LợI íCH KINH Tế CủA NGƯờI LAO ĐộNG
TRONG CáC DOANH NGHIệP NHà NƯớC SAU Cổ PHầN Hóa
ở BìNH ĐịNH
H NI - 2009
MC LC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ
PHẦN HOÁ
6
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế 6
1.2. Đặc trưng và hình thức biểu hiện lợi ích kinh tế của người lao
động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 22
1.3. Cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 33
Chương 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH
TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở BÌNH ĐỊNH
42
2.1. Vài nét về tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và quá
trình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở
Bình Định 42
2.2. Tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 49
2.3. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân về việc thực hiện lợi ích
kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau
cổ phần hóa ở Bình Định 66
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH
TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở BÌNH ĐỊNH
70
3.1. Quan điểm cơ bản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 70
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao
động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 78
KẾT LUẬN
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
CPH : Cổ phần hoá
CTCP : Công ty cổ phần
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
SXKD : Sản xuất kinh doanh
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp ở Bình Định đến tháng 6 năm 2009 45
Bảng 2.2: Tình hình hoạt động kinh doanh của các DNNN sau CPH ở
tỉnh Bình Định đến năm 2008 46
Bảng 2.3: Thu nhập bình quân của người lao động trong các DNNN
sau CPH ở tỉnh Bình Định 51
Bảng 2.4: Tình hình ký kết hợp đồng lao động trong các DNNN sau
CPH ở tỉnh Bình Định 54
Bảng 2.5: Khảo sát tình hình ký kết các loại hợp đồng lao động trong
các doanh nghiệp của tỉnh Bình Định 55
Bảng 2.6: Điều kiện chất lượng nhà xưởng trong các DNNN sau CPH
ở tỉnh Bình Định 58
Bảng 2.7: So sánh tỷ lệ các yếu tố tiếp xúc trong môi trường lao động
giữa công nghệ mới với công nghệ cũ 59
Bảng 2.8: Tình hình thu bảo hiểm xã hội của tỉnh Bình Định giai đoạn
1995-2008 63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng nhiều hình thức sở hữu
nhằm phát huy mọi tiềm lực của đất nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Trong những năm qua, các DNNN nói chung - bộ phận nòng cốt
của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các
DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, quy mô nhỏ, hiệu quả kém, năng
lực cạnh tranh thấp, công nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN còn làm ăn
thua lỗ kéo dài… Vì vậy, vấn đề cải cách DNNN được đặt ra cấp bách. Một
trong những giải pháp mang tính chiến lược là chuyển một bộ phận DNNN
không cần nắm giữ 100% vốn sang CTCP.
Là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của Miền Trung và của cả nước,
Bình Định có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của vùng kinh tế Miền Trung và Tây Nguyên. Cùng với tiến trình CPH
DNNN nói chung, các DNNN sau CPH ở Bình Định thời gian qua cũng đã thể
hiện được vai trò to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy
nhiên, bên cạnh đó các DNNN sau CPH ở Bình Định trong quá trình hoạt
động vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề về lợi ích
kinh tế của người lao động. Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” có thực hiện được hay không chính là ở
chỗ giải quyết đúng đắn quan hệ kinh tế trong kinh tế, trong đó lợi ích kinh tế
của người lao động là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản
xuất của cải vật chất xã hội. Nó phải được sự quan tâm thích đáng, phải trở
thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh Bình Định muốn phát triển
kinh tế, ổn định xã hội, ngoài việc giải quyết nhiều vấn đề khác thì việc đảm
bảo lợi ích kinh tế cho người lao động phải được quan tâm nhiều hơn nữa.
Xuất phát từ lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Lợi ích kinh tế của người lao
động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Bình Định” làm
luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế đã được Đảng ta bắt đầu quan tâm từ Hội nghị
lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (9 - 1979). Đến Đại hội VI
Đảng ta nhấn mạnh: Lợi ích của người sản xuất kinh doanh là động lực trực
tiếp đối với hoạt động kinh tế, và tạo cơ sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác.
Ở nước ta, từ năm 1980 đến nay đã có nhiều bài viết về lợi ích kinh tế, các
doanh nghiệp cổ phần nhà nước…được công bố như:
- “Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
- “Lợi ích, động lực phát triển xã hội” do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên
(1999), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.
- “Hệ thống các lợi ích kinh tế và cơ chế thực hiện các lợi ích kinh tế trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”, Bùi Thu Hà (2000), Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- “Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Mai
Đức Chính, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005.
- “Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc
bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân”, Nguyễn
Lợi, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1995.
- “Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại
của thành phố Đà Nẵng”, Lê Thị Phúc, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ
Chí Minh, 2006.
- “Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay, mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 22/2004.
- “Cổ phần hóa DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp” Hồ Xuân
Hùng, Tạp chí Cộng sản, số 18/2004…
Ngoài ra còn có một số cuộc hội thảo, hội nghị liên quan đến vấn đề
quan hệ lợi ích trong các doanh nghiệp.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề lợi ích, lợi ích
kinh tế, vai trò của lợi ích kinh tế…dưới nhiều góc độ khác nhau; đề cập đến
mục tiêu, kết quả, những thuận lợi, khó khăn của quá trình CPH DNNN…mà
chưa đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao
động và người sử dụng lao động trong các DNNN sau CPH. Do đó, việc
nghiên cứu đề tài này là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở kế thừa các tài liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn về lợi
ích kinh tế của người lao động, tìm ra những vấn đề tồn tại và nguyên nhân
trong việc thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau
CPH ở tỉnh Bình Định. Từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần giải
quyết một cách hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp và người lao
động trong các DNNN sau CPH.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích
kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động nói riêng.
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước có
liên quan đến lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH.
- Đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trạng thực hiện lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định, chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế cần khắc phục.
- Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đã trình bày trên, luận văn nêu lên
một số phương hướng và giải pháp cơ bản để đảm bảo lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định trong trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định trong quá trình
tiến hành CPH DNNN, nhất là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp năm 2005
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý
luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về lợi ích kinh tế,
kinh tế nhà nước, DNNN sau CPH; tham khảo và tiếp thu có chọn lọc những ý
kiến của các nhà kinh tế học và các nhà hoạt động thực tiễn qua các bài viết
của họ đã được công bố.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hóa khoa
học; phương pháp thống kê phân tích lý luận gắn với thực tiễn được đặc biệt
coi trọng trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra của luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế nói chung và lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH
nói riêng.
- Giúp cho các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định nhận thức sâu sắc hơn
vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động trong hoạt động SXKD của
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có những chính sách, quy định phù hợp, tạo động
lực phát triển sản xuất kinh doanh.
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng, Đại học
trong khuôn khổ môn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc soạn thảo các
văn bản pháp lý đối với việc đảm bảo lợi ích cho người lao động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
SAU CỔ PHẦN HÓA
1.1. Mét sè vÊn ®Ò lý luËn c¬ b¶n vÒ lîi Ých kinh tÕ
1.1.1. Bản chất và đặc điểm của lợi ích kinh tế
* Bản chất của lợi ích kinh tế
Có nhiều quan điểm khác nhau về lợi ích, nhưng hầu như các nhà lý
luận đều thống nhất khẳng định rằng lợi ích hình thành trên cơ sở nhu cầu và
những hoạt động thỏa mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, tìm hiểu nhu cầu
của con người và các mối quan hệ xã hội trong đó con người hoạt động để
thỏa mãn nhu cầu là cơ sở khách quan để xem xét lợi ích.
Nhu cầu là những đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các
nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội về những điều kiện để tồn tại và
phát triển. Như vậy, trước hết nhu cầu là sự thể hiện mối liên hệ hữu cơ giữa
một cơ thể sống và môi trường sống. Do đó, nhu cầu là tất cả những gì cần
thiết để duy trì sự tồn tại và phát triển của cơ thể sống. Nhu cầu xuất hiện nảy
sinh trong mối quan hệ tác động biện chứng giữa cơ thể sống với môi trường. Vì
vậy nó là đặc trưng vốn có của hệ thống sinh vật và hệ thống xã hội: nhu cầu là
một đặc tính của tất cả các cơ thể sống, nó thể hiện là hình thức đầu tiên của tính
tích cực, của quan hệ lựa chọn đối với những điều kiện môi trường sống.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng nhu cầu là một thuộc tính, một đặc
trưng chung của một loài vật nói chung, của con người nói riêng. Tuy nhiên,
nhu cầu của con người hoàn toàn khác biệt với nhu cầu của loài vật.
Nhu cầu của con người được hình thành, phát triển, hoàn thiện và được
đáp ứng chính trong thực tiễn lao động sản xuất và phân phối trao đổi sản
phẩm của lao động. Một mặt, con người thông qua quá trình đó mà tạo ra sản
phẩm để đáp ứng những nhu cầu hiện có đang đặt ra, mặt khác, cũng chính
trong quá trình đó mà những nhu cầu mới hình thành, nảy sinh. Nhu cầu của
con người rất đa dạng về chủng loại, hình thức, cấp độ, tính chất…đồng thời
những nhu cầu đó lại luôn luôn phát triển và mở rộng.
Nhu cầu của con người do vậy bao gồm hai loại cơ bản: Nhu cầu tự
nhiên và nhu cầu xã hội. Nhu cầu tự nhiên là những nhu cầu về ăn, ở, mặc,
còn những nhu cầu về xã hội là cả một hệ thống những nhu cầu và hệ thống
này ngày càng mở rộng, đó là nhu cầu về hoạt động sáng tạo, về nâng cao học
vấn, về thẩm mỹ, về tình cảm…Từ hai loại nhu cầu cơ bản đó người ta còn
nói đến các loại nhu cầu cụ thể về: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa
học kỹ thuật…Tất cả các nhu cầu này gắn bó chặt chẽ và có mối quan hệ hữu
cơ và chúng lại có những hình thức biểu hiện cụ thể: cá nhân, gia đình, tập
thể, giai cấp, xã hội, nhân loại.
Lợi ích không phải là cái trùng lắp với nhu cầu, nhưng cũng không
hoàn toàn tách biệt với nhu cầu. Phương tiện để thỏa mãn nhu cầu đối với chủ
thể hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và do đó nó chỉ
có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu [42, tr. 38]. Ví
dụ: Bán được sức lao động đắt, đó là lợi ích của người công nhân nhưng
không phải là lợi ích của nhà tư bản, vì điều đó không đáp ứng nhu cầu của
nhà tư bản mà là đáp ứng nhu cầu của người công nhân.
Vậy là cùng một sự vật, cùng một hiện tượng, thì đối với chủ thể này là
lợi ích, nhưng đối với chủ thể khác lại là tai họa. Điều đó cũng có nghĩa là, xét
về mặt bản chất, lợi ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật hiện
tượng của thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể. Còn xét về mặt nội
dung thì lợi ích là cái thõa mãn nhu cầu, đáp ứng nhu cầu.
Mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài này với nhu
cầu là mối quan hệ khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, vào
nhận thức của chủ thể. Nếu nhu cầu của con người, chủ thể là đa dạng và
phong phú thì lợi ích của họ cũng đa dạng và phong phú nhưng lại thể hiện
thành các loại lợi ích cụ thể: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa…
Những lợi ích này đáp ứng hay thỏa mãn cho nhu cầu của các đối tượng khác
nhau: lợi ích của cá nhân, lợi ích của tập thể, lợi ích của toàn xã hội.
Cũng cần nhấn mạnh thêm là trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi
ích, nhu cầu quyết định đối với chủ thể là lợi ích, do đó nhu cầu là cơ sở
của lợi ích, còn lợi ích ngược lại xuất phát từ nhu cầu, dựa vào nhu cầu, là
sự thể hiện của nhu cầu. Khi nhu cầu bắt đầu xuất hiện thì con người chủ
thể cũng bắt đầu hướng sự nhận thức của mình vào việc tìm kiếm cái thỏa
mãn nhu cầu đó, tức là lợi ích chưa có thì hành động của con người nhằm
đoạt lấy lợi ích cũng chưa có. Nhưng một khi lợi ích đã xuất hiện và đã
được tìm thấy, đã được nhận thức, thì nó trở thành mục tiêu của hành động
con người. Nói cách khác, sự phản ánh của lợi ích trong ý thức lúc này đã
biến thành mục đích, thành động cơ tư tưởng và chính động cơ tư tưởng đó
trực tiếp thúc đẩy con người hành động để dành lấy lợi ích đặng thỏa mãn
nhu cầu.
Như vậy, lợi ích kinh tế luôn gắn chặt chẽ với nhu cầu. Nhưng nhu cầu
ở đây không phải là nhu cầu nói chung. Để nghiên cứu lợi ích kinh tế, điều có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn không phải phạm trù nhu cầu nói chung, mà là
nhu cầu về những của cải vật chất và dịch vụ - sản phẩm của nền sản xuất xã
hội. Những nhu cầu đó rất đa dạng và có thuộc tính chung là chúng được thỏa
mãn bằng các sản phẩm của sản xuất. Với tính chất đó, nên nhu cầu về của cải
vật chất và dịch vụ gần với lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh tế. Là một phạm trù kinh tế,
lợi ích kinh tế biểu hiện tính khách quan trong hoạt động kinh tế của con
người. Nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất định
không tùy thuộc vào ý muốn con người. Vì vậy, các quan hệ kinh tế của mỗi
xã hội được biểu hiện trước hết là lợi ích. Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.
Ăngghen đã viết : “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó
biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [26, tr.376].
Khi bàn về lợi ích, các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
Hàn Phi - nhà triết học cổ Trung Quốc coi lợi ích vật chất là cơ sở của
tất cả các mối quan hệ xã hội và chi phối mọi hành vi của con người. Theo
ông, bản chất ích kỷ của con người là ham mê lợi ích, tránh hại, cầu lợi. Vì
vậy, tất cả mọi điều thiện ác, sự hỗn loạn, nạn chiến tranh…đều bắt nguồn từ
lợi ích vật chất mà ra.
Trong bộ “Tư bản”, C.Mác cho rằng “nói về người…chỉ là người tượng
trưng cho một phạm trù kinh tế, là người mang những quan hệ giai cấp và lợi
ích nhất định”[23, tr.213]. Vấn đề lợi ích kinh tế đã được các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin phân tích một cách khoa học trong các tác phẩm
của mình. Trong cuốn “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và đặc biệt trong bộ
“Tư bản” vấn đề lợi ích kinh tế và vai trò của nó trong quá trình sản xuất xã
hội đã được C. Mác nghiên cứu một cách cặn kẽ và khoa học trên quan điểm
làm rõ tính không điều hòa về lợi ích kinh tế giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản. Trong các tác phẩm của mình V. I. Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể
vấn đề lợi ích kinh tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Lênin cho rằng cần phải thấy những lợi ích là
khách quan khi nói: “Lợi ích thúc đẩy cuộc sống các dân tộc”[18, tr. 82], đồng
thời lợi ích là phạm trù có tính chất chủ thể - xác định, tức là bất kỳ một lợi ích
nhất định nào cũng đều là cái vốn có của những chủ thể (những con người,
những giai cấp,…) tương ứng.
V.N. Lavrinenko viết: “Lợi ích là mối quan hệ xã hội khách quan của
sự tự khẳng định xã hội của chủ thể”[16, tr.16].
Theo V. P. Ca- man-kin, trong tác phẩm: “Các lợi ích kinh tế dưới chủ
nghĩa xã hội” của mình, cho rằng thực chất của lợi ích kinh tế có thể trình bày
như sau: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là sự tác động lẫn nhau
giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó”[3, tr.12].
Ở Việt Nam, tác giả Đào Duy Tùng cho rằng: Lợi ích kinh tế là cái biểu
hiện những động cơ, mục đích, những nhân tố kích thích khách quan thúc đẩy
hoạt động lao động của con người. Lợi ích kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh
tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Nhưng sẽ là không đúng nếu đồng nhất nhu
cầu với lợi ích kinh tế…lợi ích kinh tế không phải là nhu cầu nói chung mà là
việc thỏa mãn nhu cầu một cách tốt nhất, bao gồm cả nội dung của nhu cầu và
phương thức thỏa mãn nhu cầu. Vì suy cho cùng cái thúc đẩy người ta hành
động chính là thỏa mãn trên thực tế nhu cầu một cách tối ưu…Có người hiểu
lợi ích kinh tế như là sự thống nhất giữa nội dung khách quan và hình thức
chủ quan. Theo chúng tôi, lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó
phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất định, không tùy
thuộc vào ý muốn con người…Lợi ích kinh tế tồn tại không tùy thuộc ở chỗ
người ta có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong hệ thống
sản xuất - xã hội quy định. Vì vậy, về bản chất phải khẳng định rằng, lợi ích
kinh tế là tồn tại khách quan [33, tr.94 - 96].
Như vậy, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình
thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất, nó không tùy thuộc vào ý chí,
lòng ham muốn của con người.
Quan hệ sản xuất là khách quan. Nó luôn luôn tồn tại trong vận động.
Sự vận động của quan hệ sản xuất biểu hiện ở sự vận động của các quy luật
kinh tế do nó trực tiếp sinh ra. Thông qua sự vận động của các quy luật
kinh tế mà quan hệ sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Ở đây, tính
khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích để chi phối người ta
phải hành động theo quy luật, do đó đảm bảo quan hệ sản xuất khách quan.
Lợi ích kinh tế bao giờ cũng phản ánh một quan hệ sản xuất, quan hệ kinh
tế nhất định.
Ý kiến trên còn được khẳng định bởi một số tác giả khác như Vũ Hữu
Ngoạn: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu
hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động chung
của tất cả các quy luật kinh tế [31, tr.54]. Hay tác giả Khoa Minh lại cho rằng:
Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thõa
mãn những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích
xác định của hoạt động kinh tế của con người… Lợi ích kinh tế là hình thức
biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế
đó [29, tr.296].
Từ những phân tích khái quát trên có thể hiểu, lợi ích kinh tế là một
phạm trù kinh tế khách quan, được quy định bởi hệ thống các quan hệ kinh tế
nhất định và biểu hiện mối quan hệ lẫn nhau giữa sản xuất vật chất và nhu cầu
vật chất. Lợi ích kinh tế, trong ý nghĩa khách quan của nó, là những khoản thu
nhập được ấn định bởi các quan hệ kinh tế nhằm đảm bảo cho các chủ thể kinh
tế tồn tại, hoạt động và phát triển.
Khi không thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là không nhận được
những những khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và
phát triển như là đại biểu độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy quan hệ
kinh tế quyết định lợi ích kinh tế thông qua vai trò, vị trí của các chủ thể lợi
ích trong một hệ thống xã hội nhất định.
Lợi ích kinh tế tuy là một phạm trù kinh tế khách quan, nhưng con
người có khả năng nhận thức được nó và vì nó mà hành động. Lợi ích kinh tế
không được nhận thức ngay sau khi xuất hiện, mà trước hết chúng biểu hiện
mối quan hệ có tính quy luật giữa sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất của
con người. Trong việc hình thành lợi ích, vai trò quyết định thuộc về sản xuất
vật chất, quá trình sản xuất này, đến lượt mình lại được phát triển dưới tác
động của nhu cầu của con người. Đồng thời chính sản xuất có tác động ngược
trở lại đến quá trình hình thành nhu cầu của xã hội. Khi là tiền đề cho hoạt
động của con người, nhu cầu đồng thời là sản phẩm của hoạt động đó và khi
xuất hiện trên cơ sở sản xuất xã hội, nhu cầu đến lượt mình lại có thể tác động
đến sản xuất vật chất, nhưng không phải là trực tiếp, mà là gián tiếp thông qua
tổng hoà các lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ giữ các phạm trù trên có thể được biểu hiện như sau: SẢN
XUẤT - LỢI ÍCH - NHU CẦU - LỢI ÍCH - SẢN XUẤT.
Nhờ thế, lợi ích kinh tế trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ
biến của sự phát triển không ngừng của sản xuất và đời sống xã hội. Ăngghen
cho rằng: Lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển quần chúng đông
đảo và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người, thì chúng
“lay động đời sống của nhân dân”[25, tr.408].
Từ bản chất của lợi ích kinh tế, có thể thấy lợi ích kinh tế có những đặc
điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế luôn gắn với nhu cầu kinh tế, là động lực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội.
Lợi ích và nhu cầu của con người luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, bởi lẽ
lợi ích là sự hiện thực hóa nhu cầu, đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy,
xét một cách khái quát, lợi ích là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của
thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể, là điều kiện để thỏa mãn về nhu
cầu nhất định của con người.
Con người luôn mong muốn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần
ngày càng cao hơn, đầy đủ hơn, do đó các nhu cầu của con người là không
ngừng phát triển. Muốn thỏa mãn nhu cầu thì lợi ích phải được thực hiện. Lợi
ích không phải tự nhiên xuất hiện và ban phát đầy đủ cho mỗi cá nhân mà nó
đòi hỏi con người phải hành động. Từng cá nhân, tập thể cho đến toàn xã hội
đều phải hành động mới đạt được mục đích. Điều đó đã gây nên những biến
đổi lớn lao trong đời sống cộng đồng. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định: lợi
ích là một trong những động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy hành động của
con người và thông qua đó gây nên những biến đổi của thế giới vật chất và
lịch sử xã hội.
Thứ hai, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, bắt nguồn
từ các quan hệ kinh tế của các chủ thể mang những lợi ích nhất định.
Nói đến lợi ích kinh tế là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất
hình thành thu nhập của những người tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.
Theo C. Mác thì quan hệ phân phối này lại phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất. Mỗi quan hệ sản xuất có một phương thức phân phối do đó có
một hình thức thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích kinh tế là do
quan hệ sản xuất quyết định, mà quan hệ sản xuất này lại do trình độ của lực
lượng sản xuất quyết định. Vì vậy lợi ích kinh tế có tính khách quan.
Lợi ích kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Để tối đa hóa lợi ích kinh tế, người lao động và người sử dụng
lao động buộc phải quan hệ với nhau bằng cách này hay cách khác để đôi bên
đều có thể thụ hưởng phần lợi ích nhất định do sản xuất tạo ra.
Ở Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế là thúc đẩy tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, tạo cơ sở
vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện giai cấp công nhân mà đại diện
của nó là Đảng cộng sản nắm chính quyền và mục đích của người lao động là
có việc làm, có thu nhập và nâng cao đời sống, thì mối quan hệ giữa người lao
động và người sử dụng lao động tốt nhất là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi.
Ở đây, người nắm giữ các điều kiện vật chất của người lao động cũng cần
được thụ hưởng một phần thỏa đáng bộ phận giá trị mới do lao động tạo ra và
người lao động cũng cần nhận được một phần hợp lý bộ phận giá trị mới do
chính lao động của mình sáng tạo ra.
Thứ ba, lợi ích kinh tế luôn mang tính lịch sử
Lợi ích kinh tế là sự hiện thực hóa các nhu cầu. Song không phải mọi
nhu cầu của con người đều có khả năng hiện thực hóa mà chỉ có nhu cầu nào
xuất phát từ chính năng lực đáp ứng của nền sản xuất xã hội mới được hiện
thực hóa. Theo C.Mác: “quy mô của nhu cầu được gọi là tất yếu và những
phương thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm của lịch sử và phụ thuộc
phần lớn vào trình độ văn hóa của đất nước”[27, tr.27]. Vì vậy, lợi ích kinh tế
phụ thuộc vào hoàn cảnh của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là một trong những hiện tượng phổ biến nhất của đời
sống xã hội. Nó gần gũi trong quan niệm và hành động hằng ngày của quảng
đại quần chúng. Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản
xuất và đời sống xã hội. Lịch sử đã chứng minh, động lực thúc đẩy con người
hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác
ngoài lợi ích của họ. Chính lợi ích đó đã gắn bó con người với cộng đồng của
mình và tạo ra ở con người những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say
mê trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi hai động lực
chính đó là động lực vật chất và động lực tinh thần. Để đạt được những kết
quả cao trong hoạt động kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà
còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò
quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người.
Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng đặc
biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế,
vì nó luôn là động lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với
toàn xã hội. Đồng tời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở,
tiền đề để thực hiện các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội phồn vinh thì đời
sống tinh thần mới được nâng cao.
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì
các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Một khi con
người (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới các
lợi ích nhất định. Đạt được những lợi ích tương xứng với kết quả SXKD
thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi
ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được thực
hiện đầy đủ thì sẽ làm cho mối quan hệ giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu
tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong
hoạt động SXKD.
Từ sự phân tích trên, ta thấy lợi ích vật chất có vai trò vô cùng quan
trọng, có tính chất quyết định trong sự phát triển xã hội vì những lẽ sau:
- Lợi ích kinh tế là cơ sở, điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
con người và xã hội loài người. Xã hội vận động về cơ bản là vận động thông
qua việc thực hiện các lợi ích kinh tế.
- Các quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết định và chi phối đời sống chính
trị, tư tưởng của xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Vì động lực lợi ích kinh tế là nền tảng, là cơ sở cho việc hình thành và
giải quyết các động lực lợi ích khác của con người, cho nên đòi hỏi chúng ta
phải giải quyết hợp lý quan hệ lợi ích kinh tế và không ngừng nâng cao lợi ích
kinh tế cho con người để tạo cơ sở cho việc giải quyết mọi vấn đề khác của
đời sống xã hội.
- Để kích thích tính tích cực ở mức độ cao nhát, cần quan tâm đặc biệt
đến lợi ích kinh tế, đồng thời không quên các lợi ích khác của mỗi cá nhân. Sự
kết hợp đó không chỉ khai thác được thế mạnh của lợi ích kinh tế mà cả thế
mạnh của các lợi ích khác và thế mạnh tương hỗ giữa các lợi ích đó trong mỗi
con người.
- Quan tâm đến lợi ích cá nhân, tạo điều kiện để mỗi người lao động có
thể thực hiện được lợi ích cá nhân của mình, nhưng không khuyến khích họ
thực hiện lợi ích cá nhân bằng mọi cách. Việc khuyến khích lợi ích kinh tế cá
nhân phải nằm trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích kinh tế khác ( lợi ích
kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội), nghĩa là quan tâm đến lợi ích kinh tế
cá nhân phải đặt trong mối quan hệ không làm tổn hại đến lợi ích xã hội và lợi
ích tập thể.
Thực tế cuộc sống đã chứng minh, trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta chỉ
tập trung quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch
hóa tập trung bao cấp mà ít quan tâm đến lợi ích của người lao động, có người
còn coi lợi ích cá nhân là cái gì đó trái với nền tảng căn bản của xã hội mới
mà chúng ta đang xây dựng. Điều đó đã làm triệt tiêu động lực của con người
trong lao động sản xuất.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, thực hiện phân phối theo lao động, đã tạo ra một động
lực rất lớn đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động
của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là
động lực kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc
phát huy nhân tố con người.
1.1.3. Các chủ thể lîi Ých kinh tÕ và hệ thống lợi ích kinh tế trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Vì lợi ích kinh tế là khách quan và được quy định trực tiếp bởi phương
thức sản xuất và hệ thống các quan hệ sản xuất, cho nên chúng được thể hiện
ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, hình thành nên một hệ thống các
lợi ích kinh tế với cơ cấu phức tạp, đa dạng trong không gian và thời gian, bao
gồm lợi ích kinh tế của xã hội, lợi ích kinh tế của người SXKD (doanh nghiệp,
doanh nhân), lợi ích của những người tham gia vào quá trình trao đổi kết quả
SXKD, lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế của người lao động và lợi ích
hinh tế của người tiêu dùng, lợi ích kinh tế của cộng đồng…Việc xác định chủ
thể của các lợi ích là một vấn đề quan trọng và cần thiết cả về phương diện
phương pháp luận và cả về mặt thực tiễn trong quá trình nghiên cứu lợi ích
kinh tế.
Trong nền sản xuất xã hội, tùy thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể mà chủ thể trong nền sản xuất xã hội ấy có thể là cá nhân, tập thể hay xã
hội và có bao nhiêu chủ thể thì có bấy nhiêu lợi ích kinh tế tương ứng.
Chủ thể của thực tiễn sản xuất xã hội - đó là con người nhận thức và
cải tạo thực tiễn sản xuất, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Tính tích cực
và sáng tạo là đặc trưng chủ yếu, vốn có của con người - với tư cách là chủ
thể. Nói một cách khác, chỉ có những tác động vào tự nhiên và xã hội thì con
người mới bộc lộ mình như là một chủ thể của lịch sử. Như vậy, nói đến chủ
thể là nói đến con người với những phẩm chất nhất định đang hành động nhận
thức và cải tạo thế giới.
Cần phân biệt chủ thể và cá thể. Mọi chủ thể đều có tư cách như một cá
thể, nhưng chỉ có những cá thể nào tham gia hoạt động SXKD … mới trở
thành chủ thể. Như vậy, tùy thuộc vào chủ thể là cá nhân thì có lợi ích kinh tế
của cá nhân, nếu chủ thể là tập thể thì có lợi ích kinh tế của tập thể, nếu chủ
thể là toàn xã hội thì có lợi ích kinh tế của xã hội. Dĩ nhiên các lợi ích này
luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ gắn bó, tác động lẫn nhau.
Lợi ích kinh tế luôn luôn gắn với các chủ thể nhất định. Các chủ thể đó
lại được phân bổ, điều động vào các quá trình, các khâu, các lĩnh vực của sản
xuất xã hội - sự phân bổ, điều động các chủ thể ấy không chỉ là sự phân bổ,
điều động cho hiện tại mà cho cả tương lai. Cho nên, mỗi chế độ kinh tế xã
hội luôn hình thành một hệ thống lợi ích đa dạng, phong phú và phức tạp. Hệ
thống lợi ích này không ngừng biến đổi, mở rộng theo thời gian và theo không
gian. Tính phong phú, đa dạng và phức tạp của hệ thống lợi ích càng trở nên
phong phú, đa dạng và phức tạp hơn trong hoàn cảnh và điều kiện của nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay. Hiện nay, với nhiều cách tiếp
cận khác nhau, có thể xác định lợi ích kinh tế ở nước ta hiện nay gồm các loại
lợi ích sau:
- Lợi ích kinh tế xã hội
- Lợi ích kinh tế tập thể
- Lợi ích kinh tế cá nhân
- Lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế
- Lợi ích kinh tế của các khâu (các giai đoạn của quá trình tái sản xuất
xã hội đó là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng)
- Lợi ích kinh tế hiện tại
- Lợi ích kinh tế tương lai …
Ba loại lợi ích kinh tế: lợi ích kinh tế xã hội, lợi ích kinh tế tập thể, lợi
ích kinh tế cá nhân mang tính chất khái quát nhất. Bởi lẽ, lợi ích kinh tế của
các thành phần kinh tế, lợi ích kinh tế của các khâu, lợi ích kinh tế cho hiện
tại, lợi ích kinh tế cho tương lai…suy cho cùng cũng là lợi ích kinh tế cho cá
nhân con người hoặc cho cùng một số cá nhân hoặc cho cùng một cá nhân,
hoặc cho tất cả các cá nhân mà thôi. Nói cách khác, mục đích cuối cùng của
công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế dưới bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội
nào cũng chỉ có ý nghĩa đích thực khi nhắm vào vì con người, cho con người,
của con người, cho dù con người đó hoạt động độc lập tương đối hay trong
quan hệ với tất cả các cá nhân khác
Việc nhận thức và tìm hiểu mối quan hệ giữa ba loại lợi ích trên có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng giúp chúng ta giải quyết tốt các vấn đề của thực tiễn.
Sự vận động các lợi ích kinh tế thường là không trùng khớp nhau, thậm chí
trái ngược nhau không chỉ diễn ra trong phạm vi rộng lớn trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, mà còn diễn ra trong từng doanh nghiệp, trong đó có DNNN
sau CPH. Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ giữa chúng sẽ làm suy yếu và
có thể dẫn đến việc triệt tiêu động lực, nguy hiểm hơn có thể dẫn đến xung
đột. Chẳng hạn, tổng thu nhập của người lao động trong DNNN sau CPH
không thể vượt quá quỹ lương, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Nếu vượt
quá giới hạn của quỹ đó, sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, tức vi
phạm lợi ích của tập thể. Lợi nhuận của doanh nghiệp giảm đi thì mức đóng
góp cho ngân sách nhà nước cũng bị giảm theo, do đó lợi ích của toàn xã hội
cũng bị cắt xén và ngược lại. Vì vậy việc giải quyết mối quan hệ giữa các lợi
ích kinh tế, thực chất là kết hợp chúng trong DNNN sau CPH, để tạo một hợp
lực mạnh mẽ trong DNNN sau CPH trở thành vấn đề tất yếu khách quan ở
mọi lúc, mọi nơi.
Mỗi loại lợi ích kinh tế có đặc trưng riêng, giữa chúng có sự thống nhất
và mâu thuẫn, làm điều kiện cho nhau, tác động qua lại và thâm nhập lẫn
nhau. Trong đó lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động và của doanh
nghiệp được thực hiện trên cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế của toàn xã hội.
Ngược lại, lợi ích kinh tế của toàn xã hội chỉ được thực hiện qua hàng loạt
hoạt động có hiệu quả để đảm bảo cho lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và của
cá nhân người lao động.
Việc kết hợp các lợi ích kinh tế trong điều kiện nước ta hiện nay chỉ
được giải quyết có kết quả thực sự khi chúng ta nhận thức rõ các loại lợi ích
trên suy cho cùng là lợi ích kinh tế cho cá nhân con người mà thôi.
Vì lý do trên, đồng thời với yêu cầu của đề tài, luận văn đi sâu vào phân
tích lợi ích kinh tế của cá nhân.
Lợi ích cá nhân gắn liền với sự quan tâm trực tiếp, thiết thân của mỗi
con người trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cái mà người lao động quan
tâm và cần thiết, cần có là sau quá trình lao động, SXKD, họ thu nhận được
những gì, bao nhiêu, chứ không phải làm gì, ở đâu. Song các quyết định để
họ thu được những gì và bao nhiêu lại là số lượng và chất lượng lao động
của họ. Do đó lợi ích cá nhân gắn liền trực tiếp với lao động cá nhân (lao
động cá biệt).
Trong nền kinh tế hàng hóa, người kinh doanh (chủ thể) chỉ có thể có
lợi khi mà hao phí lao động cá biệt của họ bằng hoặc nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội. Để có thể đạt được điều đó, người lao động cá biệt phải có số
lượng lao động nhiều và chất lượng tốt, muốn vậy họ phải tự học hỏi, tự đào
tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải thường xuyên cải tiến
quy trình sản xuất đổi mới kỹ thuật công nghệ. Như vậy, nói lợi ích cá nhân
gắn liền với lao động cá nhân nghĩa là gắn liền với số lượng và chất lượng lao
động cá nhân của họ. Do đó, muốn đạt được lợi ích cá nhân thỏa đáng, bản
thân người lao động phải tìm mọi cách để nâng cao chất lượng lao động và
tăng số lượng lao động.
Trong nền kinh tế hàng hóa, lợi ích cá nhân của người lao động thể hiện
trước hết ở tiền lương (kể cả tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế) mà
người lao động nhận được trước hoặc trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiền
lương hay tiền công, theo Mác lại chính là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức
lao động mà, mà sức lao động lại là toàn bộ khả năng về thể lực và trí lực tồn
tại trong cơ thể sống. Khả năng thể lực, trí lực đó chính là sức khỏe và bằng
cấp kiến thức. Vì vậy mà sự thực hiện lợi ích cá nhân thể hiện trước hết trong
lĩnh vực tiêu dùng - tiêu dùng để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.
Trong lĩnh vực tiêu dùng nói chung, thì sự tiêu dùng mà người lao động quan
tâm trước nhất để làm tăng số lượng và chất lượng lao động của mình là tự
đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hóa.
Lợi ích cá nhân còn được thực hiện về mặt pháp luật. Nghĩa là, luật
pháp luôn tạo điều kiện và khuyến khích việc thực hiện lợi ích cá nhân trên cơ
sở lao động và tính sáng tạo lao động của cá nhân. Sự khuyến khích và tạo
mọi điều kiện về mặt luật pháp để thực hiện lợi ích cá nhân là nhằm mục đích
phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động xã
hội….điều đó cũng có nghĩa là luật pháp khuyến khích và tạo điều kiện để
mọi người có thể làm giàu.
Lợi ích cá nhân còn được thực hiện thông qua hình thức sở hữu về vốn
và tài sản và cuối cùng lợi ích cá nhân còn được thực hiện thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội và những thu nhập từ kinh tế phụ gia đình. Do đó lợi ích cá
nhân có thể được kiểm kê, kiểm soát thông qua pháp luật. Thông qua việc
kiểm kê và kiểm soát mà Nhà nước có thể định hướng, giúp đỡ tạo điều kiện
để thực hiện lợi ích cá nhân, mặt khác mà Nhà nước cũng có thể dùng luật
pháp để hạn chế, ngăn chặn việc thực hiện nó bằng hành vi trái pháp luật, trái
đạo lý.
Thông qua việc kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước mà xã hội có thể
chủ động tạo mọi điều kiện cho người lao động có thể tự do học nghề, tự do
chọn nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp. Tạo điều kiện để người lao
động nâng cao khả năng về thể lực bằng cách tự do luyện tập, tự do khám
chữa bệnh và được hưởng quyền chăm sóc về y tế. Tự do đầu tư vốn và tài
sản vào ngành nghề nào để có thể thu được nhiều lợi nhuận và lợi tức trong
khuôn khổ luật pháp quy định thông qua con đường tham gia mua cổ phiếu,
tín phiếu…Đó là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước có thể hoàn
toàn chủ động để “điều tiết” lợi ích kinh tế của người lao động và người sử
dụng lao động.
Trong các DNNN sau CPH, người lao động là người trực tiếp tiến hành
quá trình sản xuất để sản xuất ra hàng hóa nhằm thỏa mãn những nhu cầu của
xã hội, của tập thể và của bản thân mình nên họ là người trực tiếp thực hiện
các lợi ích kinh tế và biến những lợi ích kinh tế đó thành động lực của sản
xuất và sản xuất cũng nhằm thực hiện các lợi ích kinh tế đó.
Tuy nhiên, người lao động tiến hành sản xuất , trước hết và trực tiếp là
vì lợi ích kinh tế của bản thân họ, tức là nhằm thực hiện được quyền lao
động và có được thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại,
giải trí…của bản thân và gia đình mình. Nói một cách khác, lợi ích kinh tế
cá nhân là lợi ích trực tiếp của người lao động. Nó là mục đích trực tiếp của
hoạt động sản xuất của người lao động, là động cơ trực tiếp thôi thúc họ
phải tiến hành sản xuất . Một khi mục đích, động cơ đó trở thành hiện thực,
tức là lợi ích kinh tế cá nhân người lao động được thực hiện, thì nó trở
thành động lực trực tiếp của sản xuất, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các
DNNN sau CPH phát triển.
1.2. ĐẶC TRƯNG VÀ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
SAU CỔ PHẦN HÓA
1.2.1. Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa
1.2.1.1. Thu nhập của người lao động được thực hiện trực tiếp dưới
hình thức tiền lương và tiền thưởng theo nguyên tắc phân phối theo lao
động kết hợp với phân phối theo giá trị sức lao động
Để lợi ích kinh tế cá nhân người lao động được thực hiện, trở thành
động lực của sản xuất và động lực đó không có gì khác hơn là tính tích cực,
tinh thần và thái độ lao động, tính chủ động, sáng tạo của người lao động được
phát huy trong quá trình sản xuất, gắn bó với các doanh nghiệp, quan tâm đến
sự sống còn và thành quả hoạt động của các doanh nghiệp. Đồng thời động
lực đó chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được thực hiện quyền lao
động và được hưởng thụ một cách thỏa đáng những thành quả lao động mà họ
đã cống hiến.
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường, thì sức lao động của người lao động trong các DNNN sau CPH cũng
được thừa nhận là hàng hóa. Việc mua bán sức lao động đó được thực hiện
thông qua hợp đồng lao động giữa người lao động và chủ doanh nghiệp sử
dụng sức lao động trên cơ sở pháp luật hiện hành. Một khi sức lao động đã trở
thành hàng hóa, thì tiền lương chẳng qua là hình thức biểu hiện bằng tiền của
giá trị hay giá cả sức lao động của người lao động.
Để cho người lao động thật sự yên tâm, từ đó hăng say và sẵn sàng
mang hết sức sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải trả công cho họ đầy đủ, kịp thời, phù hợp với sức lao