Tải bản đầy đủ (.pptx) (22 trang)

cộng đồng chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.47 KB, 22 trang )

CỘNG ĐỒNG CHÍNH SÁCH
Trình bày: Đoàn Tuấn Nghĩa
Lớp: Cao học Quản lý Môi trường
1. ĐỊNH NGHĨA
Thuật ngữ “cộng đồng chính sách” thường xuyên được sử
dụng để miêu tả mối quan hệ phức tạp trong quá trình làm
luật, tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh luận và nhập nhằng trong
việc định nghĩa khái niệm “cộng đồng chính sách”.
Có 2 nỗ lực được công nhận:
Thứ nhất là việc sử dựng những khái niệm liên quan (e.g.
issue networks) làm nền móng để giải thích ý nghĩa cũa
thuật ngữ “cộng đồng chính sách”.
Thứ hai là làm sáng tỏ những đặc điểm của thuật ngữ
“cộng đồng chính sách” như là thành viên, mức độ thống
nhất, các mối quan hệ đối lập và hợp tác, etc. (ví dụ như
Rhodes, 1997; Klijn, 1996).
Wilks và Wright (1987) đề ra một mô hình gồm 3 thành
phần:
Policy communityPolicy universe Policy network
Là một tập hợp
lớn các “actors”
và “potential
actors” có cùng
một mục đích
chung trong chính
sách công nghiệp,
và có thể góp
phần vào quá
trình thành lập
chính sách
Biểu thị một hệ


thống không
thống nhất bao
gồm “actors” và
“potential actors”
chia sẻ lợi ích
trong một ngành
cụ thể và tương
tác với nhau trên
cơ sở cùng có lợi.
Trở thành đầu nối
giữa các “policy
communities”.
Rhode (1997) đối chiếu “policy communities” với
“issue networks” theo bốn đặc điểm: thành phần tham dự,
sự thống nhất, tiềm lực và quyền hạn.
So với “issue networks”, số lượng người tham dự của
“policy communities” rất hạn chế và một số nhóm bị loại
ra một cách cố ý. Do đó, Atkinson và Coleman (1992)
hướng sự chú ý đến sự đối xử phân biệt trong “policy
communities”, trái ngược với “issue networks” nơi ai cũng
có thể là thành viên
Thuật ngữ cũng chỉ ra 1 số đặc điểm khác. Từ “community” ẩn dụ
con người, sự tương tác chặt chẽ và sự ràng buộc khăng khít (Atkinson
và Coleman, 1992). Stone et al. (2001) định nghĩa “policy
communities” như là những hệ thống vững chắc với những người hoạt
đông chính trị thuộc chính phủ và phi chính phủ. “Policy communities”
được dựa trên sự hiểu biết chung về vấn đề của một lĩnh vực chính
sách cụ thể. “Community” phản ánh sự quan trọng của mối quan hệ
gần gũi và mạnh mẽ giữa các thành viên. Mối quan hệ khăng khít này
được xậy dựng trên những nguyên tắc thống nhất bởi tất cả các thành

viên nhằm ngăn ngừa mâu thuẫn từ việc làm sai chức năng hoặc thiếu
quản lý. Theo nguyên lý trao đổi, bao gồm phân tích “transaction-cost”
(e.g. Hindmoor, 1998) cho rằng tất cả các thành viên đều có
“resources” và mối quan hệ cơ bản dựa trên việc trao đổi “resources”.
Mỗi thành viên đều có “resources” riêng mà các thành viên khác phụ
thuộc vào đó. Mặc dù có sự cân bằng giữa các thành viên, luôn có một
nhóm nổi trội hơn.
Một cộng đồng chính sách có thể bao gồm nhà báo,
và nhà phân tích chính sách, cũng như các nhà hoạt động
chính sách có tầm ảnh hưởng lớn và các quan chức.
Niềm tin và tôn trọng lẫn nhau là đặc điểm mối quan
hệ trong “policy communities” và những mâu thuẫn
được giải quyết với sự đồng lòng (Jordan và Maloney,
1997). “Điểm quan trọng là policy communities cung
cấp cơ chế có tổ chức để giải quyết những mâu thuẫn về
lợi ích giữa những thành viên” (574). Do đó, policy
communities gắn liền với tính ổn định và chính trị thông
thường. Do tính thực tiễn cao và tính bền vững của
những quy tắc, policy community là nhắc đến nhiều nhất
trong số những khái niệm của policy network (Klijn,
1997).
“Policy community” khởi đầu bằng những cam kết
cho việc thay đổi trong tương lai, và nhiều ý tưởng mới
được phát triển, tuy nhiên các vấn đề và cách giải quyết
của “policy community” trở nên kém hấp dẫn. Đặc biệt
khi bị đe dọa từ bên ngoài, các thành viên càng tập trung
vào việc bảo vệ những gì họ đã đạt được và “policy
community” cuối cùng trở thành “cozy triangle”. Thắc
mắc quanh những ảnh hưởng đến tổ chức và cấu tạo của
policy communities được giải đáp bằng thuyết trao đổi.

2. LÝ THUYẾT NHẬP MÔN
Khi đưa ra các thông báo, gia tăng vai trò c a v n đ ng ủ ậ ộ
hành lang và các nhóm l i ích đ c bi t trong các quá trình ợ ặ ệ
c a chính ph , s nghi ng đã chuy n sang quan h đôi khi ủ ủ ự ờ ể ệ
không chính th c gi a ứ ữ việc thuê những người v n đ ng hành ậ ộ
lang đ i di n cho các nhóm l i ích đ c bi t tìm ki m l i ạ ệ ợ ặ ệ ế ợ
nhu n, các quan ch c dân c và nhân viên c a h tìm ki m ậ ứ ử ủ ọ ế
tái b u c , và các quan ch c chính ph t các c quan đ c ầ ử ứ ủ ừ ơ ặ
bi t là tìm ki m ngân sách l n h n. ệ ế ớ ơ
Trong mô hình dân chủ đại diện chính thức các cử tri-những người
được cho là đã có sự lựa chọn chính sách rõ ràng và sẵn sàng để thực
hiện quyền lực của họ thông qua sự tham gia trong cuộc bầu cử lựa
chọn trong số các ứng cử viên chính trị đang chạy đua cho các vị trí lập
pháp
C ng đ ng chính sách có th ộ ồ ể chia nhỏ thô ng qua các gi ả
đ nh hoành tráng v i gi đ nh ch quy nị ớ ả ị ủ ề
C ng đ ng chính sách này có th là m t di n đàn cho t p ộ ồ ể ộ ễ ậ
h p nh ng ng i ợ ữ ườ thạo việc c a các v n đ chính sách đ i ủ ấ ề ổ
m i trong m t lĩnh v c t ng đ i ớ ộ ự ươ ố không có cạnh tranh.
Vấn đề của cộng đồng chính sách chính là sự chiếm hữu về chình
trị - lấy đi chủ quyền của người dân. Lowi (1969) đã phát tri n ể
m t c s lý thuy t cho nh ng l i ch trích nh v y trong ộ ơ ở ế ữ ờ ỉ ư ậ
The End of Liberalism. Ông phê bình nhóm l i ích ch nghĩa t ợ ủ ự
do, mà ông xem nh là m t s n ph m c a h t t ng đa ư ộ ả ẩ ủ ệ ư ưở
nguyên. Theo Lowi, ý t ng nhóm l i ích đa nguyên và th c ưở ợ ự
ti n c a chính ph ễ ủ ủ thì gây ra nhiều h u qu nh h ng sâu ậ ả ả ưở
r ng đ i v i lý thuy t dân ch . ộ ố ớ ế ủ
Khái ni m tam giác s t là ệ ắ việc đ n gi n hóa s ngân ngai ơ ả ự ̀ ̣
của Lowi. Nó làm gi m ho ch đ nh chính sách ả ạ ị của quá trì nh
th ng l ng gi a các thành viên qu c h i, quan liêu công, ươ ượ ữ ố ộ

và các nhóm l i ích ho t đ ng m t cách khép kín và t tr . ợ ạ ộ ộ ự ị
Tuy nhiên, quá trình ho ch đ nh chính sách th c t ph c ạ ị ự ế ứ
t p h n. ạ ơ
Tiêu chuẩn về quyền lực và sự kiểm soát không phù
hợp với vai trò bao quát đang nổi lên trong quản lý chính
trị
Vi c tham gia không nh t thi t ph i d a trên ệ ấ ế ả ự
l i ích kinh t nh h p, và ranh gi i c a các ợ ế ỏ ẹ ớ ủ
m ng này không ph i ạ ả là khép kín ho c đ c xác ặ ượ
đ nh rõ m c đó là không th ti p c n. Các s ị ụ ể ế ậ ự
m p m c a nh ng ranh gi i này ậ ờ ủ ữ ớ ngoài việc gây ra
sự khó khăn cho m t b ộ ộ phận được phân tích bởi các
nhà nghiên c u chính sách, mà ứ nó còn m ra các ở
nh h ng dân ch .ả ưở ủ
3. PHÊ PHÁN
Nghiên cứu về “policy communities” đưa ra những đánh giá lại cách
phân tích truyền thống vì những nghiên cứu trên vấp phải nhiều sai
phạm.
Khái niệm về network và community bị áp dụng sai khi bỏ qua các
tổ chức lớn của chính phủ trong việc phân tích quá trình chính sách
Nếu cho rằng có những khu vực (lĩnh vực) được lấp đầy bởi policy
communities, câu hỏi đặt ra là phương thức nên đưa ra sử dụng? Đâu là
đơn vị phân tích phù hợp?
Phân tích vi mô của các actors và các m i quan h (nh ố ệ ư
Dowding (2001) khuy n cáo) nguy c b qua n i dung th c ế ơ ỏ ộ ự
ch t c a tác đ ng chính ấ ủ ộ trị lên c ng đ ng chính sách. S t p ộ ồ ự ậ
trung vào ch đ ho t đ ng và đ nh m c trong c ng đ ng ế ộ ạ ộ ị ứ ộ ồ
chính sách mang m t nguy c t ng t .ộ ơ ươ ự
Policy communities diễn ra trong khu vực chính trị đánh
dấu bởi các loại hình khác nhau và nhiều mâu thuẫn. Những

khu vực chính trị này thường không nhất thiết biểu thị lợi ích
kinh tế. Hầu như đó là những lĩnh vực mà những xung đột
chính trị tự bộc lộ hoặc bị lấp đi. Điều này có nghĩa những
thành viên của network cho là việc làm trước các hoạt động và
các tương tác giữa các thành viên là không cần thiết; các mối
tương tác sẽ nảy ra từ các tình huống. Quyết định, hành động,
mâu thuẫn nhóm, và thay đổi chính sách xảy ra như là hệ quả
của sự tương tác. Trong quá trình tương tác, các thành viên
trong policy community tham gia vào quá trình xây dựng ý
nghĩa, và từ đó củng cố tầm quan trọng của vấn đề trên nhận
thức của các thành viên khác.
Cũng có trường hợp thành viên rời bỏ “game” khi các sự
kiện và vấn đề mất đi sự nổi bật và tầm quan trọng.
4. CÁC DẠNG CỦA XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ
Distributive
Distributive field
“Tất cả thành viên cùng chia sẻ những giá trị cơ bản và chấp nhận
tính chính đáng của hệ quả” (Whodes, 1997, 44).
Cộng đồng chính sách thường xuất hiện ở những ngành chính của
chính phủ như nông nghiệp, năng lượng hay giao thông.
Trong phạm vi này, các “actor” (nhân vật) tìm kiếm đặc ân và tài
trợ của chính phủ. Cá nhân và các nhà hoạt động hành lang thuyết
phục chính phủ thông qua các đặc ân như tài trợ chi phí, hợp đồng thu
mua, hợp đồng xây dựng, chi trả cho dịch vụ và những dịch vụ khác
(Ripley và Frankin, 1982:90).
Ngay cả khi bị hạn chế bởi cộng đồng chính sách, lý do căn bản để
đặt distributive policy (chính sách phân phối) vào mục đích chung
thường được tìm thấy trong quá hình thành chính sách.
Chính sách phân phối bao gồm chi phí của chính phủ và trợ cấp
cho các tổ chức gắn liền với cộng đồng chính sách. Và cũng lưu ý

rằng, nếu một cộng đồng chính sách có quyền lực không ủng hộ về
mặt chính trị cho chương trình thì chương trình sẽ không tồn tại.
Regulatory field
Những vấn đề được cho là thuộc về chính sách quản lý
như thuế quan, sát lập chỉ số, cấp giấy phép đem đến lợi
ích cho cộng đồng chính sách nhất định.
Tuy nhiên, diễn giải của Lowi (1964) cho thấy chính
sách về thuế quan không còn là phạm vi riêng của cộng
đồng chính sách bởi vì các nhóm khác nhau (nạn nhân của
việc áp dụng thuế quan bởi các nước khác lên những sản
phẩm không kiên quan) sẽ tái thiết lại cộng đồng chính
sách để phản đối các chính sách.
TRAGEDY OF THE COMMONS
Trong môi tr ng này, không c n thi t ph i ườ ầ ế ả
có m t c ng đ ng chính sách c nh tranh. Tuy ộ ộ ồ ạ
nhiên, n u có c ng đ ng chính sách t i ch , ế ộ ồ ạ ỗ ​​
xoay quanh l i ích c a ngành công nghi p, có ợ ủ ệ
đ c theo cách c a h (ví d , không ki m soát ượ ủ ọ ụ ể
l ng khí th i CO2 và các ch t gây ô nhi m ượ ả ấ ễ
khác) chính sách ph bi n trong tr ng h p ổ ế ườ ợ
này là đ a ra m t tài li u tham kh o đ h ng ư ộ ệ ả ể ướ
d n làm s ch ch t l ng không khí b suy gi m ẫ ạ ấ ượ ị ả
gây thi t h i cho t t c các m t.ệ ạ ấ ả ặ
WELFARE OF THE COMMONS
Phạm vi chính trị thứ 4 vượt quá đặc thù của policy
communities. Quốc phòng, an ninh xã hội và y tế là ví dụ. Lợi
ích của các chính sách là cho lợi ích của cộng đồng. Điều này
không có nghĩa rằng một số động lực của chính sách quốc
phòng (như các hợp đồng vũ khí) không hoạt động theo quan
điểm chính trị của distributive field, trong đó những thành viên

chủ chốt là nhà thầu trong lĩnh vực quân sự.
Mục đích của việc nhắc đến bốn phạm vi chính sách đối lập
là để giải thích những hạn chế policy community. Policy
community có ảnh hưởng lớn, bên ngoài việc hình thành chính
sách, sự tranh cãi của các nhóm này có thể có ảnh hưởng rộng
lớn trong một vài trường hợp.
5. QUẢN LÝ CÔNG
Quan niệm về nhân viên quản lý công như là người có quyền hạn
trung lập
Các nhà quản lý công thường tham gia vào policy commuties dạng
network tùy theo kiến thức và kinh nghiệm trong một số vấn đề về chính trị
mà không liên quan đến địa vị chính trị.
Thành viên của cộng đồng chính trị, quản lý công là những người
quản lý chính trị. Nhân viên quản lý công duy trì vai trò chính trị trong quá
trình hình thành chính sách mà họ có thể thoải mái sử dụng kiến thức và kỹ
năng để hoàn thành mục tiêu chính trị.
Sự cam kết chủ động trong quá trình hoạch định chính sách là phù hợp
với những lý tưởng của các học giả quản lý công (Harmon, 1981).
Với chương trình nghị sự khác nhau, các học giả hành chính khác lên
tiếng thay mặt cho một lập trường tích cực hơn trên một phần
của quản trị viên.
Denhardt (2000) đề xuất việc thảo luận công cộng như là công
cụ quan trọng trong việc đưa các quản trị viên và công
dân với nhau để đưa ra giải pháp cho các vấn đề chính sách. Thường
thấy trong các mô hình này các nhà quản lý công thường được
khuyên nên đưa ra các câu hỏi “nên làm gì” hơn là “làm như thế
nào”. Họ huy động các thành viên chính và giúp làm cho chính
sách trở thành thực tế.
Các mô hình cộng đồng chính sách, và các mô hình liên
quan, làm rõ ràng rằng sự tương tác chính trị là phổ biến trong thực

tế quản lý công.
Những xung đột phát sinh trong quá trình này cung cấp một
phương tiện để mở rộng công luận và thành hình hành động công.
Một số nhà khoa học chính trị tập trung sự chú ý về chức
năng tích hợp các tương tác ngoài chính thức, một tính năng mà
dường như làm cho các mối quan hệ lây lan bất chấp phản
đối mạnh mẽ chính thức của chính phủ.
Trong suốt bộ máy hoạch định chính sách của chính
phủ, các nhóm vấn đề ý thức ảnh hưởng
đến các sự kiện trong một hệ thống phức tạp của các mối
tương quan. Những người tham gia trong quá trình
này thường đại diện cho lợi ích kinh tế, nhưng họ
thường đóng góp chuyên môn và kiến thức chuyên
ngành cho các câu hỏi quan trọng của chính sách công.
Cộng đồng chính sách (và mạng lưới chính
sách) đóng vai trò quan trọng trong các quá trình
chính sách công.
Cộng đồng chính sách là hành chính vì chức năng
quản lý quan trọng như phối hợp, thông tin liên lạc, hội
nhập và được tạo điều kiện thông qua họ.
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN
THẦY VÀ CÁC BẠN!!!

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×