kinh tÕ biÓn ë nghÖ an
trong qu¸ tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
6
1.1. Đặc điểm của kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế 6
1.2. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình kinh tế biển trong hội nhập
kinh tế quốc tế 23
1.3. Kinh nghiệm ở một số địa phương phát triển kinh tế biển 50
Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ BIỂN NGHỆ AN GIAI ĐOẠN TỪ
2003 ĐẾN 2008
59
2.1. Tiềm năng kinh tế biển của Nghệ An 59
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển Nghệ An từ năm 2003 đến năm 2008 65
2.3. Một số đánh giá chung 87
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NGHỆ AN
TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ
99
3.1. Chủ trương phát triển kinh tế biển ở Nghệ An giai đoạn 2009
đến 2015 99
3.2. Các nhóm giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế biển đến 2015 117
KẾT LUẬN
125
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CV Mã lực đơn vị tính công suất tàu
Công ty CP Công ty cổ phần
BCH Đảng bộ Ban chấp hành đảng bộ
Bộ GTVT Bộ giao thông vận tải
B/Q Bình quân
BQL Ban quản lý
DWT Trọng tải.
EU Liên minh Châu Âu
FFI Tổ chức động thực vật quốc tế
FDI Vốn vay trực tiếp
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HACCP Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm
220KV 220 kilovôn
HTX Hợp tác xã
KHCN Khoa học- Công nghệ
KKT Đông Nam Khu kinh tế Đông Nam
KTHS Khai thác hải sản
Nacl Muối ăn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
ODA Vốn viễn trợ chính thức
QL1A Quốc lộ 1A
SARS Hội chứng hô hấp
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP Vinh Thành phố Vinh
TX Thị xã
UBND Ủy ban nhân dân
VHTD-TT Văn hóa thể dục - thể thao
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 2.1: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2003-2007 61
Bảng 2.2: Diễn biến tàu thuyền khai thác giai đoạn 2001-2007 69
Bảng 2.3: Cơ cấu nghề nghiệp tàu thuyền khai thác 70
Bảng 2.4: Sản lượng khai thác hải sản giai đoạn 2003-2007 71
Bảng 2.5: Năng suất khai thác hải sản bình quân giai đoạn 2003-2007 72
Bảng 2.6: Giá trị-sản phẩm chế biến giai đoạn 2003-2007 73
Bảng 2.7: Cầu bến cảng Nghệ An 78
Bảng 2.8: Thiết bị chính cầu cảng 78
Bảng 2.9: Hàng hoá thông qua cảng
79
Bảng 2.10: Dự án nâng cấp và xây dựng cảng
79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109
triệu km
2
, biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới
hạn 200 hải lý theo công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển
kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó tài nguyên trên đất liền ngày một
cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như nguyên thuỷ, vì vậy
các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng cường
tiềm lực để khai thác và khống chế biển.
Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc
quyền kinh tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km
2
, thêm vào đó là đặc
điểm không phải quốc gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển
hở thông với Đại Dương. Vì thế, Việt Nam không những có nhiều thuận lợi
để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo phong phú,
quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội giao thương với thế giới
để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong đó phát triển
ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển, các
ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.
Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế
biển những năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội
nhập, phát triển và đầy thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương
mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA) và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam dựa trên
mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối đa tiềm năng
và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực để
phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt
được mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ
1
cấu kinh tế vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng
ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát
triển thương mại-hàng hải trong một chương trình liên kết các ngành kinh tế
quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa phương thức), kéo theo
đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng cảng biển
và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại, nơi
có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn.
Là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, nước ta có vùng biển rộng 1 triệu
km
2
, dài 3.260 km trải dài ở cả ba hướng Đông, Nam và Tây Nam. Ven bờ
biển nước ta gần 300 đảo lớn nhỏ với diện tích 1.700 km
2
gồm 2 quần đảo lớn
là Trường Sa và Hoàng Sa. Biển Đông Việt Nam là con đường chiến lược và
giao lưu thương mãi quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tài
nguyên, khoáng sản phong phú và đa dạng là điều kiện thúc đẩy khai thác
hiệu quả các nguồn lợi từ biển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước.
Từ lợi thế vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội nước ta là hết sức quan trọng. Ngày 5/6/1993 Bộ Chính Trị ra Nghị
Quyết 03- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những
năm trước mắt - trong đó khẳng định đẩy mạnh kinh tế biển đi đôi với tăng
cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban
hành chị thị số 20-CT/TƯ đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH,
HDH. Cho đến Hội nghị lần thu IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X
đã thông qua Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Như
vậy, bây giờ chúng ta nhìn về kinh tế biển một cách toàn diện hơn.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; phát
huy vai trò của biển và vùng ven biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh- quốc phòng, Nghệ An là một tỉnh có biển hải phận rộng
4.230 hải lý vuông. Có chiều dài bờ biển hơn 82km trải dài từ Quỳnh Lập-
Quỳnh Lưu cho đến Cửa hội - Cửa Lò. Bờ biển có nhiều kiểu địa hình phức
2
tạp bình quân cứ 20 km có một cửa sông, đầm phá vũng vịnh nhỏ. Biển Nghệ
An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Vùng ven biển
Nghệ An thuộc 5 huyện, thị thành phố: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc,
Thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò. đảo Mắt, đảo Ngư nằm giữa biển có hệ
sinh thái đặc trưng của biển và vùng ven biển đối với phát triển kinh tế - xã
hội về trí chiến lược an ninh, quốc phòng của Tỉnh, ngày 12/2/2007 Tỉnh uỷ
Nghệ an ban hành NQ 16 về ”chương trình hành động, phối hợp các ngành,
nghề phát triển kinh tế biển”. Từ thực tế trên, vấn đề "Kinh tế biển ở Nghệ
An trong hội nhập kinh tế quốc tế" được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/05/1993 Bộ Chính
trị ra Nghị quyết 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia; Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Từ
những quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X đã thông qua nghị quyết về Chiến lược phát triển biển
Việt Nam đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh
về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo góp phần
qua trọng trong sự nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước
giàu mạnh.
Vấn đề của kinh tế biển là chủ đề mới được đề cập gần đây, do đó số
công trình nghiên cứu chưa nhiều, chưa đa dạng chủ yếu chỉ đề cập những
dạng sau:
3
- Thông tin chuyên đề số 08, ngày 25/12/2006 của văn phòng Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam về "Chiến lược và mô hình quản lý biển của
một số nước".
- Tạp chí Cộng Sản số 20, ngày 25/9/2007 "Về kinh tế biển".
- Tạ Quang Ngọc, "Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển
và giàu lên từ biển", Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2007.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam".
- Đỗ Hoài Nam (2003), "Phát triển kinh tế - xã hội và môi trường các
tỉnh ven biển Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Cao Đoàn (1999), "Đổi mới phát triển kinh tế ven biển", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
- Mai Văn Ngọc (2008), "Phát triển ngành thuỷ sản Quảng Bình theo
hướng bền vững", Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bon (2008), "Kinh tế biển Sóc Trăng", Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
- Dương Văn Hồng (2008), "Kinh tế biển Trà Vinh", Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Mặc dù thời gian qua không ít đề tài nghiên cứu kinh tế biển ở nhiều khía
cạnh khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu kinh tế biển Nghệ An trên phương diện kinh tế chính trị. Do vậy,
việc nghiên cứu đề tài này không trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển kinh tế biển
nói chung, đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy tiềm
năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển của Nghệ An trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
4
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế
biển; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển của Nghệ An thời gian qua;
đề xuất phương hướng, giải pháp để phát triển kinh tế biển Nghệ An trong bối
cảnh hội nhập khu vực và thế giới, giai đoạn 2009 - 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế biển Nghệ An
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua nghiên cứu tình hình phát
triển kinh tế biển ở một số địa bàn như: Thị xã Cửa Lò, Huyện Nghi Lộc, Huyện
Diễn Châu, Huyện Quỳnh Lưu trong khoảng thời gian từ 2003 - 2008.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của Chủ Nghĩa Mác- lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm, Nghị quyết cùng với những tổng kết kinh nghiệm của
Đảng về kinh tế biển và kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học
có nội dung liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng – lịch sử, luận văn chú
trọng sử dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lô gích với
lịch sử, tổng hợp và phân tích, so sánh
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ sở chủ yếu của phát triển kinh tế biển;
Khái quát những thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế biển của Nghệ An
trong thời gian qua;
Đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi để phát triển kinh tế
biển Nghệ An, giai đoạn đến 2015và tầm nhìn 2020.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
5
6
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ BIỂN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1.1. Một số khái niệm
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là" thế kỷ của biển và Đại
dương". Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn
kiệt, không gian kinh tế truyền thống đã trở nên không còn phù hợp nữa,
nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lược quay ra biển và định hình các phương án
chiếm biển và khống chế biển, khai thác các nguồn lợi từ biển và hải đảo
thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và bảo đảm các
nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong
tương lai.
Với việc phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982,
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng
đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát
triển và hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8 năm 1977, Hội thảo khoa học về
biển lần thứ nhất được tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ phương hướng chiến
lược xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế biển. Trong
những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã có một số Nghị quyết,
chính sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị
quyết số 03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc
gia” - trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái
biển, phấn đấu trở thành một quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển
vào những năm 2020; Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị đã ban hành chị thị số
20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”
7
chủ trương phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh lên từ biển, đồng
thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu
cầu bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia Như vậy, phát triển kinh tế biển đã
được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, trong điều kiện hội
nhập kinh tế thế giới.
Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của
Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc
ta. Lấn biển để dựng nước đồng thời thông qua biển để giữ lấy nước đây là
nét độc đáo trong bản sắc văn hoá Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Công ước năm 1982, vùng biển của nước ta được mở rộng lên đến gần
một triệu km
2
, tiếp giáp với năm vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Tuy
nhiên, do tính đặc thù của môi trường biển nên mọi hoạt động của kinh tế biển
đều liên quan mật thiết và chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời
kinh tế biển ra khỏi kinh tế đất liền. Vì vậy, khi xem xét kinh tế biển, cũng
cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ, khía cạnh cần thiết. Do
vậy, việc thống nhất trong quan niệm chung về biển, kinh tế biển và kinh tế
vùng ven biển là cần thiết để nghiên cứu nội hàm của chúng.
Theo nghĩa chung nhất và theo truyền thống, biển được quan niệm là một
vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các Đại dương, hoặc là các hồ nước mặn
có thông với Đại Dương một cách tự nhiên; đôi khi, biển chỉ là một hồ nước
ngọt được khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra các biển cả lớn. Trong
đời sống thông thường biển được hiểu như một từ đồng nghĩa với Đại Dương
hoặc là các vùng nước Đại Dương nói chung [12].
Mặc dù vậy, cái được gọi là kinh tế biển – về mặt khái quát có thể hiểu,
bao gồm:
Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế
hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản,
8
khai thác dầu khí ngoài khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế đảo
Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác
biển, mặc dù không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này
lại liên quan đến yếu tố của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở
vùng ven biển – thông thường đó là hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển
(hoạt động này cũng được xếp vào kinh tế hàng hải), công nghiệp chế biến
dầu, khí, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, cung cấp dịch vụ biển, thông tin
liên lạc (biển), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục
vụ kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm toàn bộ các
hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các
huyện ven biển hay các tỉnh tiếp giáp biển - có địa giới tiếp giáp biển) bao
gồm cả lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi
địa bàn đó.
Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên
biển và ở đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các
nguồn lợi kinh tế từ biển.
Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu chúng ta thấy đặc trưng
của kinh tế biển khác với các ngành khác, so với một số ngành kinh tế khác.
Vì kinh tế biển luôn mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực: Bao gồm nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ tác
động qua lại lệ thuộc lẫn nhau.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế biển trong hội nhập kinh tế
quốc tế
1.1.2.1. Những tất yếu bên trong
Nước ta với diện tích đất liền không lớn, mật độ dân số cao, đặc biệt ở vùng
đồng bằng sông Hồng và các đô thị; có khoảng1/3 dân số cả nước sinh sống ở
vùng ven biển và trực tiếp chịu ảnh hưởng của biển, nhưng chỉ có gần 40% số
này sống nhờ hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến biển [1, tr.52].
9
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế nhằm thoát khỏi
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học trong khi nguồn tài nguyên trên
đất liền đang ngày một cạn kiệt và không có khả năng tái tạo. Để đảm bảo khả
năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững với tốc độ hàng năm từ 8% trở
lên thì các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển và kinh tế ven biển phải được
coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế [2, tr.53].
Hướng phát triển ra biển càng cần thiết hơn nữa khi nước ta mở cửa hội
nhập trong điều kiện xuất phát điểm thấp. Mặc dù kinh tế biển nước ta chưa
phát triển, chưa bắt kịp xu thế của thế giới, thì những hạn chế trong việc khai
thác vùng gần bờ lại thể hiện càng rõ hơn khi vươn ra vùng biển quốc tế. Là
một quốc gia có biển, một nhân tố được xem như là đắc địa, Việt nam cần
tăng cường hơn nữa những khả năng vươn ra biển và xác định đây là nhân tố
thúc đẩy các vùng trong đất liền phát triển.
Từ vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị rất quan trọng của biển Việt Nam
nên trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta xác định một nhiệm vụ, một
phương hướng, một quyết tâm chiến lược: "Việt Nam phải trở thành một quốc
gia mạnh về biển và giàu lên từ biển" [3, tr.19].
Quốc gia mạnh về biển là quốc gia xây dựng được tiềm lực mọi mặt khai
thác hiệu quả và bảo vệ vững chắc vùng biển của mình. Tiềm lực ở đây là
tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hoá, tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa
học- công nghệ, tiềm lực quốc phòng, an ninh- đối ngoại.
Về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, với
việc một số quốc gia ven Biển Đông chưa đạt được thoả thuận về phân định
vùng biển, hải đảo đang tiềm ẩn những bất ổn, dễ dẫn đến xung đột, tác động
không nhỏ đến ổn định của khu vực.
Thực tiễn phát triển của đất nước đòi hỏi phải xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế biển một cách khoa học và hợp lý, cần phải có một chương trình
10
hành động toàn diện về biển và vùng ven biển, nhanh chóng xây dựng một
Việt Nam quốc gia mạnh về biển. Giàu lên từ biển là khai thác hiệu quả cao
mọi tiềm năng kinh tế biển đem lại sự giàu có cho đất nước, cho địa phương
vùng ven biển và cho từng gia đình làm kinh tế biển đảo.
Lợi ích kinh tế biển không chỉ xuất từ một địa phương, một ngành mà
cần có sự liên kết một cách khoa học sự phát triển các ngành các lĩnh vực trên
toàn vùng, trên địa bàn cụ thể thành một chương trình đồng bộ thống nhất.
Đặc biệt phát triển phải chú trọng mọi mặt ở những vùng ven biển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng
định cần phải xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn
diện, trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác
quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu
khí, hải sản, dịch vụ biển, đẩy nhanh công nghiệp đóng tàu biển và công
nghiệp khác, chế biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước, một số
vùng kinh tế ven biển và hải đảo [4, tr.93].
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác. Tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực thì một khuynh hướng cơ bản là phải phấn đấu đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Trước mắt cần tập trung đầu tư phát
triển các lĩnh vực: Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, hải sản, rà soát và bổ
sung quy hoạch hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải và
các dịch vụ hàng hải, phát triển du lịch biển đảo, với cơ cấu ngành, nghề
phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, đạt hiệu quả
cao. Kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phòng, bảo vệ môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế, vừa phát triển góp
phần vào bảo vệ quốc gia. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
11
thuộc chủ quyền và quyền tài phán nước ta, đồng thời khai thác tài nguyên ở
hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển
làm động lực quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Kết hợp chặt
chẽ với phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển nội địa
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ to lớn đó, trước hết cần phải có chính
sách tạo sức hấp dẫn thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển trên tinh
thần chủ động, tích cực hội nhập. Phát huy triệt để các nguồn lực bên trong,
tranh thủ sự hợp tác các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia.
1.1.2.2. Những tác động từ bên ngoài
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ dưới tác động thúc đẩy của
cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã làm tăng sức ép cạnh
tranh và tác động sâu sắc đến các nền kinh tế. Cùng với đó là tiến trình mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trong mọi lĩnh vực;
các công ty xuyên quốc gia không ngừng điều chỉnh lại, và hình thành nên các
tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh trên phạm vi
toàn thế giới; nền kinh tế thế giới cũng như mỗi quốc gia ngày càng trở nên
năng động, liên kết với nhau chặt chẽ hơn; liên kết thương mại toàn cầu, khu
vực và việc hình thành hệ thống tài chính quốc tế đã mang lại những triển
vọng phát triển kinh tế tri thức
Việc hình thành thị trường mang tính toàn cầu đã đem lại nhiều cơ hội,
đồng thời cũng nhiều thách thức và nguy cơ đối mặt với các nước tham gia thị
trường toàn cầu, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong bối cảnh đó nước ta phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tích
cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, vươn lên để hội nhập kinh tế quốc tế,
bằng nhiều cách điều chỉnh chiến lược, chính sách theo hướng mở cửa, giảm
và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại hàng hoá, dịch vụ, luân chuyển vốn,
lao động và kỹ thuật giữa nước ta và các nước khác ngày một dễ dàng hơn.
12
Thị trường thế giới ngày một trở nên thống nhất và sự tác động qua lại của
các quốc gia cao lên, từ đó làm cho các nước thường xuyên phải điều chỉnh
chính sách một cách linh hoạt thích ứng với xu thế chung của quá trình hội
nhập kinh tế. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh phức tạp, đặc biệt là đấu tranh chống lại sự chi phối, áp đặt của
các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia, không ngừng mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh, chính
trị, độc lập tự chủ về kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của mỗi quốc
gia, thông qua việc thiết lập chặt chẽ với nhau, trong sự tác động qua lại, đan
xen nhiều chiều. Các nước đang phát triển trong đó có nước ta chủ động lựa
chọn phát triển ngành, nghề có lợi thế cao trong quá trình cạnh tranh, phát
triển và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tham gia có hiệu quả vào phân
công lao động quốc tế.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh, biển đóng một nhân tố
vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia có biển trong quá trình phát triển của
mình. Nhiều quốc gia có biển đã có những chính sách giữ gìn tài nguyên
khoáng sản trong vùng biển của nước mình rất nghiêm ngặt, và coi đó là một
nguồn dữ trữ quan trọng, bên cạnh đó lại khai thác ở những vùng biển khác.
Và có chiến lược đầu tư cho khoa học - công nghệ biển, đặc biệt chú trọng
vào công nghệ khai thác, bảo vệ tài nguyên biển và được xem là một trong
bốn mũi nhọn quan trọng của thế kỷ XXI.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số, nguồn tài nguyên thiên
nhiên trên đất liền, nhất là tài nguyên không còn khả năng tái tạo được ngày
càng cạn kiệt đã đem lại lợi thế vô cùng lớn cho các quốc gia có biển, từ đó
cũng nẩy sinh ra nhiều mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước có biển và
những quốc gia không có biển gây nên những tranh chấp phức tạp và gay gắt
về chủ quyền, và quyền lợi từ biển.
Trước tiên là sức ép về dân số đang gây một áp lực ngày càng mạnh
trong quá trình tính toán để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên
13
thế giới. Dân số tăng khó kiểm soát bên cạnh đó nguồn tài nguyên trên đất
liền ngày một cạn dần, trong tình trạng đói nghèo vẫn là sự thách thức của
mỗi quốc gia ngày một gay gắt không những về đói nghèo mà mật độ không
gian để sinh tồn ngày càng thu hẹp. Chỉ còn một cách là nhìn ra biển với tư
duy kinh tế đang được hình thành ở những quốc gia có biển, cách nhìn về
biển cũng khác đi rất nhiều và đề cập nhiều hơn từ một vài thập kỷ gần đây.
Không những về không gian sinh tồn, mà môi trường sống cũng xuống
cấp, môi trường sống liên quan trực tiếp đến sự sống của con người đặt ra yêu
cầu cấp bách cần phải có thái độ ứng xử mới đối với trái đất, tồn tại hay
không tồn tại, trong đó rừng và biển phải như thế nào?
Mặc dù vậy sức ép không dừng ở đó, vấn đề an ninh lương thực, thực
phẩm, ở biển được coi như một giải pháp lâu dài và quan trọng trong tương
lai của mỗi quốc gia.
Cuối cùng, là sự phát triển kinh tế (nóng) của nhiều quốc gia trong những
năm gần đây, việc thiếu hụt năng lượng đã đặt ra cho những quốc gia này
đang nỗ lực vào nghiên cứu, tìm kiếm những nguồn năng lượng mới. Như sức
gió, thuỷ triều, địa nhiệt ở trên mặt biển và trong lòng Đại Dương.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, cùng với đấu tranh và hợp tác quốc tế
trong khai thác phát triển kinh tế biển ngày một phát triển. Hiện nay những
nước có biển, trên thế giới và trong khu vực có chiến lược phát triển biển rõ
ràng, tăng cường tiềm lực khai thác và khống chế biển.
Sự nổi lên của kinh tế Trung Quốc, đã đưa ra một chiến lược phát triển kinh
tế biển, từ khi cải cách nền kinh tế, mở cửa, kinh tế nước này đã phát triển năng
động của dải ven biển; trong sự thành công đó là lấy các thành phố ven biển làm
cửa ngõ giao lưu thương mãi quốc tế và làm đầu tàu kéo toàn bộ nền kinh tế phát
triển, đây là những bài học phát huy yếu tố lợi thế của biển và vùng ven biển.
Bên cạnh đó mốt số nước có chiến lược phát triển kinh tế biển như:
Chiến lược biển của Mỹ:
14
Hoa Kỳ, xem biển là đường vận tải hàng hoá, hành khách, là nguồn năng
lượng, nguồn dược liệu. Hàng năm, các cảng biển quốc gia đạt doanh thu hơn
700 tỷ USD. Từ dịch vụ vận tải hàng hoá, vụ vận chuyển hành khách đã thu
12 tỷ USD mỗi năm. Các dịch vụ này tạo ra 13 triệu việc làm. Hoạt động khai
thác dầu khí ngoài khơi mở rộng tới các vùng nước sâu hàng năm tạo ra 25 -
40 tỷ USD. Việc khai thác Đại Dương ngày càng tăng và thu về cho nước Mỹ
hàng tỷ USD từ các ngành công nghiệp biển như các chế phẩm sinh học và các
dược liệu biển. Thuỷ sản là một nguồn lợi mang lại thu nhập và nhiều việc làm
cho nền kinh tế, đồng thời hình thành nên di sản văn hoá cho cộng đồng ngư
dân. Tổng giá trị thương mãi của ngành đánh bắt cá hàng năm đạt hơn 28 tỷ
USD, dịch vụ câu cá biển giải trí hàng năm đạt khoảng 20 tỷ USD, dịch vụ bán
cá cảnh hàng năm đạt khoảng 3 tỷ USD. Hàng năm, hàng trăm triệu khách đến
du lịch ở những bãi biển nước Mỹ, tiêu hàng tỷ USD tạo ra hàng triệu việc làm.
Trên thực tế, ngành du lịch và giải trí là những ngành tăng nhanh nhất, làm giàu
cho nền kinh tế, tạo việc làm cho những người dân ven biển nước Mỹ.
Nhận thức được điều này, chính phủ Mỹ đã xác định một khung chính
sách mới về biển, khung chính sách này mang tính cách mạng, ở cấp quốc gia,
được xây dựng và tăng cường vai trò của nhà nước, của các vùng, các cộng
đồng các địa phương.
Tăng cường công tác phối hợp lãnh đạo ở cấp quốc gia. Ở cấp liên bang,
các bộ ngành thuộc chính phủ và cơ quan độc lập có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng chính sách biển. Cần tăng cường các hoạt động phối hợp với
nhau và với chính quyền trung ương, vùng và cộng đồng địa phương, việc
tăng cường khả năng trao đổi và phối hợp sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả của
chính sách biển quốc gia.
Tăng cường tiếp cận vùng. Việc đảm bảo đầy đủ tham gia của nhà nước,
các vùng, các cộng đồng và chính quyền địa phương vào xây dựng triển khai
chính sách biển là một yếu tố cơ bản của khung chính sách biển Quốc gia.
15
nhiều vấn đề về biển và vùng biển nổi lên hiện nay, đòi hỏi phải có sự tham
gia tích cực của những nhà làm chính sách ở trung ương, địa phương, cũng
như đông đảo của những bên liên quan.
Phối hợp quản lý các vùng ngoài khơi. Khu vực biển ngoài khơi rộng lớn
của Hoa Kỳ ngày càng trở nên hấp dẫn cho các hoạt động kinh tế, nhiều hệ
thống cơ sở được thành lập nhằm phục vụ các hoạt động khai thác Đại Dương
trong thời gian dài, các hoạt động đánh bắt và khai thác các nguồn năng
lượng. Tuy nhiên, phải xác định rõ các chức năng quản lý mới, thành lập các
cơ sở nuôi trồng thuỷ sản, khai thác các nguồn năng lượng gió
Ngoài những chính sách trên, khung chính sách biển Quốc gia mới của
Mỹ còn đề cập đến việc tăng cường tổ chức, tăng cường đầu tư khoa học công
nghệ và thăm dò, xây dựng một kỷ nguyên mới về thu thập dự liệu và hệ
thống thông tin, các chính sách thúc đẩy công tác giáo dục, đào tạo làm nền
tảng tương lai về biển [8, tr.18-21].
Chiến lược biển của Liên bang Nga.
Hiện nay, Liên bang Nga đang ở vị thế mới trong việc phục hồi vị thế của
mình trong lòng Đại Dương, và đây được coi là nhiệm vụ quan trọng. Để giải
quyết những vấn đề có tính chiến lược, việc thống nhất mọi nỗ lực của các cấp
khác nhau trong nước Nga là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ này được đề cập trong
chương trình định hướng mục tiêu toàn diện Liên bang về (Đại dương, gọi tắt là
chương trình Đại dương) nhằm tạo ra những chương trình cần thiết về vật chất
hoá các lợi ích quốc gia và vị thế địa chính trị nước Nga trên biển.
Chương trình Đại Dương nhằm đưa ra một giả pháp toàn diện với vấn đề
thăm do và khai thác hiệu quả Đại Dương nhằm phục vụ hiệu quả kinh tế và
bảo vệ an ninh của nước Nga.
Chương trình Đại Dương là một công cụ điều hoà sự phối hợp giữa các
chương trình liên bang và khu vực để đưa ra các giải pháp cho từng vấn đề
riêng lẻ cho Đại Dương, và định hướng cho các chương trình này cho mục
tiêu chung của chính sách quốc gia, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi
ích quốc gia vị thế địa chính trị. Cụ thể là:
16
Làm cho nước Nga trở nên năng động hơn trên Đại Dương gắn liền với
mục tiêu phát triển quốc gia:
Định hướng các hoạt động của nước Nga trên Đại Dương nhằm đạt được
những kết quả củ thể có tính khả thi trong một tương lai gần nhất;
Tạo điều kiện tối đa cho việc nâng cao hợp tác hiệu quả các hoạt động
của các cấp chính quyền liên bang cũng như chính quyền các nước cộng hoà
liên bang trên Đại Dương.
Chiến lược biển của Canada.
Canada đã đưa một chiến lược biển rất ngắn gọn, có phụ đề rất gợi cảm:
“Biển của chúng ta, tương lai của chúng ta” , phản ánh những quan điểm, tư
tưởng chủ đạo, những nét định hướng chính và những giải pháp chủ yếu nhất
nhằm thực hiện chiến lược này.
Đối với Canada, trong các vùng biển đã đóng một vai trò quan trọng
trong lịch sử đất nước và trong tương lai, biển cũng tiếp tục đem lại cho quốc
gia nhiều hứa hẹn và triển vọng hơn nữa. Chiến lược biển của nước này kêu
gọi tất cả mọi người cùng phối hợp, cộng tác để đem lại cho biển ngày một
trong lành, an toàn và thịnh vượng, đem lại lợi ích cho tất cả mọi người
Canada hôm nay và mai sau.
Các nguyên tắc xây dựng chiến lược hoạch định chính sách gồm: phát
triển bền vững, quản lý hội nhập và tiếp cận thận trọng.
Phát triển nguồn tài nguyên biển hiện tại và trong tương lai phải được
tiến hành sao cho không tổn hại đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ
trong tương lai.
Quản lý hội nhập là việc cam kết cho hoạch định và quản lý tổng thể của
con người, trong đó xem xét các yếu tố cần thiết nhằm duy trì và sử dụng bền
vững nguồn tài nguyên biển, cùng chia sẻ không gian biển.
Tiếp cận thận trọng là cam kết bảo tồn, quản lý khai thác nguồn tài
nguyên biển để bảo vệ nguồn tài nguyên này và giữ gìn môi trường ,hệ sinh
17
thái biển. Mục tiêu chiến lược là thúc đẩy hoạt động quản lý biển, tìm kiếm
nguồn tài nguyên biển, và thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Các nước ở vùng Đông và Đông Nam Á cũng đang khởi động chương
trình về biển xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ thành một cực tăng
trưởng mới trong khuôn khổ khu vực mẫu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
Trước xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển của đất nước thì nền kinh tế biển
đóng một vài trò quan trọng quá trình phát triển.
1.1.3. Những tính quy định phổ biến đối với kinh tế biển trong hội
nhập kinh tế quốc tế
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển:
Còn gọi là công ước luật biển hay hiệp ước luật biển, là một hiệp ước
được hình thành trong hội nghị về luật biển của liên hợp quốc lần thứ III diễn
ra từ năm 1973, sau nhiều chỉnh sửa cho đến 1982 đã được thực hiện trong
hiệp ước năm 1994. Công ước luật biển là một bộ các quy định về sử dụng
biển và Đại Dương trên thế giới (chiếm 70% diện tích bề mặt trái đất). Công
ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho IV hiệp ước năm 1958 đã hết
hạn. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử
dụng biển, Đại dương; có các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh
doanh, bảo vệ môi trường và quản lý khai thác các tài nguyên trên đó.
Nội dung Công ước bao gồm một loạt điều khoản. Những điều khoản
quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường
biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế,
quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác,
bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.
Công ước quy định giới hạn cho các vùng khu vực, tính từ đường cơ sở
(baseline) và được định nghĩa rõ ràng. Bao gồm:
Thuỷ: Bao phủ tất cả vùng biển và đường thuỷ ở bên trong đường cơ sở
(phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát
18
việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không
có quyền đi lại, tự do trong các vùng nội thuỷ.
Lãnh hải: Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây,
quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử
dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không
gây hại" mà không cần xin phép. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và dò
thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ quyền cũng có thể
tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải
của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo: Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần
đảo, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới
lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài
cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ
gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ
là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hả i: Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một
vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ
có thể vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu
hoặc nhập cư bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế: Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong
vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối
với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước
ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thuỷ và đường không, tuân theo sự
kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống
ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa: là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa
(continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn
hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến
mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý,tính từ
19
đường cơ sở của lãnh hải, hoặc không tính quá 100 hải lý bên ngoài đường
đẳng sâu 2.500m. Đối với thềm lục địa, nước ven biển có chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên,
quyền chủ quyền của nước ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không
phụ thuộc vào quyền có tuyên bố hay không.
Cùng với các điều khoản, định nghĩa các ranh giới trên biển, Công ước
còn quy định các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo
vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công ước cũng tạo ra một cơ
chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên, khoáng sản tại các
lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện thông qua ủ
uỷban đáy biển quốc tế [11].
Từ rất lâu cho đến nửa đầu thế kỷ XX, các quốc gia ven biển chỉ có vùng
biển hẹp (lãnh hải) trực thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (theo quy ước mỗi hải
lý bằng 1,852m) còn phía ngoài lãnh hải 3 hải lý là vùng biển chung, mỗi cá
nhân, các tổ chức được quyền đi lại và khai thác tự do. Cho nên, ngay từ thế
kỷ XV khi các quốc gia mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ra biển, có sự
tranh đua về mở rộng thị phần khai thác các nguồn lợi từ biển, không gian
biển ngày một trở nên quyết liệt, lúc đó con người nhận thức về biển là "biển
cả không phải là tài nguyên vô tận mà biển là của chung, các quốc gia bình
đẳng trong việc khai thác, sử dụng biển" [10, tr.14].
Vào năm 1994 cho đến bây giờ, Công ước quốc tế về luật biển mới được
các quốc gia ký vào năm 1982 (Công ước 1982), phê chuẩn vào ngày
16/11/1994 có hiệu lực pháp luật quốc tế. Cũng vào năm đó nước ta cũng phê
chuẩn công ước 1982 vào năm 1994 về luật biển quốc tế. Cùng với sự ra đời
công ước 1982, đã ghi rõ: Biển cả là vùng không nằm trong vùng đặc quyền
kinh tế, lãnh hải hay nội thuỷ của một quốc gia ven biển cũng như không nằm
trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo.
Như vậy, theo công ước về biển năm 1982, phạm vi vùng biển nước ta
được mở rộng một cách đáng kể, khoảng vài chục nghìn km
2
đã lên đến gần
20
một triệu km
2
cùng với năm vùng biển có phạm vi quản lý khác nhau. Như
vậy, nước ta diện tích về biển không còn thuần tuý như cũ nữa mà mở rộng
hướng ra biển, không chỉ còn biên giới chung với Trung Quốc, Campuchia
mà hầu hết nước khu vực Đông Nam Á như Philippin, Malaixia, Indonexia,
Thái Lan.
Với việc phê chuẩn công ước của liên hợp quốc về biển Việt Nam, tích
cực tham gia vào các hoạt động trên biển.
Căn cứ vào công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982. Cùng
luật biên giới quốc gia năm 2003, biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản
lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn vẹn
lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh đất nước.
Để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước về biên giới quốc gia; xây
dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo nghị quyết số15/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc Hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Những quy định chung mang tính chất pháp lý đối với biển Việt Nam.
Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đường và mặt thẳng đứng theo hướng đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất
liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong đó chế độ pháp lý quy chế quản lý và bảo vệ vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
biển năm 1982 và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam ký hoặc gia nhập.
Trong điều 4, Luật biên giới quốc gia năm 2003, các từ dưới đây được
hiểu như sau:
21