẻ đồng lõa,
vừa phục vụ chủ nghĩa thực dân vừa đi mở rộng nớc Chúa, cũng bằng phơng
thức của chủ nghĩa thực dân tham ra bắn giết, dụ dỗ, mua chuộc, cỡng ép
ngời bản xứ theo đạo và chiếm lấy nhiều đất đai cho nhà thờ. Chính Nguyễn
ái Quốc trong quyển "Bản án chế độ thực dân Pháp", đã mạnh dạn vạch
trần bộ mặt của chủ nghĩa giáo hội thực dân "Nếu Thiên đờng có thật, thì
quá chật, không đủ chỗ để chứa chấp tất cả bọn tông đồ thuộc địa can đảm
đó, và nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đinh trên cây thánh giá trở về cõi
thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy "các môn đồ trung
thành" của mình thực hiện đức khổ hạnh nh thế nào: Giáo hội Xiêm chiếm
đoạt một phần ba diện tích ruộng đất canh tác trong xứ; Giáo hội Nam kỳ
chiếm một phần năm; Giáo hội Bắc kỳ, chỉ riêng ở Hà Nội đã chiếm một
phần t đất đai, cộng thêm một cái vốn bé xíu, 10 triệu Phơ-răng. Không cần
nói cũng biết là phần rất lớn tài sản ấy, giáo hội giành đợc bằng nhiều thủ
đoạn mà họ không thể và cũng không bao giờ thú nhận" [42.184]. Lúc bấy
giờ Đạo Công giáo ở Việt Nam đã có hai địa phận đầu tiên ở Việt Nam
(Đàng trong và Đàng ngoài) do hai Giám mục ngời Pháp là Francoi Pallu và
12
Lambert de la motte phụ trách, gây nên những mâu thuẫn gay gắt giữa giáo
sĩ dòng Tên của Bồ Đào Nha với Pháp. Cuối cùng Giáo Hoàng quyết định
dòng Tên phải rút khỏi Đông Dơng, nhờng cho Hội truyền giáo Pháp đi mở
rộng nớc Chúa. Điều đáng chú ý 1658-1884 là thời kỳ suy tàn của chế độ
phong kiến ở Việt Nam, xảy ra cuộc chiến tranh, tranh giành quyền lực giữ
các vua, chúa phong kiến Lê, Trịnh và Nguyễn, làm cho đời sống nhân dân
lầm than đói khổ, đạo đức bị suy thoái, là cơ hội tốt để cho Công giáo xâm
nhập truyền đạo. Dấu ấn đáng ghi nhớ năm 1799, Tòa thánh Vatican chính
thức đặt ra cho Việt Nam một chế độ có tên gọi là Đại diện tông tòa. Nó có
nhiệm vụ trực tiếp cử Giám mục ngời nớc ngoài về quản lý các xứ truyền
đạo.
Theo số liệu của Giáo hội, số ngời theo đạo Công giáo khá đông,

năm 1850 cả nớc có 500.000 ngời theo Công giáo [ 43.98 ]; năm 1668 có
ngời Việt Nam đầu tiên đợc phong linh mục. Đến năm 1799 Việt Nam có
70 linh mục và đến năm 1884 các giáo phận đã tăng lên 8 giáo phận trong
đó Đàng ngoài có 5 giáo phận và Đàng trong có 3 giáo phận.
Từ năm 1885-1945 là thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp xâm
chiếm và trở thành thuộc địa của Pháp. Thực dân Pháp trao cho giáo sĩ
nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vai trò của giáo hội đợc đề cao, thế lực của các
giáo sĩ trong xã hội ngày càng lớn, số lợng tín đồ tăng nhanh, các cơ sở thờ
tự đợc triển khai xây dựng ngày một nhiều. Trong khi đó nội bộ giáo hội có
sự phân biệt đối xử giữa ngời nớc ngoài và ngời bản xứ, các giáo sĩ Việt
Nam không muốn lệ thuộc giáo sĩ nớc ngoài. Năm 1933 mới có giám mục
ngời Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Bá Tòng. Đây là cột mốc đánh dấu sự
phát triển thắng lợi của Công giáo ở Việt Nam. Kết quả có 1,5 triệu tín đồ,
chiếm 7% dân số cả nớc, đợc chia thành 11 giáo phận, gần 1000 linh mục,
gần 4000 nữ tu, mở gần 1000 trờng học thu hút khoảng 70.000 học sinh, uy
thế công giáo lên cao, các xứ đạo, các cơ sở thờ tự, tu hành đợc mở mang
13
sửa chữa, chiếm hữu nhiều ruộng đất, đồn điền và nhà cửa kinh doanh,
Thu hút đợc nhiều tân tòng làm cho việc đi mở rộng nớc Chúa không còn
gặp trở ngại gì [43.155]. Đến năm 1942-1945 có xấp xỉ 2 triệu tín đồ, đợc
phân chia thành Giáo hội cả nớc, giáo hội tỉnh, giáo phận và giáo xứ. Giáo
hội luôn luôn rao giảng cho tín đồ sống thiện, tránh xa điều ác, về Thiên đ-
ờng địa ngục Nhng thực tế, đợc sự dung túng của thực dân Pháp họ lại
làm những điều phi đạo đức, gắn chặt với chủ nghĩa thực dân về mục đích
chính trị, kinh tế. Đến năm 1945-1975 là giai đoạn Bác Hồ và Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành đợc chính quyền, đánh
đuổi thực dân Pháp, trong nội bộ Công giáo hết sức phức tạp, diễn ra sự
đụng độ và phân rẽ. Nhất là từ 1945- 1954 là thời kỳ có sự đụng độ giữa
giáo hội và cộng sản, Thực chất là sự đụng độ giữa bọn thực dân Pháp và
giáo hội với cuộc đấu tranh chống xâm lợc của nhân dân Việt Nam do Đảng

cộng sản lãnh đạo. Bởi vì, chủ trơng của giáo hội là bắt tay với chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động bên trong, bên ngoài để chống cộng sản.
Nhiều nơi, nhà thờ trở thành pháo đài chống cộng nh Bùi Chu, Phát Diệm
cũng là lúc Công giáo dính líu vào chính trị rất sâu sắc. Một bộ phận tín đồ
bị chủ nghĩa thực dân lợi dụng. ở miền Bắc là nơi có số lợng giáo dân đông
nhất trong toàn quốc, chiếm 70% tín đồ, nhng nhiều đồng bào Công giáo
vẫn tham gia tổng khởi nghĩa cớp chính quyền. Đạo Công giáo ở Việt Nam
phát triển nhanh, nhất là ở miền Bắc. Bởi vì nhân dân miền Bắc bị chế độ
phong kiến Lê- Trịnh áp bức bóc lột nặng nề, đa số lâm vào cảnh bần cùng
khổ cực. Trong khi đó t tởng chính thống Nho giáo không còn đủ sức bảo
vệ chế độ phong kiến đã lỗi thời, đạo Phật cũng hết thời hng thịnh, làm cho
nhân dân có khoảng trống về mặt tâm thức- tâm linh tôn giáo. Đây chính là
mảnh đất màu mỡ cho Công giáo phát triển. Trong khi đó, giáo sĩ phơng
Tây lại có kinh nghiệm truyền đạo, có hàng hóa "kỳ lạ", lại biết dùng thuốc
men để trị bệnh, luôn giao giảng về đạo đức con ngời, mà mẫu hình đạo đức
14
là Thiên Chúa, nên cũng thu hút đợc nhiều ngời. Còn miền Nam không mặn
mà với Công giáo mà họ lại thích tham gia các hội kín. Giáo hội Việt Nam
đợc bọn thực dân Pháp che chở, lợi dụng phục vụ cho mu đồ xâm lợc của
chúng, làm cho quần chúng tín đồ day dứt giữa t tởng chống cộng của giáo
hội và tinh thần yêu nớc của tín đồ Công giáo mà bản thân họ là ngời Việt
Nam. Nên Giáo hội Công giáo Việt Nam ngay từ đầu có mặc cảm về tội lỗi,
họ cảm thấy nh một cục bớu thừa.
Đến năm 1954- 1975 là thời kỳ cực kỳ phức tạp, khi Việt Nam tạm
thời phân chia thành hai miền theo vĩ tuyến 17. Miền Bắc do chính quyền
cách mạng quản lý, miền Nam do chính quyền Ngô Đình Diệm tay sai của
đế quốc Mỹ cai trị. Lúc này, để thực hiện mu đồ chính trị đen tối, Giáo hội
Công giáo kêu gọi Chúa đã vào Nam, cỡng ép, dụ dỗ giáo dân miền Bắc di
c theo Chúa, làm cho phân bố dân c Công giáo thay đổi to lớn. T lệ giáo
dân ở miền Nam tăng nhanh. Trong 80 vạn ngời miền Bắc di c vào Nam thì

có tới 50 vạn ngời Công giáo, làm cho ở miền Nam chiếm 2/3 giáo dân toàn
quốc. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng giáo dân tạo ra một vành đai
chiến lợc ở các vùng trọng yếu chống cộng nh ở Hố Nai, Biên Hòa để bảo
vệ chế độ thực dân mới của Mỹ - Diệm. Chính quyền của Ngô Đình Diệm
có tham vọng Công giáo hóa miền Nam. Điều này không phải không có cơ
sở, ngay từ thời vua Tự Đức, ngời Pháp định đa Hồng Bảo là ngời Công
giáo lên làm Vua (Hồng Bảo là anh em với Tự Đức), nhng Tự Đức phát hiện
ra và đã bóp chết mu đồ đó (1876). Đến thời Bảo Đại thực dân Pháp cũng
nuôi dỡng mối tình của ông với Nam Phơng Hoàng hậu vì bà ta là ngời
Công giáo, Bảo Đại đã phá lệ của triều Nguyễn, kết hôn với Nam Phơng
Hoàng hậu. Bởi vì nhà Nguyễn cấm vua không đợc lấy vợ là ngời Công
giáo hoặc nếu lấy chỉ đợc làm Phi. Khi Mỹ hất cẳng Pháp, đa Ngô Đình
Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ lên làm Tổng thống miền Nam cộng hòa,
Công giáo lên ngôi, chế độ gia đình trị của Diệm dựa vào Công giáo để
15
củng cố quyền lực. Trong quân đội, cấp bậc từ đại úy trở lên phải là ngời
Công giáo. Trong hệ thống chính quyền, hầu hết các vị trí chủ chốt đều là
ngời Công giáo. Điều đó trớc mắt có lợi cho Mỹ - Diệm, nhng lại làm cho
Giáo hội Công giáo ở miền Nam uy tín bị tổn thơng, vì nó đi ngợc lại
truyền thống yêu nớc, chống xâm lợc của nhân dân Việt Nam. Chủ trơng
Công giáo hóa của Mỹ - Diệm cuối cùng cũng bị thất bại. ở miền Bắc, một
bộ phận tín đồ Công giáo bị t tởng chống cộng của giáo hội đầu độc cũng tỏ
thái độ tiêu cực với công cuộc kháng chiến chống Mỹ và bảo vệ, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nhng thông qua công tác vận động quần chúng của Đảng,
cũng nh đợc sự ủng hộ của nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình, trong đó
có nhân dân Mỹ và các tổ chức Công giáo Mỹ đối với cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, làm cho giáo dân giác ngộ, khắc phục
đợc thái độ tiêu cực của một bộ phận giáo dân. Giáo hội Việt Nam vẫn phụ
thuộc vào Rôma. Mãi đến năm 1960 Giáo hội Rôma mới chấm dứt thời kỳ
Tông tòa ở Việt Nam, nâng lên tầng chính thức hàng giáo phẩm Việt Nam.

Chấm dứt 400 năm đô hộ giáo phẩm nớc ngoài và ngời linh mục nớc ngoài
cuối cùng rút khỏi Việt Nam vào năm 1962 tại Lạng Sơn.
Từ năm 1975 đến nay, đây là giai đoạn có tính bớc ngoặt lịch sử của
Công giáo có sự chuyển hớng hoạt động. Theo sự đổi mới hoạt động của
Giáo hội Rôma bắt đầu từ Đại hội Công giáo lần thứ 21 ngày 11/11/1962 tại
Vatican và đợc gọi là Cộng đồng Vitican II. Giáo hội công khai thừa nhận
những sai lầm của nó trong lịch sử nên cần phải đổi mới để thích nghi với
thời đại. Giáo hội đa ra mấy chủ trơng lớn: Đối với nội bộ Công giáo phải
sửa đổi giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức và các hoạt động của giáo hội cho
phù hợp với trình độ quần chúng và "dân chủ". Giáo hội cho phép các linh
mục làm lễ, đọc kinh, giảng đạo theo tiếng dân tộc của mỗi nớc. Đối với
các giáo phái khác của Kitô giáo, Giáo hội chủ trơng hòa giải theo tinh thần
anh em cùng chung một gốc là thờ Đức Chúa Trời. Đối với các tổ chức tôn
16
giáo khác, tranh thủ, lôi kéo. Đối với các phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào hòa bình thì Giáo hội tỏ vẻ tán thành và ủng hộ. Đối với Cộng
sản thì Giáo hội chuyển từ đối đầu sang "đối thoại" và hòa nhập vào cộng
đồng dân tộc. Đặc biệt là ở các nớc mà Đảng cộng sản lãnh đạo thì Giáo hội
tranh giành ảnh hởng với cộng sản, giữ vững đức tin cho tín đồ, sẵn sàng lật
đổ chính quyền, thay đổi chế độ khi có thời cơ. Nh vậy họ chỉ thay đổi ph-
ơng thức tiến hành, còn mục tiêu cơ bản thì không hề thay đổi.
Do đó, đối với Công giáo Việt Nam thì đây là giai đoạn hội nhập
dân tộc, làm cho đạo gần đời hơn, chú ý đến đạo đức, lối sống của tín đồ
hơn. Về tổ chức có 25 giáo phận, 3 giáo tỉnh.
Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh có 9 địa phận-giáo phận tỷ lệ
8,5% dân số, là nơi có Tín đồ cao nhất nớc. Riêng thành phố Hồ Chí Minh,
Công giáo đậm đặc hơn.
Giáo tỉnh Huế có 6 giáo phận, tỷ lệ xấp xỉ 4,3% dân số là Tín đồ.
Giáo tỉnh Hà Nội có 10 địa phận tỷ lệ 6% dân số là Tín đồ. Trong đó
có ba địa phận đậm đặc giáo dân là địa phận Hà Nội, địa phận Phát Diệm và

Địa phận Bùi Chu.
Nh vậy, có thể nói rằng hiện nay khoảng 6-7% dân số ngời Việt
Nam theo đạo Công giáo. Đạo Công giáo nằm rải rác ở hầu hết các địa ph-
ơng trong cả nớc, trong đó có Thanh Hóa, đã và đang có ảnh hởng đến
nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là đạo đức của tín đồ Công giáo trong
tình hình hiện nay. Để đánh giá đúng tình hình của đạo Công giáo ở Thanh
Hóa hiện nay, trớc hết chúng ta cần lợc qua quá trình du nhập và phát triển
đạo Công giáo ở địa phơng này.
1.1.2. Quá trình truyền bá và phát triển đạo Công giáo ở
Thanh Hóa
17
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có một vị trí chiến lợc rất quan trọng, là
nơi giao hòa trên nhiều phơng diện giữa đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ.
Bắc tỉnh Thanh Hóa giáp ba tỉnh của Bắc bộ là Hòa Bình, Sơn La và
Ninh Bình với đờng ranh giới dài 175 km. Phía Tây, tỉnh Thanh Hóa nối
liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Phía Nam và phía Tây Nam giáp tỉnh Nghệ An làm thành vùng Thanh - Nghệ
truyền thống với chiều dài ranh giới là 160 km. Phía Đông, Thanh Hóa mở
rộng ra phần giữa của vịnh Bắc bộ thuộc biển Đông, có bờ biển dài trên 102
km. Phần đất liền của Thanh Hóa chạy dài theo chiều từ Tây Bắc xuống
Đông Nam. Diện tích tự nhiên 11.168 km
2
. Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ
XVII dân số Thanh Hóa có 7.660 hộ gia đình với 67.071 ngời, gồm có tám
dân tộc: Kinh, Mờng, Thổ, Thái, Dao, Hoa, Khơ mú và Hmông [22.324].
Có thể nói, Thanh Hóa rừng núi bao bọc cả ba phía Tây, Nam, Bắc
và Biển bao bọc phía Đông. Đờng từ Bắc vào Nam phải vợt qua dãy núi
Tam Điệp và dãy núi Thắng, rừng Hoàng Mai. Các dấu vết đờng cổ xa hiện
nay vẫn còn hình dung đợc, ngoài con đờng Thiên lý Bắc Nam, còn có con
đờng thợng đạo xuyên rừng vợt núi, qua các khúc sông thuộc hệ thống sông

Mã, mà phơng tiện đi lại chỉ là đi bộ, đi thủy. Tuy vậy con đờng thợng đạo
này lại có tính chiến lợc quan trọng từ Hòa Bình qua Nho Quan men theo s-
ờn núi Thạch Thành vào Tây Đô (Vĩnh Lộc), từ Hồi Xuân, La Hán dọc theo
các sờn núi sát dòng sông Mã thuộc huyện Bá Thớc cũng về Tây Đô, rồi từ
Tây Đô vợt qua sông Mã đi Thọ Xuân, Thờng Xuân, Nh Xuân vào tận Hóa
Quỳ Nghệ An, con đờng này vốn c dân Việt cổ ở rừng Cúc Phơng vẫn tràn
ra Bắc và đi vào Nam.
Thanh Hóa có bốn sông lớn là sông Mã, sông Hoạt, sông Yên và sông
Lạch Bạng. Sông Mã dài 512 km, chảy trong địa phận Việt Nam là 410 km,
riêng chảy qua Thanh Hóa là 242 km. trong đó sông Chu là nhánh lớn nhất
của sông Mã. Sông Chu dài 325 km đi qua Thờng Xuân, Thọ Xuân, Đông Sơn.
18
Sông Yên dài 94 km đi qua Nông Cống, Quảng Xơng. Sông Yên có
bốn nhánh: sông Nhơn, sông Hoàng, sông Lý và sông Thị Long.
Ngoài ra còn có sông Lạch Bạng dài 34,5 km đi qua Thờng Xuân,
Nh Xuân chảy ra cửa Bạng và sông Hoạt có chiều dài chảy từ nguồn đến
cửa là 55 km chảy qua hai huyện Hà Trung và Nga Sơn.
Bờ biển Thanh Hóa bắt đầu từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoàng Hóa,
Quảng Xơng và chạy dọc hết huyện Tĩnh Gia, có 6 cửa sông chính: Cửa
sông Hoạt chảy từ địa phận Nga Thái, cửa sông Lùn chảy ra từ địa phận xã
Nga Bạch, cửa Lạch Trờng chảy ra từ địa phận xã Hải Lộc và Hồng Trờng,
cửa Hà chảy ra từ địa phận Hoằng Hóa, Quảng Xơng, cửa Lạch Ghép chảy
qua địa phận xã Quảng Nham, Hải Châu và cửa Lạch Bạng chảy qua xã Hải
Thanh, Hải Bình. Thanh Hóa còn có đảo Biện Sơn có ngời ở và một số đảo
khác không có ngời ở nh Hòn Nẹ, Hòn Mê.
Về khí hậu Thanh Hóa thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Đông
Nam á, chịu ảnh hởng cả gió Đông Bắc và gió Đông Nam, về mùa hạ còn
có thêm gió Tây Nam nóng và khô.
Thanh Hóa có điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc nghiệt, dân c tha trải
rộng trên toàn bộ các vùng miền, nhất là miền núi. Đời sống kinh tế của

nhân dân hết sức khó khăn, chủ yếu là sống tự cung tự cấp, lại bị thiên tai,
lũ lụt triền miên, ốm đau bệnh tật nhiều. Đầu thế kỷ XVII, Trịnh - Nguyễn
phân tranh làm cho đời sống nhân dân vốn đã khó khăn lại càng khó khăn
hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ chiếm
đại đa số, trong nhân dân còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị
đoan, làm cho con ngời nhiều khi bất lực, sợ hãi trớc tự nhiên và cuộc sống.
Đó chính là những điều kiện thuận lợi để cho đạo Công giáo xâm nhập vào
Thanh Hóa.
Sự du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Thanh Hóa là một quá
trình đầy khó khăn gian khổ, với nhiều nét riêng biệt của nó. Theo Tòa
19
giám mục Thanh Hóa, ngời ta tìm thấy cuốn gia phả "Đỗ tộc gia phả" ở
Bồng Trung, Kẻ Bền, giáo phận Thanh Hóa (nay là thôn bồng Trung, xã
Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Theo tài liệu này, Cụ Đỗ Hng Viễn ng-
ời con thứ hai của cụ Đỗ Biểu, một vị quan lớn của triều đình thời Lê An
Tôn (1556-1573), đã tiếp xúc với con buôn tàu Hòa Lan và theo đạo Hòa
Lan. Cũng theo tài liệu trên, ông trởng chi trong dòng họ Đỗ tộc là Đỗ
Cảnh, là một tớng công triều đình. Con trai trởng của cụ là Đỗ Viên Mãn
(khoảng 1627-1643), cũng theo đạo Hòa Lan, khi tàu buôn ngoại quốc dạt
vào cửa Bạng (Ba Làng). Nh vậy, có thể ông Đỗ Hng Viễn là tín hữu đầu
tiên của Việt Nam. Theo tài liệu của giáo phận Thanh Hóa, vào ngày 19
Tháng 3 năm 1627, một thuyền buôn ngời nớc ngoài dạt vào Lạch Bạng (Xã
Hải Thanh, Huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa bây giờ). Trên thuyền có một giáo
sĩ tên là Alexandre de Rhodes, lập lều, đóng cây thánh giá ở núi Du Xuyên
để đi truyền đạo. Ông giúp ngời nghèo chữa bệnh, bảo vệ ngời dân khi quan
lại ức hiếp, khuyên giải họ làm điều thiện, tránh xa điều ác. Bởi thế, mỗi
khi ông giảng đạo đợc rất nhiều ngời dân xung quanh núi Du Xuyên đến
nghe. Nhng trong số đó chỉ có ba ngời ở địa phơng này chịu phép rửa tội.
Ông tiếp tục đi ra Bắc. Vì chỉ có ba ngời nên đạo Công giáo không phát
triển đợc, lại bị đạo Phật lúc bấy giờ lấn át. ở Đàng ngoài ngày 18 tháng 6

năm 1628, Trịnh Tráng lại cấm ngời Việt Nam không đợc tiếp xúc với các
Tây Dơng đạo trởng. Đến tháng 3 năm 1629 bản thân linh mục Rhodes và
linh mục Marquez lại bị dẫn độ về Nam để tìm thuyền trả về Ma Cao. Đến
tháng 4 năm 1630 thì linh mục Rhodes và các thừa sai dòng Tên bị trục
xuất khỏi Đàng ngoài. Cho nên, giai đoạn này ở Thanh Hóa đạo Công giáo
phát triển chậm.
Cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1659, Tòa thánh mới ban hành sắc
chỉ, thành lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam đó là địa phận Đàng trong
và địa phận Đàng ngoài. Đến năm 1670 đã có một linh mục đợc thụ phong
là ngời Thanh Hóa. Đó là Cha Antôn Quế. Đến năm 1679 địa phận Đàng
20
ngoài lại đợc chia làm hai gọi là Tây Đàng ngoài và Đông Đàng ngoài. Đạo
Công giáo vẫn phát triển rất khó khăn, mặc dù họ đi sâu vào đức tin để
khuyên răn đạo đức cho cá nhân tín đồ nhng số lợng tân tòng tăng không
đáng kể.
Mãi đến thế kỷ XVIII, đạo Công giáo mới chính thức phát triển ở
Thanh Hóa, đặc biệt là các vùng dân c ven biển nh Nga Sơn, Tĩnh Gia, Hậu
Lộc, Quảng Xơng và các vùng núi trung du nh Thọ Xuân, Triệu Sơn, Vĩnh
Lộc Đến đầu thế kỷ XIX lại là thời kỳ sát đạo, ở Thanh Hóa cũng có
nhiều tín đồ chống lại chính quyền địa phơng, nhiều tín đồ đã "tử" vì đạo.
Trong đó có Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm (1781-1838), Cha thánh
Phaolô Nguyễn Ngân (1790-1840), Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793-
1857), Thánh Lê Thị Thanh ngời Thanh Hóa bị hành quyết vào 12/7/1841
và nhiều tín hữu khác. Đến năm 1846 địa phận Tây Đàng ngoài lại tách làm
hai và Thanh Hóa vẫn thuộc Hà Nội.
Trong thời kỳ này các vị trí truyền đạo đều nằm ở những nơi cửa
sông, các vùng dân nhập c mới lập ấp, lập làng để sinh sống, ở các vùng núi
gần sông, các vùng xa xôi, cằn cỗi. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
đạo Công giáo mới phát triển nhanh, lan ra nhiều vùng (18/ 23 huyện thị lúc
bấy giờ). Cho đến năm 1902, phía Nam Hà Nội gọi là xứ Thanh, bao gồm

Ninh Bình và Thanh Hóa, làm thành địa phận Thanh. Đến năm 1924, địa
phận Thanh đổi tên là địa phận Phát Diệm. Lúc này đức cha Alexandre
Marcou là giám mục tiền khởi của địa phận Thanh (Thanh Hóa và Ninh
Bình). Ngài quyết tâm thực hiện ý muốn của Tòa thánh để có những giám
mục Việt Nam trông coi những giáo phận Việt Nam. Ngài đã chuẩn bị các
điều kiện để giáo phận Phát Diệm tách làm hai, giáo phận này chỉ còn lại
trong tỉnh Ninh Bình, còn Thanh Hóa và Châu Lao (một tỉnh Hủa Phăn của
Lào bây giờ) làm thành giáo phận mới, có Tòa giám mục tại Thanh Hóa,
nên gọi là giáo phận Thanh Hóa. Mãi cho đến ngày 7/ 05/ 1932 Tòa thánh
21
mới ký sắc lệnh thành lập giáo phận, Đức cha Louis de Cooman Giám mục
phó Phát Diệm đợc cử làm giám mục tiền khởi của giáo phận Thanh Hóa và
ngày 12/9/1932 Đức cha đã đến nhận giáo phận Thanh Hóa. Theo số liệu
của Tòa giám mục Thanh Hóa lúc đó đã có 26 Cha thừa sai, 48 linh mục
Việt Nam, 82 Thầy giảng và 18 giáo xứ gồm Thanh Hóa, Ba Làng, Phúc
Lãng, Liên Nghĩa, Nhân Lộ, Phong ý, Mỹ Điện, Thái Yên, Mục Sơn, Dơng
Giáo, Kẻ Bền, Ngọc Cao, Vân Lung, Kẻ Láng, Kẻ Rừa, Tam Tổng, Điền Hộ
và Tân Hải, với số lợng Giáo dân khoảng 45000 ngời. Trong đó có 5000 ng-
ời là ngời dân tộc thiểu số chủ yếu là ngời Mờng, trên tổng số dân lúc bấy
giờ là 1500.000 ngời. Về cơ sở có một chính tòa, một Tòa giám mục (Nhà
chung), một trờng tiểu chủng viện đào tạo linh mục cho Châu Lào tại Mục
sơn (Hữu lễ), xây năm 1918, một trờng tập ở Ba Làng huyện Tĩnh Gia trở
thành tiểu chủng viện, và 4 dòng: dòng Kín, dòng Mến thánh giá, dòng Đức
Bà truyền giáo và dòng Phanxicô. Ngoài ra địa phận mới cũng có những cơ
sở làm công tác từ thiện, nhân đạo nh trại phong, một nhà thơng và một nhà
Dục Anh. Sau này có thêm Trờng trung học nhà chung, trớc khi có cơ sở
mới và lấy tên là trờng Vĩnh Ký. Bảy năm sau, đến năm 1939 đây vẫn là
thời kỳ Thanh Hóa cũng nh bao địa phơng khác, vẫn nằm dới sự thống trị
của thực dân Pháp. Tuy lúc này Việt Minh ở địa phơng đang hoạt động
mạnh, có nhiều chi bộ ra đời, làm cho công cuộc truyền giáo gặp rất nhiều

khó khăn. Nhng dới sự bảo trợ của chính quyền bù nhìn của thực dân Pháp,
đạo Công giáo vẫn phát triển, số lợng tân tòng vẫn tăng nhanh. Lúc này, họ
luôn lợi dụng Kinh Thánh, lời khuyên, răn, cấm của Chúa, Hội thánh, để tác
động vào đời sống của tín đồ, nhất là về đạo đức của tín đồ để ngăn cản ng-
ời Công giáo tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong bảy năm đó, Giáo phận Thanh Hóa có 42 thừa sai, 53 linh
mục ngời Việt Nam, 22 đại chủng viện, 183 tiểu chủng viện, có 74 nữ tu,
22
58.628 giáo dân, với 39 Giáo xứ đợc chia làm 5 hạt, 74 nhà thờ và 153 nhà
nguyện. Lúc này phong trào cách mạng lên cao chuẩn bị cớp chính quyền,
nhiều nơi trong tỉnh đã nổ ra các phong trào đấu tranh do Việt Minh lãnh
đạo có cả giáo dân tham gia, làm suy yếu đà tiến của giáo phận, nhất là ở
miền Châu Lao (tỉnh Hủa Phăn - Lào). Mặt khác phong trào biểu tình của
đồng bào Công giáo đòi quyền cai quản cho các xứ và đòi quyền quản lý
giáo phận vì lúc đó các xứ, linh mục không phải đều là ngời Việt Nam mà
phần lớn còn là ngời nớc ngoài. Vì vậy làm cho các thừa sai không thể hoạt
động đợc, đến chỗ chấm dứt hoạt động. Hai tiểu chủng viện, trờng thầy
giảng, trờng nhà chung và các cơ sở xã hội cũng dần dần đóng cửa. Tuy
nhiên, số linh mục và số lợng giáo dân vẫn gia tăng. Cho đến ngày Tổng
khởi nghĩa Cách mạng tháng 8 năm 1945, số đông đồng bào Công giáo
cũng tham gia các đoàn biểu tình, mít tinh cớp chính quyền. Đây là bớc
ngoặt của đạo Công giáo ở Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng; là
thời kỳ đầy phức tạp và thử thách trớc sự thắng lợi của cách mạng và sự
quay lại của thực dân Pháp. Không ít vùng Công giáo nhà thờ lại thành nơi
tụ họp của bọn phản động, làm tay sai cho Pháp, thậm chí còn là lô cốt
chống lại chính quyền cách mạng, nuôi dấu gián điệp nh đảo Mê, nhà thờ
Ba Làng và một số vùng giáo Nga Điền thuộc Nga Sơn gần Phát Diệm. Đến
hiệp định Giơnevơ 1954 lợi dụng lòng tin vào Chúa của đồng bào Công
giáo chúng tuyên truyền, lôi kéo, đe dọa và cỡng ép đồng bào Công giáo
vào Nam vì Chúa đã vào Nam. Nhiều linh mục và tu sĩ đã đi vào Nam, cùng

với 18.500 giáo dân. Giáo phận Thanh Hóa chỉ còn lại có 27 linh mục, 15
đại chủng sinh, 70 tiểu chủng sinh, 50 nữ dòng Mến thánh giá Thanh Hóa
và khoảng 47.000 giáo dân.
Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nớc, với đờng lối đúng đắn, sáng tạo,
Đảng đã tổ chức, động viên nhân dân ở cả hai miền Nam Bắc tiến hành
cuộc kháng chiến thần thánh đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tinh thần yêu nớc, chống Mỹ của nhân
23
dân đợc phát động trong cả nớc cũng nh ở Thanh Hóa; không chỉ đồng bào
lơng mà cả đồng bào Công giáo cũng tích cực tham gia kháng chiến theo
tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến tranh
phá hoại ra miền Bắc. Chúng bắn phá cả trờng học, nhà thờ, tu viện. Tòa
giám mục Thanh Hóa cũng bị máy bay Mỹ oanh tạc, nhiều nhà thờ Công
giáo trên địa bàn Thanh Hóa bị phá hoại, gây bao khó khăn, mất mát cho
cuộc sống cả đạo lẫn đời. Năm 1975 nớc nhà hoàn toàn giải phóng, cả nớc
đi lên chủ nghĩa xã hội, nhng hậu quả chiến tranh còn nặng nề. Cho đến khi
Đảng khởi xớng công cuộc đổi mới đất nớc, đổi mới chính sách tôn giáo thì
Công giáo lại có chiều hớng phát triển. Nhiều tín đồ nhạt đạo, khô đạo, bỏ
đạo hoặc không tham gia hoạt động lễ nghi do nhà thờ tổ chức đã trở lại
hoạt động; các cơ sở thờ tự đợc sửa chữa lại khang trang, quy mô hơn.
Trong bối cảnh ấy nhà thờ cũng đa ra nhiều yêu sách với chính quyền đòi
lại các nhà nguyện, các cơ sở vật chất trớc chiến tranh, tranh giành quần
chúng với các đoàn thể của ta. Dới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Thanh Hóa, với sự tham mu của các ban ngành chức năng,
chúng ta đã giải quyết ổn thỏa nhiều vấn đề cụ thể. Mặt khác, các hình thức
sinh hoạt của đạo Công giáo cũng đang dần dần thay đổi, điều chỉnh làm
cho đạo gần đời hơn và sống phúc âm trong lòng dân tộc.
Qua sự trình bày trên chúng tôi có một số nhận xét sau:
Với địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ điều kiện địa lý tự nhiên cho đến
kinh tế- văn hóa xã hội và con ngời vào đầu thế kỷ XVII nh vậy là điều

thuận lợi cho việc truyền đạo Công giáo vào Thanh Hóa, với t cách là một
tôn giáo ngoại sinh.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa, cũng nh vào các địa phơng khác,
lúc ban đầu không dễ dàng gì. Bởi vì trớc khi là tín đồ Công giáo họ là ngời
Việt Nam với quan niệm của ngời dân về tín ngỡng tôn giáo, niềm tin, quan
niệm đạo đức, tập tục thờ cúng Tổ tiên Sự va chạm với các tôn giáo khác
24
nhất là tam giáo đồng nguyên. Bên cạnh đó sự ngăn cấm của chính quyền
phong kiến đối với đạo Công giáo.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa cũng có những nét riêng biệt của
nó.Lúc đầu đạo Công giáo ở đây có sự gắn liền với địa phận Ninh Bình và
tỉnh Hủa Phăn của Lào, về sau mới tách ra một giáo phận độc lập. Đây cũng
là một trong những giáo phận mà tín đồ Công giáo cùng chung một đơn vị
hành chính tỉnh và cũng là nơi có tín hữu đầu tiên của Việt Nam.
Đạo Công giáo vào Thanh Hóa chủ yếu bằng đờng thủy, tín đồ Công
giáo buổi đầu chủ yếu là dân các vùng ven sông, ven biển, các cửa sông và
những vùng đất mới khai phá, mới lập nên thôn, xóm, làng, xã. Nhìn chung
tín đồ Công giáo có trình độ dân trí thấp nhng sống khá tập trung.
1.2. Tình hình đạo công giáo ở Thanh Hóa hiện nay
Để đánh giá đúng tình hình Đạo Công giáo ở Thanh Hóa, trớc hết
chúng ta cần tìm hiểu về kinh tế-xã hội của tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Trong những năm thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, với sự cố
gắng của Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân Thanh Hóa cũng đạt đ-
ợc một số thành tựu về kinh tế xã hội.Theo số liệu Báo cáo về việc thực hiện
mục tiêu kế hoạch 5 năm 1996-2000 và định hớng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng an ninh 5 năm 2000-2005 của tỉnh Thanh Hóa thì
tình hình kinh tế xã hội của Thanh Hóa những năm gần đây và đến 9 tháng
đầu năm 2000 có nhiều chuyển biến tích cực và đạt đợc một số thành tựu
quan trọng:
Tốc độ tăng GDP bình quân trong năm năm trở lại đây đạt 7%,

riêng năm 2000 ớc đạt 7,9% (theo kế hoạch 6,6%). GDP đầu ngời tăng từ
172 USD năm 1991 lên 286,4 USD năm 2000. Dự kiến tổng GDP năm 2000
tăng gấp 1,93 lần so với năm 1990 trong đó nông nghiệp tăng 1,43 lần,
công nghiệp tăng 2,87 lần, dịch vụ tăng 2,21 lần.
25

×