Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.73 KB, 53 trang )

Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1 5
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ 5
CHƯƠNG 2 13
TẬP ĐOÀN KINH TẾ CHAEBOL HÀN QUỐC 13
2.1 Tập đoàn kinh tế Hàn Quốc 13
2.2 Khuynh hướng đa dạng hóa của các Chaebol 17
2.3 Vai trò của Chaebol với nền kinh tế Hàn Quốc 21
2.4 Mối liên hệ với Chính phủ Hàn Quốc 26
2.5 Những yếu điểm trong mô hình 27
2.6 Giải pháp khắc phục những nhược điểm trong mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol ở Hàn Quốc.31
CHƯƠNG 3 34
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TĐKT Ở VIỆT NAM 34
3.1 Mô hình TĐKT ở VN 34
3.2 Thực trạng hoạt động của các Tập đoàn 40
CHƯƠNG 4 47
SO SÁNH GIỮA MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM VỚI MÔ HÌNH CHAEBOL
CỦA HÀN QUỐC 47
4.1 Những khác biệt giữa mô hình tập đoàn kinh tế của Việt Nam và mô hình Chaebol của Hàn Quốc
47
4.2 Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình Chaebol Hàn Quốc 50
KẾT LUẬN 52
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 1
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, quá trình toàn cầu hoá đang diễn


ra mạnh mẽ làm thay đổi bản chất của quá trình cạnh tranh cùng với xu thế mở cửa hội
nhập nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu đã có nhưng tác động to lớn đối với nền kinh tế
nước ta. Đây vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức rất lớn đối với một nước
có đến trên 80 triệu dân và có thu nhập bình quân đầu người thấp như nước ta. Xu thế mở
cửa nền kinh tế đã và đang có những tác động nhất định đến các doanh nghiệp Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mà gần nhất là việc gia nhập Tổ
Chức Thương Mại Thế Giới ( WTO) của Việt Nam. Do đó để có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như phát huy các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm tạo thế
và lực phục vụ cho quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước thì việc từng bước
hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là hết sức
cần thiết mà bước đầu là thành lập thí điểm các tập đoàn kinh tế từ các Tổng công ty nhà
nước.
Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương tháng 01 năm 2004 đã xác định: “
Tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước; tích
cực chuẩn bị để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh có sự tham gia mạnh mẽ của
các thành phần kinh tế trong nước và đầu tư của nước ngoài ”.
Qua quá trình hình thành và hoạt động của các tập đoàn kinh tế trên thế giới đã
cho thấy đây là một mô hình rất thích hợp và có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường
hiện tại và tương lai, các tập đoàn kinh tế đã khẳng định được vai trò hết sức to lớn đối
với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Đối với nước ta đang trong quá trình sắp sếp và
đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước thì việc áp dụng
thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế, sau đó tiến tới hình thành các tập đoàn kinh tế
mạnh trong các nghành, lĩnh vực mũi nhọn là cách làm thích hợp và là hướng đi đúng.
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 2
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Để có thể tìm hiểu về sự hình thành và việc áp dụng mô hình tập đoàn kinh tế ở
Việt Nam cũng như mô hình tập đoàn kinh tế ở các nước, tiêu biểu là mô hình tập đoàn
kinh tế Chaebol Hàn Quốc, nhóm em xin được nghiên cứu đề tài với tên gọi:
“Mô hình Tập đoàn Kinh tế - So sánh trường hợp Hàn quốc và Việt Nam”
Mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol của Hàn Quốc từ lâu đã được đánh giá là một

mô hình tập đoàn kinh tế điển hình. Nhờ có các Chaebol mà nền kinh tế Hàn Quốc mới
có thể trỗi dậy trong một thời gian ngắn. Hai thập kỷ 60 và 70 chứng kiến sự phát triển
đỉnh cao nhất của mô hình này và đó cũng là thời kỳ mà Hàn Quốc cùng với Đài Loan
lập được hai trong số thành tích kinh tế xuất sắc nhất Châu Á ,và có lẽ trong số đó có
những thành tích xuất săc vào bậc nhất thế giới. Cho nên khi nghiên cứu về mô hình tập
đoàn ta không nên bỏ sót mô hình này.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc hiện nay được coi là đối tác thương mại và đầu tư lớn thứ
4 ở Việt Nam. Nền kinh tế của Hàn Quốc hiện nay vẫn bị chi phối chủ yếu bởi hệ thống
các Chaebol. Cho nên nghiên cứu mô hình này là rất cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việt Nam hiện nay các tập đoàn kinh tế mới được hình thành và phát triển nên vấp
phải nhiều hạn chế. Nghiên cứu về Chaebol- một trong những mô hình tập đoàn kinh tế
tiêu biểu nhất Châu Á sẽ giúp chúng ta hiểu rõ, rút kinh nghiệm và đưa ra chính sách
cũng như biện pháp hiệu quả để phát triển mô hình tập đoàn phù hợp với xu thế nhưng
vẫn đặc sắc Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ toàn diện đến nay đã được hơn 20 năm.
Qua thời gian đó Hàn Quốc đã trở thành một trong những đối tác quan trong nhất của
Việt Nam. Nghiên cứu các tập đoàn mà ảnh hưởng của nó chi phối toàn bộ nền kinh tế
Hàn Quốc sẽ giúp ta có những đối sách phù hợp trong quá trình hợp tác kinh tế với nước
này và góp phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ kinh tế nói riêng và mối quan hệ toàn
diện nói chung Việt Nam-Hàn Quốc.
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 3
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam từ giai đoạn hình thành cho
đến nay.
Bên cạnh đó, các Chaebol ở Hàn Quốc ra đời từ những năm 50 ở Hàn Quốc nên
phạm vi nghiên cứu sẽ được bắt đầu từ khi các Chaebol được ra đời cho đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp thu thập số liệu, phân tích,

tổng hợp …
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài gồm 4
chương sau đây:
Chương 1: Lý luận chung về mô hình tập đoàn kinh tế
Chương 2: Tập đoàn kinh tế Chaebol ở Hàn Quốc
Chương 3: Tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 4: So sánh tập đoàn kinh tế Việt Nam và Chaebol Hàn Quốc
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 4
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế (TĐKT)
Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá
và hợp tác hoá sản suất , do nhiều nhân tố khác của kinh tế xã hội, khoa học quản lý,
khoa học công nghệ, đã từ lâu ở các nước phát triển nhiều Doanh nghiệp (DN) đã liên kết
lại với nhau dần hình thành những tổ hợp kinh tế quy mô lớn, đa dạng về ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh với phạm vi hoạt động rộng.
Những tổ hợp kinh tế này có những tên gọi khác nhau như: Chaebol (ở Hàn
Quốc), Keiretsu (ở Nhật Bản), Conglomerate (ở Phương Tây) được gọi là tập đoàn kinh
tế hay tập đoàn kinh doanh.
Chaebol chỉ một liên minh gồm nhiều công ty hình thành quanh một công ty mẹ.
Các công ty thường có cổ phiếu tại mỗi công ty khác và thường do một gia đình điều
hành.
Keiretsu mô tả một tổ hợp liên kết không chặt chẽ gồm các công ty được tổ chức
quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của cả hai bên. Đôi khi các công ty sở hữu vốn
trong từng công ty khác.
Conglomerate là một nghiệp đoàn bao gồm nhiều DN về bề ngoài không liên quan
với nhau. Cơ cấu này giúp đa dạng hoá rủi ro kinh doanh, song sự thiếu tập trung có thể

gây khó khăn trong việc quản lý công việc kinh doanh.
Theo bách khoa toàn thư Wikipedia tiếng Anh thì tập đoàn kinh tế được định
nghĩa là: "Tập đoàn kinh tế là một thực thể pháp lí, mà trong khi được sở hữu chung bởi
một số người tự nhiên hoặc những thực thể pháp lí khác có thể tồn tại hoàn toàn độc lập
khỏi chúng. Sự tồn tại độc lập này cho tập đoàn những quyền riêng mà những thực thể
pháp lí khác không có. Qui mô và phạm vi về khả năng và tình trạng của tập đoàn có thể
được chỉ rõ bởi luật pháp nơi sát nhập."
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì tập đoàn kinh tế được xếp là một
thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau: "Nhóm công ty là tập hợp các công ty có
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 5
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch
vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty gồm có:
• Công ty mẹ, công ty con.
• Tập đoàn kinh tế
• Các hình thức khác."
Như vậy: “ TĐKT là một cơ cấu sở hữu, tổ chức và kinh doanh đa dạng, có quy
mô lớn, nó vừa có chức năng sản xuất – kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế
nhằm tăng cường khả năng tích tụ, tập trung cao nhất các nguồn lực ban đầu (vốn , lao
động, công nghệ ) để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và tối đa hoá lợi nhuận.
Trong đó có các TĐKT là tổ hợp các DN thành viên (công ty con) do một công ty mẹ lắm
quyền lãnh đạo chi phối về nguồn lực ban đầu, chiến lược phát triển và hoạt động tại
nhiều ngành, lĩnh vực ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau.”
1.2 Đặc điểm chung của tập đoàn kinh tế
1.2.1 Về quyền kiểm soát
Thường được phân thành hai dạng chủ yếu là mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước
và mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân
 Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước: TĐKTNN là của Nhà nước, do Nhà nước
làm chủ sở hữu
Chức năng:

- Chống nguy cơ độc quyền tư nhân đối với những sản phẩm kinh tế cần thiết cho
sự phát triển chung kinh tế cả nước.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cả nước đối với các quốc gia khác
trên thị trường thế giới
- Đáp ứng những yêu cầu có liên quan mật thiết đến an ninh và quốc phòng.
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 6
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Chủ yếu tập trung vào các ngành cung cấp than, điện, hàng không, bưu chính viễn
thông, một số sản phẩm trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng khác như cung cấp nước, giao
thông vận tải thủy và bộ (ví dụ đường sắt)
 Mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân: TĐKT tư nhân do nhà đầu tư tư nhân làm
chủ sở hữu, một số trường hợp có sự tham gia của nhà nước nhưng với tỷ lệ không chi
phối.
Ở các nước như Hoa Kỳ hay các nước Châu Âu, thông thường tập đoàn kinh tế tư
nhân được hình thành thông qua quá trình sáp nhập hoặc mở rộng ra thành cấu trúc tập
đoàn.
Các nước Nhật Bản, Trung Quốc hay Hàn Quốc do phát triển sau nên họ không đi
lại con đường dài như của Hoa Kỳ hay Châu Âu để hình thành mô hình tập đoàn kinh tế.
Họ phải có sự dẫn dắt của nhà nước để những tập đoàn đó đi đúng quy luật thị trường,
phát triển nhanh hơn. Vai trò của nhà nước là xây dựng khung pháp luật, các thể chế,
chính sách thúc đẩy tập đoàn kinh tế tư nhân phát triển.
1.2.2 Về cấu trúc
Có ba dạng chủ yếu: Cấu trúc dọc, Cấu trúc ngang, Cấu trúc hỗn hợp.
 Cấu trúc dọc:
Doanh nghiệp thành viên tập đoàn hoạt động trong các khâu của một quá trình sản
xuất tạo giá trị/cung ứng dịch vụ khép kín từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Họ ít phụ
thuộc vào bên ngoài trong quá trình tạo giá trị.Ví dụ: Tập đoàn văn hoá phẩm
Mustermann bao gồm hệ thống DN xuất bản, in và bán hàng…
Nhược điểm: Việc tự cung cấp đầu vào hay xử lý nguyên liệu không hiệu quả
bằng tự thoả thuận hợp đồng từ các đối tác bên ngoài.

 Cấu trúc ngang:
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 7
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Tương đối phổ biến. Bao gồm các doanh nghiệp thành viên trong cùng một lĩnh vực và
cùng cấp độ sản xuất, thương mại.Ví dụ: VoklWagen bao gồm các doanh nghiệp thành
viên chuyên sản xuất đa dạng từ xe giá rẻ cho tới các dòng xe cao cấp, xa xỉ.
Nhược điểm: thống lĩnh thị trường bằng cách thâu tóm hoặc chèn ép các đối thủ
khác.
 Cấu trúc hỗn hợp:
Doanh nghiệp thành viên tập đoàn hoạt động trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và
địa bàn khác nhau.
Nhược điểm: Một thành viên có thể không hoặc ít quan hệ kinh doanh với thành
viên khác.
1.2.3 Về quy mô
Có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và phạm vi lao động
 TĐKT vừa có sự tích tụ của bản thân doanh nghiệp, lại vừa có sự tập trung
giữa các doanh nghiệp.
Ví dụ: Năm 1999, trị giá vốn cổ phiếu của tập đoàn General Electric (Mỹ) là 259
tỷ USD, tập đoàn Exxon là 172 tỷ USD, tập đoàn Cocacola là 142 tỷ USD
 Phạm vi hoạt động của TĐKT rất rộng, không chỉ ở phạm vi lãnh thổ một quốc
gia mà còn ở nhiều nước hoặc phạm vi toàn cầu.
Ví dụ: Tập đoàn dầu hoả Royal-Dutch Shell có vốn đầu tư ở 2000 công ty trên 130
quốc gia. Tập đoàn Petronas của Malaysia có 120 công ty ở 22 quốc gia.
1.2.4 Về hoạt động kinh doanh
Đa ngành, đa lĩnh vực.
TĐKT hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực để phân tán rủi ro, mạo hiểm vào các mặt
hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm cho hoạt động của tập đoàn luôn được
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 8
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
bảo toàn và hiệu quả, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng lao động của

tập đoàn.
Ví dụ: Tập đoàn Misubishi là một trong các TĐKT lớn của Nhật Bản, các hoạt
động kinh doanh của nó trải rộng trên nhiều lĩnh vực như sắt thép, cơ khí đóng tàu, hoá
chất và các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, ngoại thương, vận tải, trong đó ngành mũi nhọn
là công nghiệp nặng và phát triển tài nguyên.
1.3 Chu kì phát triển
1.3.1 Giai đoạn hình thành
Khi một tổ chức mới sinh ra yếu tố đầu tiên là quan tâm đến sản phẩm hoặc dịch
vụ của tổ chức có được thị trương chấp nhận hay không. Những người cùng góp vốn hay
chủ doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian và tiền bạc để đàu tư cho kỹ thuật, phát triển sản
xuất và marketing. Các yếu tố cơ cấu tổ chức đang ở dạng sơ khai, cấu trúc tổ chức rời
rạc và cơ chế quản lý chưa chặt chẽ, sự quản lý giám sát mang tính cá nhân chưa hình
thành lên các quy ước điều lệ. Sự tồn tại của tổ chức chông cậy vào sự sáng tạo ra sản
phẩm dịch vụ.
Giai đoạn này cơ cấu tổ chức theo kiểu hành dọc, trực tuyến, lãnh đạo tập chung
và chỉ có một cấp quản lý. Nhu cầu trong công tác lãnh đạo là rất lớn. Khi tổ chức lớn
mạnh, số lượng công nhân tăng lên và nhu cầu quản lý tăng theo để giải quyết các vấn đề
phát sinh ngày càng nhiều vì vậy trong giai đoạn này người chủ doanh nghiệp phải điều
chỉnh lại cấu trúc cũng như các quy tắc điều lệ Cho phù hợp với sự lớn mạnh của tổ
chức.
1.3.2 Giai đoạn trở thành tập đoàn
Do quá trình tích tụ và tập chung vốn cao, quy mô tổ chức ngày càng lớn đòi hỏi
sự lãnh đạo ngày càng tăng và khuynh hướng tập chung hoá là phương thức chủ yếu
trong giai đoạn này. Sự cạnh tranh của thị trường ngày càng gay gắt buộc doanh nghiệp
phải đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng các nguồn lực sẵn có và sử dụng có hiệu quả vốn
đầu tư. Khi mức độ đa dạng hoá ngày càng cao thì sự quản lý doanh nghiệp ngày càng
phức tạp, các mối liên hệ kinh tế ngày càng tăng lên. Vì vậy, cơ chế quản lý kiểu tập
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 9
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
quyền như giai đoạn đầu tỏ ra không phù hợp. Sự khủng hoảng về lãnh đạo đã được giải

quyết và lúc này doanh nghiệp có một đội ngũ lãnh đạo đủ mạnh, đủ sức thực hiện uỷ
quyền, cùng với doanh nghiệp có được một chiến lược với những mục tiêu và phương
hướng rõ ràng. Các phòng ban được thành lập, giao phó công việc phân chia lao động
chuyên môn hoá hơn, việc kiểm soát và mối quan hệ thường không theo một tiêu chuẩn
nào mặc dù một số ít hệ thống theo tiêu chuẩn bắt đầu xuất hiện.
Giai đoạn này cơ cấu tổ chức trực tuyến – chức năng linh hoạt và phù hợp với tình
hình thực tế, kiểu lãnh đạo phi tập trung tỏ ra thích hợp, cấu trúc tổ chức kết hợp hàng
dọc và ngang, xuất hiện hình thức quản lý trung gian.Khi tổ chức đã phân chia, tầm kiểm
soát mở rộng thì hệ thống quyền lực bị thu ngắn lại, lúc này vai tro quan trong của cấp
quản lý trung gian được khẳng định.
1.3.3 Giai đoạn củng cố và bành trướng
Cơ cấu tổ chức lúc này chủ yếu theo bộ phận, các công ty con được độc lập tổ
chức theo chức năng kết hợp với hàng ngang. Khi tập đoàn phát triển ra nước ngoài thì áp
dụng cấu trúc theo địa lý. Vai trò của tập đoàn lúc này chủ yếu là công mẹ điều phối tài
chính , định hướng chiến lược và ứng dụng công nghệ mới mà bản thân công ty con
không thể đảm đương nổi Cùng với sự phân chia quyền lực thì sự hình thành các quy tắc,
điều lệ, hệ thống kiểm soát đặc biệt được coi trọng trong giai đoạn này. Nói chung, một
thể chế được xác lập trong tổ chức, các mối quan hệ trở thành chính thức hơn , các
chuyên viên về nhân sự và các thành viên khác được bổ sung (Ban kiểm soát). Người
lãnh đạo cao nhất lúc này chỉ tham gia vào chiến lược chung của tập đoàn, việc lập kế
hoạch và sự điều hành tập đoàn dành cho các cấp lãnh đạo bậc trung. Với những cơ chế
quản lý mới, hệ thống kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả đã làm cho tập đoàn ngày càng phát
triển và lớn mạnh. Cơ chế liên kết dữa lãnh đạo cấp cao và các bộ phận chuyên môn
mang tính thống nhất và chính thức.
1.3.4 Giai đoạn thích nghi
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 10
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Sự khủng hoảng của giai đoạn trên được giải quyết đồng thời với sự phát triển của
quản lý đến giai đoạn tinh vi và phù hợp với sự đa dạng của thị trường tại các khu vực
khác nhau. Cơ cấu tổ chức quản lý theo địa lý và theo kiểu ma trận ở giai đoạn trên cũng

thường được áp dụng Hệ thống quản lý chính quy lúc này có thể được đơn giản hoá hơn
và được thay thế bởi đội ngũ quản lý năng động và chuyên nghiệp. Để đạt tới sự hoạt
động tốt và thích nghi với môi trường các bộ phận thường được hình thành thông qua
chức năng của nhóm trong công ty. Quản lý theo nhóm tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong giai
đoạn thích nghi này. Các công ty con có thể bị chia ra nhiều bộ phận để duy trì đường lối
của công ty. Cơ cấu tổ chức quản lý hỗn hợp theo bộ phận hay theo sản phẩm hướng đến
khách hàng được sử dụng rộng rãi đem lại hiệu quả cao.
Một nét chính trong giai đoạn này là mối tương quan hay cơ chế giữa các bộ phận
không được xác định trước một cách chặt chẽ, thay vào đó các bộ phận có thể hợp tác
trao đổi thông tin, nhân sự hoặc có thể tuỳ ý phối hợp với tổ chức bên ngoài. Chức năng
được phân nhiệm hợp lý theo địa lý hoặc nguồn tài chính sử dụng. Một số công ty con sử
dụng nhiều dịch vụ từ tập đoàn qua các cơ quan tham mưu trung ương vì vậy cần có
nguồn thông tin nhanh hơn, tự do và dồi dào hơn. Các nhà kinh tế học coi giai đoạn phát
triển cực thịnh của đoàn trong giai đoạn này là sự chuẩn bị cho một quá trình mới, nhu
cầu cho sự tái sinh. Bởi vì, khi tổ chức đã đạt được sự chín muồi thì có thể sẽ bước vào
sự suy thoái tạm thời. Nhu cầu cảu sự đổi mới trong giai đoạn này trở nen dài hơn 10
năm hay 20 năm. Tổ chức có thể phát triển lệch ra sự kiểm soát, hoặc sẽ chuyển động
chậm chạp và bắt buộc phải trải qua thời kỳ cấu trúc lại nhằm hợp lý hoá sáng tạo hơn.
Mô hình đầu tư kiểu “kim tự tháp” và những khoản đầu tư chéo giữa những công ty con
trong tập đoàn đã tạo ra rủi ro cao hơn trong hệ thống, tức là sự thất bại của công ty thành
viên có thể dễ dàng làm sụp đổ toàn bộ tập đoàn.
1.3.5 Giai đoạn hội nhập trên phạm vi toàn cầu
Giai đoạn hội nhập của tập đoàn thể hiên thông qua việc liên minh, hợp nhất, sáp
nhập và mua lại doanh nghiệp. Các yếu tố công nghệ kỹ thuật và môi trường trong quy
mô bối cảnh có tác động lớn đến giai đoan này của tập đoàn .Sự phát triển nhanh chóng
của công nghệ thông tin làm xoá nhoà ranh rới địa lý giữa các quốc gia. áp lực cạnh tranh
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 11
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
tăng cao và sự biểu hiện rất tinh vi, khó thấy làm cho các công ty phải giảm chi phí nhằm
duy trì thế cân bằng tương đối dẫn đến các vụ đại sáp nhập. Làn sóng sáp nhập và mua lại

chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực dịch vụ.Các vụ sáp nhập khổng lồ sẽ làm tăng sự mất cân
bằng về quyền lực giữa khu vực nhà nước và tư nhân.Vì vậy, làn sóng sáp nhập và mua
lại doanh nghiệp có vẻ như là giải pháp tập trung tự vệ, phòng thủ, sau đó mới có khuynh
hướng phát triển để thống trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia là sự đối mặt về quản lý.
Các tập đoàn đã nỗ lực thiết kế và áp dụng những hệ thống thông tin toàn cầu nhằm củng
cố phát triển các ban tham mưu và thông tin giữa các tuyến được sử lý nhanh chóng.
Bước kế tiếp là thiết lập cơ sở dữ liệu “đa truyền thông”, các thông tin trong hệ thống này
được tập trung định hình và sử lý với nhiều phương án. Nguồn tư liệu quy ước kiểu
truyền thống tốt cho nhà quản lý khi biết rõ phải làm gì, còn tư liệu kiểu “đa truyền
thông” giúp cho nhà quản lý tìm tòi và sử lý những điêu không chắc chắn.
Đối với kiểu quản lý theo kiểu công nghệ thông tin trong hệ thống mạng có thể
nhận thấy mọi người đều bình đẳng.Vì vậy quan niệm cơ cấu tổ chức như là bộ máy, mọi
hoạt động đều có dự kiến có trật tự trong hệ thống sẽ được thay đổi theo quan điểm quản
lý mạng là cơ cấu tổ chức gắn với nhân sự hơn và cấu trúc thiết kế gần với cấu trúc sinh
học hơn.
Tóm lại, mỗi tổ chức đều phát triển qua các giai đoạn trong chu kỳ phát triển của
mình. Mỗi giai đoạn gắn liền với những đặc tính của cơ cấu tổ chức như cấu trúc, cơ chế
quản lý, hệ thống giám sát, chiến lược và đổi mới.
Chu kỳ sống của tổ chức rất khó phân biệt về ranh giới, nó như là một khái niệm
để hiểu các vấn đề mà tổ chức phải đối mặt và các nhà quản lý đã giải quyết chúng như
thế nào để tổ chức phát triển cao hơn.
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 12
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
CHƯƠNG 2
TẬP ĐOÀN KINH TẾ CHAEBOL HÀN QUỐC
2.1 Tập đoàn kinh tế Hàn Quốc
2.1.1 Khái niệm
Chaebol (hay Jaebol) là tên của các tổ hợp công nghiệp có quy mô lớn thuộc sở
hữu của gia đình hoặc nhóm gia đình ở Hàn Quốc. Đây là một hình thức khối kinh tế tư

nhân của Hàn Quốc.
Các Chaebol của Hàn Quốc thường mang hình thức của một công ty mẹ, và có
nhiều công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật tư và dịch vụ của công ty mẹ.
Chaebol cũng thường thuộc sở hữu và đặt dưới quyền quản lý của một gia đình. Do đó
hầu hết các Chủ tịch hiện tại của các Chaebol đã thành công là cha hoặc ông nội của họ.
2.2.2 Nguồn gốc
Sự hình thành các Chaebol bắt đầu từ sau thế chiến 2. Sau khi quân Nhật rút khỏi
năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc được sở hữu các tài sản của một số doanh
nghiệp Nhật Bản, một vài trong số này đã phát triển thành các Chaebol. Các Chaebol
được hình thành bao gồm nhiều công ty có mối quan hệ liên kết về tài chính, chiến lược
kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động, ví dụ như Samsung, Daewoo hay LG.
Sau cuộc binh biến năm 1961, Tổng thống Park Chung Hee quyết định cải tạo tình
trạng nghèo nàn của đất nước bằng một công cuộc công nghiệp hóa thần tốc thông qua
việc khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn có sẵn – các Chaebol. Chính phủ đưa
ra kế hoạch phát triển công nghiệp, Chaebol thực hiện các kế hoạch này. Để các Chaebol
yên tâm thực thi nhiệm vụ, chính phủ chủ động cho các Chaebol vay với lãi suất rất thấp
thông qua các ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng quốc doanh còn được lệnh phải bảo
lãnh nợ nước ngoài cho các Chaebol, để họ có thể vừa thoải mái tiếp cận nguồn tín dụng
trong nước, vừa “vô tư” đi vay nợ nước ngoài. Tổng thống Park cũng giảm thuế đánh vào
các Chaebol, đặc biệt là các công ty xây dựng, khi chính phủ bắt đầu xây dựng cơ sở hạ
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 13
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
tầng như đường cao tốc và cầu ở Hàn Quốc. Chính nhờ những chính sách ưu đãi này, các
Chaebol nhanh chóng phát triển thành các tập đoàn tầm cỡ thế giới.
Cuối thập niên 1980, Chaebol đã chế ngự lĩnh vực công nghiệp và đặc biệt nổi
tiếng về sản xuất, thương mại và các ngành công nghiệp nặng. Các Chaebol được cho đã
giúp nền kinh tế xứ kim chi thoát được cảnh thâm hụt mậu dịch, trở thành nước có thặng
dư mậu dịch lớn kể từ năm 1986. Bước sang thập niên 90 của thế kỉ 20, Hàn Quốc “lột
xác” từ một đất nước nghèo nàn bị chiến tranh tàn phá thành một trong những nước công
nghiệp mới lớn nhất thế giới, người dân được hưởng chất lượng cuộc sống tương đương

với các nước công nghiệp phát triển, tất cả đều được tin là công lao của các “người hùng”
Chaebol. Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 Chaebol Daewoo,
Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, tương đương 58% tổng giá trị xuất khẩu
của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường. Đến năm 2008, Ngân hàng
Hàn Quốc cho biết nhóm 30 Chaebol lớn nhất đang kiểm soát gần 40% nền kinh tế đất
nước. Riêng Samsung chiếm tới 1/5 xuất khẩu của nước này. Ba Chaebol lớn nhất (năm
2008) là Samsung (Ngôi sao), Hyundai (Hiện đại) và Daewoo (Vũ đài) được dân Hàn ưu
ái gọi là “tam trụ” – 3 rường cột – chống giữ nền kinh tế nước nhà.
2.2.3 Đặc trưng của Chaebol
Mặc dù kinh doanh theo những phương thức khác nhau, nhưng các Chaebol vẫn
có các đặc trưng chủ yếu sau:
- Các Công ty thành viên của Chaebol hoạt động kinh doanh chuyên ngành hoặc
đa ngành (chủ yếu là đa ngành)
- Mọi quyết định quan trọng của Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp cao nhất,
tức chủ tịch và mọi nhân viên bắt buộc phải tuân thủ. Tuy nhiên các quan chức ở các cấp
làm việc cũng góp phần quan trọng trong quá trình đi đến quyết định cuối cùng.
 Về cơ cấu nhân sự trong Chaebol
Phân cấp, phân tầng chặt chẽ, rõ rệt theo kiểu hình tháp. Kiểu tổ chức này nhằm
thúc đẩy, khuyến khích các thành viên trong Chaebol luôn phấn đấu đạt kết quả cao trong
vị trí của mình và phấn đấu đạt địa vị nhất định, song cũng có hạn chế của một thể chế
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 14
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
quản lý truyền thống kiểu “kim tự tháp”. Cơ cấu các Chaebol Hàn Quốc đều chịu sự chi
phối của gia đình sáng lập và hậu duệ. Mức độ chi phối tương đối chặt chẽ và chiếm vị trí
quan trọng trong tập đoàn.
 Về sở hữu
Các Chaebol duy trì theo chế độ sở hữu “huyết thống”, tức là thường do các cá
nhân sáng lập ra nó kiểm soát và tuân thủ theo truyền thống cha truyền con nối. Các
thành viên trong gia đình theo thứ tự (thường là con trai cả của gia đình thay cha nắm
quyền kiểm soát và quản lý tài sản để kế tục sự nghiệp của cha ông để lại). Theo "Uỷ ban

buôn bán công bằng Hàn Quốc" thì phần sở hữu của các gia đình trong 30 Chaebol lớn
nhất tăng từ 43,8% (năm 1995) lên 44,1% (năm 1996).
Cơ cấu sở hữu trong các Chaebol có thể chia làm 3 loại như sau:
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Các chi nhánh Công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu sở hữu trực tiếp (Mô hình của Tập đoàn Han Jin)
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Chi nhánh hay công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu Công ty cổ phần (Mô hình của Tập đoàn Daewoo)
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 15
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Các tổ chức trung gian
Chi nhánh hay công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu sở hữu hỗn hợp (Mô hình của Tập đoàn Samsung)
Nguồn: CLCSCN
 Về cơ cấu quyền lực trong chính quyền cũng như trong kinh doanh
Các TNC hoàn toàn nhất quán với các giáo lý của Khổng Tử và các giá trị truyền
thống Hàn Quốc. Vì vậy, mô hình này dường như chỉ thực hiện được trong một nền
chuyên chế độc tài. Tất cả mọi người dân và xã hội đã chấp nhận nó như một tập quán và
truyền thống kinh doanh.
 Về cơ chế điều hành
Trong mỗi Chaebol đều có một cơ quan điều hành riêng, cho dù tên gọi khác nhau,
các cơ quan này đều có chức năng giúp chủ tịch tập đoàn phối hợp hoạt động của các
công ty chi nhánh, điều hành nhân sự, tài chính, đầu tư nghiên cứu và triển khai. Bằng
các hoạt động cụ thể, các cơ quan điều hành góp phần nâng cao tính hiệu quả của tập
đoàn nói chung, các công ty chi nhánh nói riêng. Do quan hệ đẳng cấp, chủ tịch Chaebol
có vai trò chi phối các thành viên khác của hội đồng. Nhìn chung, chủ tịch Chaebol mang

tính độc đoán, gia trưởng, đó là đặc thù nổi bật nhất trong các tổ chức kinh doanh Hàn
Quốc.
Ngày nay, với sự phát triển sâu rộng của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, các
Chaebol thường vay nợ cao để mở rộng và phát triển kinh doanh. Thông thường vay từ
100 đến 200% số vốn tự có của họ để kinh doanh và nợ ngân hàng được Chaebol coi là
nguồn lực không thể thiểu. Chính vì vậy nền tảng tài chính của họ không được vững chắc
và nhiều Chaebol đã đi đến phá sản. Do vậy, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các Chaebol
phải cơ cấu tổ chức quản lý lại cho phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế đã thay đổi. Do
đó, hầu hết các chaebol đã tìm cách tăng mức độ nhất thể hoá theo chiều dọc, tức là quá
trình các Công ty lớn thâm nhập rộng rãi vào các ngành khác, mà những ngành này có
quan hệ với các ngành hiện đang kinh doanh của Công ty như những bước trung gian của
sản xuất và lưu thông để duy trì sự kiểm soát và giảm rủi ro.
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 16
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
2.2 Khuynh hướng đa dạng hóa của các Chaebol
2.2.1. Tính tất yếu phải đa dạng hóa
Đa dạng hóa là xu thế chung của các tập đoàn trên thế giới. Theo số liệu thống kê
cho thấy vào những năm 70 hai phần ba trong số 500 công ty hoạt động ở nước Mỹ đã
thực hiện đa dạng hóa ở mức độ cao. Ban đầu các công ty thường mở rộng hoạt động
theo vùng địa lý để tăng trưởng. Khi gặp phải giới hạn của nhu cầu của thị trường về
không gian các công ty chuyển sang thực hiện đầu tư phát triển theo chiều sâu nhằm nâng
cao khả năng sinh lời và sức cạnh tranh thông qua cải tiến công nghệ, giảm chi phí sản
xuất và cuối cùng là các công ty mở rộng danh mục sản phẩm của mình để đưa ra thị
trường. Các tập đoàn kinh tế đa dạng hóa với mức độ tăng trưởng cao đã góp phần quan
trọng trong việc phát triển kinh tế của một số nước và Hàn Quốc cũng không phải là
ngoại lệ. Các Chaebol Hàn Quốc thực hiện chiến lược đa dạng hóa nhanh chóng lớn
mạnh và trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc trong vài thập
kỷ qua.
2.2.2. Đặc trưng trong đa dạng hóa của các Chaebol Hàn Quốc
Sự phát triển theo khuynh hướng đa dạng hóa của Chaebol được bắt đầu từ những

năm 50 khi các Chaebol thu nhận về tay mình các công ty thuộc sở hữu Nhà nước và mua
lại các công ty tư nhân hoạt động yếu kém. Cho đến nay vì nhiều nguyên nhân khác nhau
các Chaebol vẫn tiếp tục đa dạng hóa và đa dạng hóa đã trở thành một trong những đặc
trưng không thể thiếu khi nhắc đến các Chaebol Hàn Quốc. Khuynh hướng này thể hiện
qua một số đặc trưng chủ yếu sau:
Một là: Các Chaebol đa dạng hóa với tốc độ nhanh
Tốc độ đa dạng hóa nhanh của các Chaebol thể hiện qua 2 tiêu chí: số lượng gia
tăng nhanh chóng số chi nhánh và công ty thành viên, số lĩnh vực mà các Chaebol tham
gia hoạt động. Thập kỷ 70 đánh dấu sự phát triển với tốc độ cao của các Chaebol. Trong
số 191 công ty thuộc 10 Chaebol dẫn đầu (bảng xếp hạng năm 1984) thì có tới 60% được
hình thành trong thời kỳ này. Số lượng các công ty của 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc
đã tăng 30% trong thời kỳ 1993 – 1997. Nếu so với năm 1987 thì số lượng công ty thành
viên của 30 Chaebol hàng đầu đã tăng gần gấp rưỡi. Ví dụ điển hình là Hyundai. Đầu
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 17
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
những năm 70 Hyundai chỉ có 4 công ty mới được tách ra từ công ty đóng tàu thì cuối
những năm 70 Huyndai đã tấn công vào các lĩnh vực khác như cơ khí, phụ tùng ôtô, xây
dựng, lọc dầu và nâng số công ty thành viên của mình lên 20 công ty. Trong mỗi lĩnh vực
Hyundai lại có nhiều công ty con, như trong lĩnh vực xây dựng và đồ gỗ Hyundai có tới 6
công ty con: Hyundai Cement. Co. Ltd; Dongsu Industrial. Co. Ltd; Hyundai Wood
Industry. Co. Ltd; Keumkay Development Industrial Co.Ltd; Keumkay Co.Ltd; Korea
Chemical Co. Ltd. Về lĩnh vực nếu lúc đầu Huyndai hoạt động trong lĩnh vực đóng tàu
thì đến năm 1993 Hyundai đã tham gia trên 30 lĩnh vực khác nhau. Hiện nay Hyundai là
Chaebol có số thành viên nhiều thứ ba ở Hàn Quốc (chỉ sau Samsung và SK).
Hai là: Các Chaebol đa dạng hóa với mức độ cao
Theo số liệu thống cho thấy tốc độ đa dạng hóa trung bình của các công ty thuộc
20 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc lớn gấp 10 lần so với tốc độ đa dạng hóa các công ty
không thuộc Chaebol. Chaebol có quy mô lớn thì tốc độ đa dạng hóa càng cao. Số lượng
công ty thành viên của 30 Chaebol lớn nhất ở Hàn Quốc trung bình là 27,5 công ty, đáng
chú ý nhất có Samsung (80), Hyundai (57), LG (49), SK (46). Về mức độ đa dạng hóa

trung bình của 20 Chaebol hàng đầu là 15,5 (tính theo số ngành mà các công ty tham gia
kinh doanh), chỉ số này cao hơn nhiều so với mức trung bình các công ty của các nước
trên thế giới.
Ba là: Sự đan xen giữa đa dạng hóa liên hệ và đa dạng hóa không liên hệ
Đa dạng hóa liên hệ là cần thiết cho sự tăng trưởng liên tục của các Chaebol khi
các Chaebol lựa chọn tham gia những ngành công nghiệp nặng và hóa chất - là những
ngành mang lại lợi ích lớn do được hưởng ưu đãi của Chính phủ. Đa dạng hóa không liên
hệ được thực hiện chủ yếu thông qua đầu tư lẫn nhau giữa các Chaebol trong ngắn hạn.
Nó cho phép các Chaebol trong thời gian ngắn có thể huy động được các nguồn lực theo
yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ vào nguồn lực của các Chaebol khác và
một Chaebol có thể đầu tư với quy mô lớn vào những ngành kỹ thuật mới nhờ chia sẻ rủi
ro với các Chaebol khác.
2.2.3 Nguyên nhân đa dạng hóa
Một là: Chính sách kinh tế của Chính phủ trong sự nghiệp công nghiệp hóa
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 18
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Các Chaebol được hưởng lợi chủ yếu từ chính sách công nghiệp hóa của Chính
phủ Park Chung Hee. Chính sách này được chia ra làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1962 – 1972 Chính phủ đẩy mạnh cải cách và xây dựng thể chế nhằm
đẩy mạnh công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
Giai đoạn 1973-1979 Chính phủ tập trung vào các ngành trọng điểm là công
nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Chính phủ dành ưu đãi cho các công ty tham gia
vào hai lĩnh vực này như: ưu đãi về thuế, tài chính và một số quyền lợi khác. Cho nên
trong điều kiện đó sự lựa chọn hợp lý nhất cho các Chaebol là tham gia vào những ngành
có sự điều tiết của Chính phủ. Bởi vì đầu tư vào những ngành này sự tồn tại của công ty
sẽ được đảm bảo, sẽ được vay vốn với lãi suất thấp ở ngân hàng và khi công ty không có
khả năng thanh toán thì Chính phủ sẽ can thiệp để cho công ty tiếp tục hoạt động. Đến
cuối những năm 70, 9 trong số 10 Chaebol lớn nhất đã đầu tư vào công nghiệp nặng.
Samsung vốn nổi tiếng với những sản phẩm công nghiệp nhẹ như dệt và thực phẩm (tổng
vốn đầu tư chiếm tới hơn 66% tổng giá trị tài sản) thì đến những năm 70 cũng đẩu tư vào

công nghiệp nặng. Năm 1983 đầu tư vào ngành này của Samsung chiếm tới hơn 33%
trong khi đầu tư vào công nghiệp nhẹ chỉ còn 17%.
Thái độ coi trọng và ưu tiên dành cho các công ty của Chính phủ làm cho các
Chaebol chú ý đến việc mở rộng quy mô hơn là gia tăng lợi nhuận. Vì khi mở một công
ty mới thì các Chaebol lại được vay tiền từ các ngân hàng của Chính phủ, khi vay được
vốn mà thành lập công ty khác thì lại được vay vốn tiếp. Do đó các Chaebol liên tiếp
thành lập các công ty mới để được vay nhiều vốn từ các ngân hàng của Chính phủ và
nước ngoài.
Bên cạnh đó, Chính phủ không cho phép các Chaebol thực hiện phá sản đối với
các công ty thành viên hoạt động kinh doanh không hiệu quả do lo ngại những hậu quả về
chính trị và xã hội khi tình trạng thất nghiệp gia tăng. Chính sách này cùng các biện pháp
hỗ trợ giúp các công ty tiếp tục duy trì và mở rộng hoạt động. Bởi vậy mà quy mô và lĩnh
vực hoạt động của Chaebol ngày một gia tăng.
Cuối cùng là Chính phủ giảm thiểu rủi ro cho các Chaebol bằng cách thủ tiêu cạnh
tranh trong thị trường nội địa. Các công ty thuộc Chaebol được vay vốn với lãi suất thấp
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 19
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
hơn nhiều so với các công ty không thuộc Chaebol. Ví dụ: năm 1970 mức lãi suất cho các
Chaebol chỉ có 7,2% trong khi mức lãi suất trên thị trường là 35,2%. Chính phủ cũng
thực hiện bảo vệ sản phẩm của Chaebol bằng cách kiểm soát hàng nhập khẩu. Do vậy
Chaebol độc quyền, tích lũy được nguồn vốn lớn tạo điều kiện tham gia vào những ngành
không phải trọng điểm.
Hai là: Tình trạng kém phát triển của yếu tố đầu vào và mức chi phí giao dịch thấp
Williamson đưa ra nhận định rằng mức độ phát triển của thị trường yếu tố đầu vào
và chi phí giao dịch có ảnh hưởng quyết định đến khả năng thực hiện và mức độ đa dạng
hóa của sản phẩm của các công ty. Nếu các yếu tố nguồn lực cần thiết cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hoạt động thông suốt thông qua thị trường thì doanh nghiệp khi chuyển
đổi sang hoạt động kinh doanh sẽ phải gánh chịu chi phí giao dịch lớn và ngược lại. Ở
Hàn Quốc trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường vốn và thị trường lao động
chưa hình thành. Sự thiếu vắng của thị trường yếu tố đầu vào cùng với mức chi phí giao

dịch thấp là nhân tố khuyến khích các Chaebol thực hiện đa dạng hóa.
Ba là: Xuất phát từ việc các Chaebol mong muốn có sức mạnh để cải thiện quan
hệ với Chính phủ và tự bảo vệ mình
Nếu Chaebol không tuân thủ các kế hoạch của Chính phủ thì chính phủ sẽ cắt
nguồn tài chính và khi đó sớm hay muộn Chaebol cũng phải đối mặt với rủi ro tài chính
của việc mất khả năng thanh toán. Chính phủ can thiệp vào kinh doanh của Chaebol,
Chaebol dễ bị tổn thương trước những thay đổi về thể chế chính trị. Do đó đa dạng hóa lá
cách để Chaebol tăng khả năng tự chủ của mình. Các lĩnh vực mà Chaebol thực hiện đa
dạng hóa có tài chính phi ngân hàng, xây dựng, thương mại. Năm 1980, 10 Chaebol lớn
nhất đã đầu tư vào lĩnh vực tài chính phi ngân hàng (như bảo hiểm) và 8 Chaebol đầu tư
vào lĩnh vực thương mại. Hiện nay 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc đã sở hữu 30 trong số
35 công ty bảo hiểm và 13 trong số 38 ngân hàng thương mại.
Bốn là: Đặc điểm của hệ thống quản lý
Quyền lực trong các Chaebol tập trung trong tay một số người nhưng lại không
được pháp luật bảo vệ. Do vậy để mở rộng phạm vi quyền lực của mình đồng thời giảm
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 20
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
thiểu rủi ro nghề nghiệp, tìm kiếm cơ hộ thăng tiến trong hệ thống cấp bậc quản lý, các
nhà quản lý thường sử dụng đa dạng hóa như một giải pháp an toàn và hữu hiệu nhất.
Năm là: Tính chất biến động của của môi trường kinh doanh
Trong điều kiện môi trường kinh tế có nhiều biến động phức tạp, đa dạng hóa
chính là giải pháp tối ưu của các Chaebol để giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng cạnh
tranh.
2.3 Vai trò của Chaebol với nền kinh tế Hàn Quốc
Một là: Đầu tàu kinh tế của Hàn Quốc
Vai trò này của các Chaebol bắt đầu từ những năm 60 (khi tổng thống Park Chung
Hee nắm quyền) xuyên suốt cho đến nay. Để các Chaebol thực hiện vai trò của mình,
chính phủ Hàn Quốc lên kế hoạch phát triển kinh tế - vốn đã bị tàn phá nặng nề sau chiến
tranh, cùng với đó chính phủ cũng giao cho Chaebol những ưu đãi đặc biệt. Trên thực tế
Chaebol đã rất thành công với mục tiêu này.

Từ khi được hình thành cho đến trong suốt những năm 70 Chaebol đã thực sự trở
thành trụ cột kinh tế của Hàn Quốc. Chaebol đã sản xuất kinh doanh thương mại và dịch
vụ, thu hút chuyển giao công nghệ,… Các Chaebol trong thời kì này đã đóng góp rất lớn
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế với tỷ lệ hàng năm trung bình 20
- 30% GDP và tỷ lệ xuất khẩu chiếm khoảng 40%, đồng thời đã tạo ra nền công nghệ
hiện đại cho nền sản xuất Hàn Quốc. Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu
của 4 Chaebol hàng đầu là Daewoo, Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, chiếm
58% tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường.
Đóng góp lớn nhất cho nền kinh tế Hàn Quốc phải kể đến 3 tập đoàn - thường
được mệnh danh là những “đại gia” của Hàn Quốc: Samsung (Ngôi sao), Hyundai (Hiện
đại) và Daewoo (Đại vũ). Họ là những đại gia xuyên suốt thế kỉ 20 và 21. Bên cạnh đó
cũng tồn tại những tập đoàn khác như: LG, Ssangyong,…cũng được coi là hệ xương sống
của nền kinh tế Hàn Quốc.
Samsung từ lâu rồi được xem là hiện tượng, là đặc trưng điển hình của sự năng
động, sáng tạo trong nền kinh tế của xứ Hàn. Daewoo là "vua" của nhiều kiểu ô-tô các
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 21
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
loại, còn Hyundai là "anh cả đỏ" của kỹ nghệ đóng tàu thủy và các thiết bị quan trọng của
công nghiệp quốc phòng.
Chaebol cũng chính là nhân tố quan trọng nhất kéo Hàn Quốc ra khỏi cuộc khủng
hoảng tài chính. Ba tập đoàn đi đầu trong thời kỳ này là: Samsung Electronics, Huyndai
Motor và LG Electronics. Trong khi các đối thủ cạnh tranh bị cản bước bởi những cơn
khủng hoảng thì dường như ba tập đoàn này bị ảnh hưởng không mấy đáng kể. Bằng
chứng gần đây nhất về chiến lược kinh doanh của các tập đoàn này là vào 19 tháng 9
2008, Hyundai thông báo mở thêm một nhà máy ô tô 600 triệu đô la mới ở Brasil. Số vốn
của tập đoàn Hyundai Motor bao gồm cả công ty con Kia Motor, là 3,9 triệu USD vào
năm ngoái, đồng thời Hyundai cũng đang mong đợi một bước phát triến mới vào hai năm
tiếp theo. "Nhà máy ở Brasil là sự quyết tâm của chủ tịch tập đoàn Chung Mong Koo để
đạt mục tiêu tăng số vốn sản xuất lên tới 6 triệu USD vào năm 2010," người phát ngôn
Jake Jang của Hyundai nói . Năm 2010, Huyndai lần đầu tiên lọt vào top 5 thương hiệu

được khách mua xe cân nhắc nhiều nhất theo kết quả khảo sát của Kelley Blue Book cho
6 tháng cuối năm 2010.
Sau thông báo của Hyundai hai ngày là công bố của Samsung về việc chào mua
hãng sản xuất thẻ nhớ SanDisk của Mỹ với giá là 5,85 tỉ USD. Về phần mình, LG đã
nhiều lần nhấn mạnh là đến năm 2010 sẽ đạt mục tiêu trở thành một trong ba nhà phân
phối thị trường có ảnh hưởng nhất ở một số sản phẩm như ti vi, điện thoại di động và
những trang thiết bị tại nhà như tủ lạnh và máy điều hòa không khí. Những nhà quản lý
của bộ ba tập đoàn này cho biết tất nhiên là họ biết được tình hình kinh tế đang có dấu
hiệu đi xuống nhưng đó cũng chính là cơ hội cho họ phát triển nền sản xuất công nghiệp
của mình.
Danh sách 10 Chaebol có tổng thu nhập lớn nhất:
1. Samsung 153,2 tỷ USD (2006)
2. LG Group 94,8 tỷ USD (2007)
3. SK Corporation 75,9 tỷ USD (2006)
4. Hyundai Group 57,2 tỷ USD
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 22
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
5. Hanjin 16,2 tỷ USD
6. Hyundai Heavy Industry 10,5 tỷ USD
7. Lotte 6,3 tỷ USD
8. Doosan 4,5 tỷ USD
9. Hanhwa 4,4 tỷ USD
10.Kumho Asiana Group 2,8 tỷ USD
(Nguồn : en.wikipedia.org)
Hai là: Nâng cao vị thế của nền kinh tế Hàn Quốc trên thị trường thế giới
Đi đầu trên con đường chinh phục thị trường thế giới phải kể đến Chaebol
Samsung. Tập đoàn này có ba lĩnh vực kinh doanh quan trọng để tạo nên thê chân vạc
vững chắc là: lĩnh vực điện tử ( Samsung Electronics), công nghiệp nặng (Samsung
Heavy Industries) và kỹ thuật xây dựng (Samsung Engineering & Construction). Trong
đó Samsung Electronics, thành lập năm 1969, là một bộ phận lớn nhất của tập đoàn

Samsung, và hiện nay được coi là một trong những công ty điện tử lớn nhất thế giới.
Theo bảng xếp hạng 500 thương hiệu mạnh nhất toàn cầu mới nhất của Fortune, năm
2007, trong số các công ty điện – điện tử, Samsung có mức doanh thu đứng thứ hai thế
giới với 106 tỉ USD nhưng lợi nhuận lại đạt mức cao nhất thế giới với gần 8 tỉ USD. Thế
nhưng, ít người biết rằng cho đến đầu những năm 90, Samsung chỉ là một công ty châu Á
chưa có tên tuổi, sản phẩm vẫn nằm ở những chỗ khuất của các cửa hàng và ít được chú ý
bởi thiết kế hầu như lặp lại và công nghệ thua xa các đối thủ sừng sỏ đến từ Nhật Bản.
Bằng những thay đổi hợp lý trong quản lý và tiếp thị, Samsung đã bứt phá ngoạn mục khi
dần vươn lên trở thành một trong những thương hiệu hàng đầu thế giới kể từ năm 1997,
thời điểm mà các nước trong khu vực như Philippines, Hong Kong, Indonesia,
Malaysia, nói chung và Hàn Quốc nói riêng đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng
hoảng tiền tệ, dẫn đến phải thu nhỏ quy mô.
Đến năm 2005, theo báo cáo của Interbrand, Samsung đã trở thành thương hiệu
hàng điện tử tiêu dùng hàng đầu và được biết đến nhiều nhất trên toàn cầu, thay thế vị trí
mà trước đó do Sony nắm giữ nhiều năm liền. Năm 2006, tạp chí Business Week xếp
Samsung hạng 20 trong 100 thương hiệu hàng đầu thế giới và hạng nhì trong ngành công
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 23
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
nghiệp điện tử. Trong danh sách 100 công ty sáng tạo nhất cũng do Business Week đưa
ra, Samsung xếp hạng 20. Năm 2007, điện thoại di động Samsung lại tiếp tục qua mặt
công ty điện thoại di động hàng đầu của Mỹ là Motorola để trở thành hãng sản xuất điện
thoại di động thứ nhì trên thế giới. Cuối năm 2007, lần đầu tiên, doanh số năm của
Samsung vượt qua con số 100 tỉ USD. Trước đó chỉ có hai công ty đồ dùng điện và điện
tử vượt qua được ngưỡng 100 tỉ USD, là Siemens của Đức và Hewlett - Packard của Mỹ.
Thành tích này được coi là điều khó tin được với một công ty vừa mới thành lập năm
1969 (Siemens lập năm 1847, Hewlett-Packard năm 1939). Theo số liệu của International
Data công bố ngày 27/1/2013, trong năm 2012, Samsung Elictroincs đã bán được 407
triệu chiếc điện thoại di động, tăng 22,7% so với năm 2011. Samsung Elictroincs đã “qua
mặt” đối thủ cạnh tranh Nokia của Phần Lan để trở thành hãng tiêu thụ điện thoại di động
lớn nhất thế giới trong năm 2012.

Samsung cũng trở thành một trong những công ty có giá trị thương hiệu tăng
nhanh nhất thế giới. Năm 2000, thương hiệu Samsung được Interbrand định giá là 5,2 tỉ
USD, xếp hạng 43 trên thế giới. Sau khi chi 508 triệu USD cho quảng cáo trong năm
2000, thương hiệu Samsung được nâng lên hạng 42, trị giá 6,3 tỉ USD trong năm 2001,
Như vậy, đầu tư cho quảng cáo, tiếp thị đã thu lợi được gấp đôi. Năm 2006, thương hiệu
Samsung có giá trị hơn 16 tỉ USD, xếp hạng 20 trên thế giới trong khi chi phí dành cho
marketing là hơn 1 tỉ USD. Năm 2012, Samsung xếp hạng thứ 9 trong những thương hiệu
đáng giá trên thế giới với trị giá thướng hiệu 32,9 tỷ USD.
Bảng 2.4 Giá trị thương hiệu Samsung (giai đoạn 2001-2012)
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 24
Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế - So sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam
Nguồn:Business Week - InterBrand
Samsung là xương sống chính của nền kinh tế Hàn Quốc bên cạnh các công ty như
Hyundai, Daewoo, SK Telecom, Kia… Theo nhật báo Wall Street Journal, tại Hàn Quốc,
Samsung là tập đoàn kinh tế lớn nhất, đóng góp 15% kinh tế quốc gia và 20% xuất khẩu
của cả nước. Tuy nhiên, từ lâu, Samsung đã vượt ra biên giới Hàn Quốc, trở thành tập
đoàn đa quốc gia và đã có mặt ở 61 nước.
Ba là: Phát huy tốt những lợi thế của doanh nghiệp gia đình
Sự tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp Hàn Quốc đóng một
vai trò quan trọng trong việc "mài sắc" ưu thế cạnh tranh so với các công ty khác trên thế
giới. Ông Kim Joo Hoon, cố vấn Bộ trưởng tài chính Kang Man Soo cho rằng mặc dù số
lượng hàng xuất khẩu tăng trong năm gần đây nhưng vẫn còn tồn tại các doanh nghiệp
kinh doanh nhỏ bị ngưng trệ sản xuất. "Những nhà xuất khẩu lớn lấy những sản phẩm có
chất lượng tốt từ những nhà cung cấp địa phương với chi phí thấp so với nguồn hàng lấy
từ Nhật hoặc Tây Âu". Ông Kim nói "điều này sẽ giúp đỡ những nhà xuất khẩu cạnh
tranh được trong tương lai".
Có lẽ nhân tố quan trọng nhất cho phép các tập đoàn tiến hành mở rộng kinh
doanh một cách mạnh mẽ là hệ thống quản lý của họ. Người phân tích của tập đoàn này
Nhóm 15 – Lớp K10401 Trang 25

×