Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

XÃ HỘI DÂN SỰ VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÔNG GIAN XÃ HỘI CHO SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.89 KB, 149 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
XÃ HỘI DÂN SỰ VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÔNG GIAN
XÃ HỘI CHO SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62.22.03.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Phạm Văn Đức
HÀ NỘI, năm 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học
của luận án chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Tuấn Phong
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
10
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu xã hội dân sự
10
1.1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu phát triển con người
17


1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
19
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu xã hội dân sự
19
1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phát triển con người
29
Kết luận chương 1
31
Chương 2. BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI
33
2.1 Quan niệm của Mác về bản chất con người
33
2.1.1. Tiếp cận chỉnh thể
35
2.1.2 Tiếp cận chỉnh thể và khái niệm bản chất loài của C.Mác
41
2.1.3 Đặc trưng của sự phát triển con người
46
2.2. Không gian xã hội và sự phát triển con người
51
2.2.1 Sự sản xuất ra không gian xã hội
51
2.2.2 Vai trò của không gian xã hội trong sự phát triển con người
55
Kết luận chương 2
60
Chương 3. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI DÂN SỰ
VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
63

3.1 Xã hội dân sự với tư cách là một không gian xã hội
63
3.2. Cộng đồng chính trị và sự phát triển con người trong đời sống
Hi Lạp cổ đại
65
3.2.1 Sự hình thành cộng đồng chính trị
60
3.2.2 Khác biệt giữa cộng đồng chính trị và lĩnh vực tư
66
3.3. Xã hội dân sự, kinh tế thị trường, lĩnh vực công
và sự phát triển con người 76
3.3.1 Xã hội dân sự, kinh tế thị trường và phát triển con người
78
3.3. 2 Xã hội dân sự, lĩnh vực công và phát triển con người
85
3.3.2.1 Lĩnh vực công và công luận
87
3.3.2.2. Lĩnh vực công và phát triển con người
91
Kết luận chương 3
97
Chương 4. TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO
SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM
100
4.1 Tiền đề tư tưởng cho sự phát triển con người và phát triển xã hội
tại Việt Nam
101
4.1.1.Tu thân Nho giáo và sự phát triển con người
105

4.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người và
phát triển xã hội
110
4.2. Định hướng chính trị cho sự phát triển xã hội dân sự tại Việt nam
116
4.2.1 Định hướng chính trị của Việt Nam
116
4.2.2 Phát triển xã hội dân sự và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân 121
Kết luận chương 4
125
KẾT LUẬN
127
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
134
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trên khắp thế giới, hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự
ngày càng góp phần quan trọng vào những nỗ lực nhằm đạt được Các Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ do Liên hiệp Quốc đề ra. Các tổ chức xã hội dân
sự phối hợp với các chính phủ cùng hoạt động theo lộ trình tiến tới xây dựng
một thế giới mà ở đó không còn nghèo đói, tất cả trẻ em được học hành, sức
khoẻ của người dân được nâng cao, môi trường được duy trì bền vững và mọi
người được hưởng tự do, công bằng và bình đẳng và đặc biệt là khuyến khích
sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách của
các quốc gia. Trong bối cảnh quốc tế như vậy và với tư cách là một thành viên
tích cực của cộng đồng quốc tế Việt Nam đang chủ động hội nhập quốc tế

mạnh mẽ và toàn diện với thế giới. Trong tiến trình hội nhập quốc tế đó Việt
Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức hết sức lớn lao. Để có thể
tận dụng được thời cơ, vượt qua thách thức nhằm chủ động hội nhập với thế
giới thì bên cạnh việc xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh và một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa năng động, thì sự hình
thành và phát triển một xã hội dân sự phù hợp là một đòi hỏi tất yếu đối với
nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam, mặc dù xã hội dân sự vẫn còn là một khái niệm gây nhiều
tranh cãi, nhưng nhìn nhận dưới góc độ thực tiễn dân sự, thực tiễn mang tính
truyền thống ở các cấp độ và lĩnh vực xã hội khác nhau, hoạt động của các tổ
chức xã hội dân sự là những hoạt động diễn ra trong các không gian xã hội (có
tổ chức chính thức hoặc bán chính thức) thông qua đó người dân tự liên kết lại
để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đời sống cộng đồng và địa phương
mà không cần đến sự can thiệp của nhà nước. Trong lịch sử phát triển của dân
1
tộc thì các hình thức biểu hiện cụ thể của xã hội dân sự có thể nhận thấy
không những trong hoạt động có tổ chức của nhóm, hội, phường… mà còn
trong các hoạt động không chính thức nảy sinh giữa những người dân cùng
tồn tại trong một cộng đồng xã hội truyền thống. Đó có thể được coi là những
thiết chế văn hóa đặc thù trong đời sống văn hóa của người Việt Nam mà
chúng ta cần tính đến trong việc nghiên cứu về nét đặc trưng của xã hội dân sự
Việt Nam. Trong giai đoạn hiện đại xã hội dân sự còn mang diện mạo các
đoàn thể, hiệp hội bao gồm các tổ chức ngoài nhà nước hoạt động theo nguyên
tắc tự nguyện, tự chủ, độc lập về tài chính với thiết chế tổ chức đa dạng hướng
tới mục tiêu vì sự phát triển của cộng đồng.
Xã hội dân sự tại Việt nam, như vậy, có thể tạm được hiểu là thực tiễn
dân sự bao gồm các hoạt động ngoài gia đình và mạng lưới các đoàn thể, hiệp
hội và các tổ chức ngoài nhà nước nhằm khai thác tiềm năng mọi nguồn nhân
lực nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Ở đây, không có sự tách biệt giữa nhà
nước và các tổ chức xã hội dân sự như thường thấy trong các định nghĩa về xã

hội dân sự theo truyền thống của chủ nghĩa tự do của Phương Tây. Rõ ràng
rằng trong quá trình thực hiện công cuộc Đổi mới, hàng loạt các tổ chức mang
dáng dấp của xã hội dân sự đã ra đời và có những đóng góp tích cực vào sự
phát triển kinh tế xã hội của cả nước. hiện nay việc xây dựng xã hội dân sự
lành mạnh và phù hợp ở Việt Nam là cần thiết, có tính chất tất yếu, phù hợp
với qui luật vận động, phát triển của đất nước. Việc xây dựng thành công xã
hội dân sự ở Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Hơn thế nữa trong bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay đang có
những điều kiện cơ bản và hiện thực để xây dựng xã hội dân sự, đó là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân vì dân nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững
2
của đất nước ta thì Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Xã hội dân sự lành mạnh và phù hợp là
những nhân tố chủ đạo quyết định sự thành công của công cuộc Đổi mới, giúp
chúng ta đạt tới mục tiêu bao trùm và thể hiện bản chất của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng là dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu đó là bước tiến quan trọng để đạt tới một
xã hội mà trong đó, như C.Mác đã nói, “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Bởi vì đối với chúng
ta phát triển con người không chỉ mục tiêu cụ thể của mỗi con người mà còn
là mục tiêu tối thượng của cả hệ thống chính trị, của toàn bộ xã hội mà xã hội
dân sự là một bộ phận quan trọng. Tính bền vững của sự phát triển của xã hội
thể hiện qua chính sách phát triển xã hội nhận được sự đồng thuận và ủng hộ
rộng rãi của nhân dân, phát huy được tối đa sự tham gia tích cực và chủ động
của người dân.
Nhận thức được điều này Đảng Cộng Sản Việt Nam từ đại hội VIII đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải quán triệt quan điểm “lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền nhanh và bền vững” và

“Tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người. Tư tưởng phát triển con người là nội dung xuyên suốt các
kỳ đại hội Đảng sau này. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm
2011-2020, như nhận xét của GS. TS. Nguyễn Xuân Thắng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã “đưa ra một hệ quan điểm về phát triển. Trong đó đặc biệt nhấn
mạnh phát triển nhanh phải gắn liền với phát triển bền vững, khẳng định phát
triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” và điều đáng lưu ý là
Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đặc biệt coi trọng việc “phát huy tối
3
đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu
của sự phát triển” (V67, tr. 6)
1
Cũng cần phải nói rằng ở nước ta hiện nay, bên cạnh việc hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập
môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính và xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ
thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn thì việc phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản
nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một trong ba khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 -2020. Xã hội dân sự có thể đóng
vai trò to lớn trong việc thúc đẩy thực hiện các khâu đột phá đó, đặc biệt là
khâu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tuy nhiên, việc xây dựng một xã hội dân sự mang tính đặc thù, phù hợp
với điều kiện lịch sử, văn hóa và đáp ứng được nhu cầu phát triển của Việt Nam
hiện nay cần phải dựa trên cơ sở các nghiên cứu lý luận một cách hệ thống
nhằm làm rõ bản chất của xã hội dân sự và quan trọng hơn là tạo cơ sở cho việc
chủ động định hướng sự phát triển của xã hội dân sự nhằm khác phục những
hạn chế và bất cập đồng thời phát huy tính tích cực của các hoạt động của các tổ
chức xã hội dân sự hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Trên phương diện lý luận, từ quan niệm duy vật biện chứng về sự phát
triển lịch sử loài người của Mác, xã hội dân sự có thể được quan niệm như là
một không gian xã hội của và cho sự phát triển con người, một không gian xã
hội thể hiện tính sáng tạo và chủ động của con người trong tiến trình hiện thực
hóa và nhận thức bản chất xã hội của mình. Tiếp cận Mác xít về sự phát triển
con người và phát triển văn hóa còn cho chúng ta thấy rằng chính tính sáng
1
Trong chú thích của chúng tôi V là viết tắt tài liệu tiếng Việt E là viết tắt tài liệu tiếng Anh trong danh sách
tài liệu tham khảo của luận án, số tiếp theo là số thứ tự tài liệu , số tập và số trang.
4
tạo và chủ động của con người đã tạo ra sự đa dạng của các không gian xã hội
trong lịch sử phát triển. Vì vậy xã hội dân sự, với vai trò là một không gian xã
hội, một bộ phận hữu cơ cấu thành của một toàn thể hữu cơ sống động và phát
triển, không phải là một khái niệm bất biến mà nội hàm và chức năng của xã
hội dân sự luôn biến đổi cùng với sự hình thành và phát triển của các bối cảnh
văn hóa và lịch sử cụ thể do chính con người tạo ra nhằm đáp ứng những mục
đích phát triển cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau của lịch sử văn
hóa và lịch sử nhân loại. Trong quan niệm của chúng tôi vì thế xã hội dân sự
là một khái niệm mở, luôn biến động trong mối tương quan với sự phát triển
của bản chất con người. Biện chứng giữa sự phát triển của xã hội dân sự và sự
phát triển của con người thể hiện bản chất xã hội của con người: với tư cách
là ‘sản phẩm’ của một nền văn hóa, một không gian xã hội cụ thể thì con
người bị quy định bởi các không gian xã hội, “các hoàn cảnh xã hội” cụ thể
nhưng mặt khác cũng chính con người với tư cách là những chủ thể xã hội là
nhân tố kiến tạo ra các điều kiện cần thiết cho sự biến đổi và phát triển của các
không gian xã hội, “các hoàn cảnh xã hội” và chính trong hoạt động chủ động
và sáng tạo của con người các không gian xã hội, “các hoàn cảnh xã hội” mới
có thể biến đổi và phát triển.
Nhìn nhận xã hội dân sự như là một khái niệm mở sẽ có thể giúp chúng
ta hiểu được tính sáng tạo và chủ động của con người trong việc hiện thực hóa

bản chất của mình trong những bối cảnh và điều kiện văn hóa lịch sử khác
nhau. Trong bối cảnh phát triển lịch sử xã hội đặc thù của Việt Nam chúng tôi
muốn khẳng định rằng Việt Nam đã có những tiền đề tư tưởng quan trọng cho
sự phát triển một xã hội dân sự phù hợp, đáp ứng được những mục tiêu nhân
văn của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng. Nói cụ thể
hơn, theo quan điểm của chúng tôi thì tư tưởng tu thân của Nho giáo và đặc
biệt là tư tưởng phát triển con người và phát triển xã hội của Chủ tịch Hồ Chí
5
Minh, người đã kế thừa một cách sáng tạo và có chọn lọc tinh hoa văn hóa của
Phương Đông và các tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính là những nền
tảng tư tưởng quan trọng cho sự hình thành và phát triển xã hội dân sự xã
hội chủ nghĩa trong bối cảnh đặc thù của Việt Nam. Hơn thế nữa, các tư tưởng
về phát triển con người và phát triển xã hội của Hồ Chí Minh đã được Đảng
cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển sáng tạo trong các chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, đặc biệt là trong giai doạn tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Xuất phát từ cách tiếp cận mang tính triết học về phát triển con người và xã
hội dân sự, mục đích mà chúng tôi đặt ra trong luận án này là luận giải xã hội
dân sự với tư cách là không gian xã hội của (và cho) sự phát triển con người.
Để thực hiện mục tiêu này, trong khuôn khổ luận án chúng tôi sẽ tập trung
giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ nội dung và phân tích mối liên hệ giữa các khái niệm cơ bản
như chất con người, phát triển con người nhằm chỉ ra tính đặc thù trong sự
phát triển con người.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của xã hội dân sự trong một số
giai đoạn tiêu biểu của lịch sử phát triển xã hội phương Tây nhằm chỉ ra mối
liên hệ biện chứng giữa thực tiễn phát triển của xã hội dân sự và phát triển
con người.
- Tìm hiểu và phân tích nền tảng tư tưởng cho sự phát triển con người và

xã hội tại Việt Nam để làm sáng tỏ tính đặc thù của mô hình xã hội dân sự xã
hội chủ nghĩa trong vai trò là không gian xã hội cho sự phát triển con người
tại Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận án
6
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các khái niệm bản chất con người, phát
triển con người, không gian xã hội và xã hội dân sự.
Phạm vi nghiên cứu trong luận àn này là khái niệm xã hội dân sự trong mối
liên hệ với sự phát triển con người. Chúng tôi tiếp cận xã hội dân sự từ khía
cạnh phát triển con người. Xã hội dân sự chỉ được xem xét trong giới hạn là
không gian xã hội cho sự phát triển con người. Các khía cạnh và các cách tiếp
cận khác về xã hội dân sự sẽ chỉ được chúng tôi đề cập đến trong sự liên quan
đến phát triển con người.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
3.1 Cơ sở lý thuyết
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về sự phát triển con người và xã hội
như là một sự phát triển lịch sử - tự nhiên, sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác và tư tưởng truyền thống
phương Đông về phát triển con người và phát triển xã hội. Chúng tôi cho rằng
việc nghiên cứu về phát triển con người và xã hội dân sự, đặc biệt là việc định
hướng xã hội dân sự đến sự phát triển con người ở nước ta cần phải xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và phát triển con người, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận mà chúng tôi sử dụng là các nguyên lý, các cặp
phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Hai nguyên lý
cơ bản của phép biện chứng duy vật sẽ được áp dụng trong việc nghiên cứu sự
phát triển con người để chỉ ra rằng sự phát triển con người chân thực là tiến

trình phát triển ngày một hoàn thiện hơn bản chất con người. Các nguyên lý
này còn cho thấy tính thống nhất trong đa dạng của tiến trình phát triển con
7
người với tư cách là tiến trình phát triển bản chất con người. Tiếp cận chỉnh
thể và nhận thức duy vật lịch sử còn cho chúng ta thấy vai trò sáng tạo và chủ
động của con người trong tiến trình phát triển bản chất của mình. Tính sáng
tạo và chủ động của con người lý giải cho tính đa dạng của các hình thái xuất
hiện của xã hội dân sự, nét đặc trưng và bản sắc văn hóa của xã hội dân sự.
5. Đóng góp mới của luận án
Tiếp cận từ góc độ triết học chính trị tới các khái niệm bản chất con
người và xã hội dân sự, luận án đã phân tích và làm sáng tỏ được những vấn
đề mang tính lý luận sau đây:
- Luận án đã làm sáng tỏ khái niệm xã hội dân sự từ quan điểm triết học
Mác về bản chất con người và phát triển con người.
- Luận án đã làm sáng tỏ vai trò của xã hội dân sự đối với sự phát triển
con người trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội dân sự
- Luận án đã chỉ ra nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của xã hội dân sự
với tư cách là không gian phát triển con người trong điều kiện phát triển của
Việt Nam
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án muốn chỉ ra sự cần thiết phải có những sự nhìn nhận và đánh giá đầy
đủ hơn di sản lý luận của triết học Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc
nghiên cứu nghiêm túc và khách quan các tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí
Minh về bản chất con người và phát triển con người sẽ có thể giúp chúng ta có
những quan niệm sâu sắc về mục tiêu phát triển của đất nước, về vị trí, vai trò
của xã hội dân sự trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Tiếp cận
xã hội dân sự từ khía cạnh phát triển con người còn giúp chúng ta có sự đánh
giá đầy đủ hơn về những mặt tích cực cũng như mặt hạn chế của xã hội dân sự
để trên cơ sở đó đề ra những định hướng chính trị quan trọng để phát huy tiềm
năng của xã hội dân sự vì mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam.

8
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập những vấn đề thuộc đề tài phát triển con người, xã hội dân sự.
Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu mang tính đối
chiếu về phát triển con người và về xã hội dân sự từ các góc nhìn của các khoa
học xã hội khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời cam đoan, Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các bài
viết của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết và kết luận các chương
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu xã hội dân sự
Xã hội dân sự là một đối tượng nghiên cứu tương đối mới mẻ ở Việt
Nam. Mặc dù vậy, trong thời gian gần đây, trên các tạp chí lý luận đã xuất
hiện một số công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung khái niệm xã hội dân
sự, đặc điểm và tính chất hoạt động của xã hội dân sự ở Việt Nam. Nhiều học
giả đã tập trung vào nội dung lịch sử khái niệm xã hội dân sự, đặc điểm, cấu
trúc hoạt động của Xã hội dân sự ở Việt Nam và trên thế giới. Các sách
chuyên khảo bao gồm Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay của các tác giả Thang Văn
Phúc và Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm
2007), Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc của Vũ Duy Phú (chủ biên),
Đặng Ngọc Dinh, Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải, Nxb. Tri thức (năm 2008),
Dương Xuân Ngọc (2009), Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam: một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính Quốc gia, Đinh Công
Tuấn (Chủ biên) (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về XHDS ở liên
minh Châu Âu, Nxb Khoa học Xã hội; Tống Đức Thảo (2011), Trào lưu Xã

hội dân sự ở một số nước Phương tây hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia,…
Trên các tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên
cứu khá chuyên sâu về xã hội dân sự từ các góc nhìn khác của các nghành
khoa học xã hội khác nhau. Đó là các công trình của các tác giả như: Đỗ
Trung Hiếu. Một số vấn đề về xã hội công dân, Tạp chí Triết học, năm 2002,
Phạm Hồng Thái. Bàn về xã hội công dân. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
11/2004, Bùi Việt Hương, Xã hội công dân trong lịch sử tư tưởng chính trị
10
phương Tây, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2006; Nguyễn Như Phát. Tìm
hiểu khái niệm xã hội dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2006; Phan
Hữu Thư. Bước đầu tìm hiểu khái niệm xã hội dân sự tại Việt Nam, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 9/2006, Bùi Quang Dũng. Xã hội dân sự: khái niệm
và các vấn đề, Tạp chí Triết học, năm 2006, Vũ Văn Nhiêm, Vài nét về Xã hội
dân sự trong lịch sử và kinh nghiệm đối với nước ta, Tạp chí Khoa học Pháp
luật số 1/2007; Nguyễn Thanh Tuấn , Xã hội dân sự từ kinh điển Mác Lênin
đến tư tưởng Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 12/2007; Tương Lai,
Xã hội dân sự và mấy vấn đề của các tổ chức xã hội dân sự, Tạp chí Khoa học
Pháp luật, số 4/2007, Bùi Quang Dũng, Xã hội dân sự: khái niệm và các vấn
đề, Tạp chí Triết học số 2 (189)/2008; Trần Tuấn Phong, Xã hội công dân và
Xã hội dân sự từ Aritxtot đến Hêghen, Tạp chí Triết học số 2/2009; Nguyễn
Đình Tường, Quan niệm của Hêghen về Xã hội công dân, Tạp chí Triết học số
4/2009; Trần Hữu Quang, Một số quan niệm cổ điển về Xã hội dân sự, Tạp chí
Khoa học Xã hội, số 7/2009…
Bên cạnh việc làm rõ nội dung, đặc điểm và tính chất của xã hội dân sự
ở Việt Nam một số công trình đã tập trung làm rõ mối quan hệ của các hình
thức xã hội dân sự với nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Các tác giả
đã chỉ ra vai trò tích cực cũng như những hạn chế của các hình thức tổ chức xã
hội dân sự đối với sự phát triển của Việt Nam; quan hệ giữa nhà nước và xã
hội dân sự Việt Nam trong lịch sử và hiện đại, mối liên hệ giữa nhà nước với
xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành chính; mối liên hệ giữa xã hội, cá nhân

và nhà nước trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, v.v. Đó là các công trình như: Phạm Xuân Sơn. Xã hội công dân và một
số vấn đề về xã hội công dân ở nước ta, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Đà Nẵng,
2001; Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Nguyễn Thanh Bình. Vai trò của hội, tổ
11
chức phi chính phủ trong đổi mới và phát triển đất nước, Tạp chí Lý luận
chính trị, năm 2004; Thang Văn Phúc. Vai trò của các Hội trong đổi mới và
phát triển đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, GS.TS. Võ Khánh
Vinh. Mối liên hệ giữa xã hội – cá nhân – nhà nước trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2003,
Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh, Quan hệ giữa Nhà nước và Xã hội dân sự
Việt Nam lịch sử và hiện tại, NXB Chính trị Quốc gia 2003; Đào Trí Úc, mối
liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành chính, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2004; Hoàng Ngọc Giao, Xã hội Dân sự với
nhà nước và thị trường, kỷ yếu 30 năm thành lập khoa luật Đại học Quốc gia
Hà Nội; Trần Ngọc Hiên, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nước ta; Lê Văn Quang. Quan hệ giữa
nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam: lịch sử và hiện đại, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2004; Đặng Kim Sơn. Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng
đồng ứng dụng cho Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; Đào Trí
Úc. Mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành
chính, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2004; Nguyễn Thanh Bình. Xây
dựng nhà nước pháp quyền từ sự hình thành xã hội công dân, Tạp chí Cộng
sản số 9/2004; Trần Hậu Thành. Một số vấn đề lý luận về quan hệ nhà nước,
xã hội và công dân trong nhà nước pháp quyền, Tạp trí Triết học, số 6/2005,
Phạm Ngọc Trầm, Nhà nước pháp quyền, Xã hội dân sự với vấn đề về quyền
và nghĩa vụ công dân, Tạp chí Triết học số 4/2006; Nguyễn Duy Quý, Về xã
hội dân sự; Nguyễn Thu Linh, Phát triển bền vững và sự tham gia của xã hội
dân sự; Nguyễn Minh Phương, Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện

nay, Tạp chí Triết học, số 2/2006, Đinh Ngọc Vượng, Xã hội dân sự và nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam; Hà Thị Mai Hiên, Xã hội dân sự và cá nhân
trong Nhà nước Pháp quyền, trong kỷ yếu hội thảo “Xã hội dân sự ở Việt
12
Nam và những khía cạnh Nhà nước pháp quyền”, 2006 , Đổi mới quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính
trị ở Việt Nam của Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (Đồng chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2008), Phản biện xã hội và phát huy dân
chủ pháp quyền (Sách tham khảo) của Hồ Bá Thâm và Nguyễn Tôn Thị
Tường Vân (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2009), Về quá
trình dân chủ hoá XHCN ở Việt Nam (Sách chuyên khảo) của Lê Minh Quân,
Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện
nay của Lê Minh Thông, Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2011).
Tác giả Hoàng Ngọc Giao thì cho rằng xã hội dân sự là môi trường
quan hệ với đặc điểm chủ yếu là không vì mục đích lợi nhuận, vận hành theo
nguyên tắc tự nguyện và bên ngoài hệ thống quyền lực công cộng.
Trong một công trình nghiên cứu công phu thì các tác giả Thang Văn
Phúc và Nguyễn Minh Phương cho rằng xã hội dân sự là một trong những lĩnh
vực cơ bản của đời sống xã hội, tập hợp các mối quan hệ tự nguyện, tự quản
của người dân, liên kết con người với nhau thành các tổ chức, không vì mục
đích lợi nhuận, độc lập tương đối với nhà nước và thị trường nhằm thỏa mãn
các nhu cầu và lợi ích nhất định của cá nhân hoặc cộng đồng.
Theo quan điểm của tác giả Dương Xuân Ngọc thì xã hội dân sự là tổng
thể các quan hệ và các tổ chức, các mạng lưới xã hội được hình thành và hoạt
động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải về
kinh phí, trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý, phối hợp với nhà nước để kiểm
xoát và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế, từng
bước hoàn thiện và phát huy vai trò của xã hội dân chủ, nhằm duy trì, bảo đảm
sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của nhà nước và xã hội, hiện thực

hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và cộng đồng
13
Từ khía cạnh luật học tác giả Võ Khánh Vinh quan niệm rằng xã hội dân
sự là một hệ thống các quan hệ và thiết chế xã hội đa dạng, phong phú ở nhiều
mức độ, có mối liên hệ lẫn nhau không thông qua (không phụ thuộc vào) Nhà
nước của cá nhân tự do và có toàn quyền tồn tại và hoạt động trong điều kiện
kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền.
Tác giả Nguyễn Mạnh Cường có xu hướng đồng nhất xã hội dân sự với
lĩnh vực công, lĩnh vực của công chúng hay lĩnh vực thứ ba của một quốc gia,
bổ sung cho nhà nước và khu vực kinh doanh, bao gồm tất cả các tổ chức,
nhóm, hội, mạng lưới nhân dân thiết lập nên. Nó mang tính phi chính phủ, tự
nguyện và phi lợi nhuận
Nhiều các công trình nghiên cứu thực trạng xã hội dân sự và đánh giá
ban đầu về các yếu tố hình thành, phát triển xã hội dân sự Việt Nam trong
khuôn khổ các chương trình nghiên cứu cấp quốc gia và chương trình hợp tác
với nước ngoài đã được nghiệm thu và xuất bản thành sách. Đó là các công
trình như "Các tổ chức nhân dân trong thị trường kinh tế" trình bày các kết
quả của KX.05.10 dự án mang tên "Vị trí và đặc điểm hoạt động của tổ chức
Thánh Lễ và xã hội trong Hệ thống chính trị "(biên tập: Nguyễn Việt Vương,
xb 1994). Trong những năm 2000, Viện Xã hội học đã tiến hành một số
nghiên cứu liên quan đến chủ đề. Khảo sát năm 2001 "Hệ thống chính trị cơ
sở - Xem từ nhân dân” thu thập dữ liệu về nông thôn của người dân sự hiểu
biết và ý kiến về hệ thống chính trị ở cấp làng, xã, bao gồm cả xã hội tổ chức
chính trị (Trịnh Duy Luân, 2002). Bắt đầu vào năm 1999 và kết thúc vào năm
2002, một nhóm quốc tế của các nhà nghiên cứu, trong một sự hợp tác giữa
Viện Xã hội học, Đại học Freiburg và Đại học Tự do Berlin, tiến hành nghiên
cứu kết hợp các kỹ thuật định tính và định lượng về tổ chức dân sự tại Hà Nội
và Hồ Chí Minh (dự án COHH).
14
Cũng cần phải nói ra là hầu hết các công trình này đều đề cập đến xã

hội dân sự từ góc độ văn hóa, xã hội học, lịch sử, kinh tế hay luật học có rất
ít công trình tiếp cận đầy đủ từ góc độ triết học. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ
“Cơ sở triết học và thực tiễn của việc xây dựng xã hội dân sự” do PGS. TS.
Phạm Văn Đức, Viện Triết học chủ nhiệm (2007-2009) là số ít đề tài nằm
trong số đó khi tiếp cận khái niệm xã hội dân sự từ góc độ triết học, đặc biệt là
từ góc độ lịch sử triết học.
Trong đề tài này các tác giả đã trình bày tương đối đầy đủ, chi tiết về
tình hình nghiên cứu Xã hội dân sự trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là lịch
sử phát triển của khái niệm này dưới góc độ triết học (sự phát triển quan điểm
về xã hội dân sự trong quan điểm của các triết gia phương Tây tiêu biểu từ
Aristotle đến C. Mác cũng như các cách tiếp cận và quan điểm hiện đại của
chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cộng hòa ). Đề tài này còn
có những nghiên cứu một số mô hình xã hội dân sự thực tiễn ở một số nơi
trên thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore. Đề tài đã vạch
ra nội dung, bản chất, những đặc trưng và những điều kiện để xây dựng xã hội
dân sự, nhằm góp phần cung cấp cơ sở lý luận cho việc xây dựng và phát triển
xã hội dân sự trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Một đề tài cấp Nhà nước nữa được nghiệm thu là “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của sự hình thành và phát triển xã hội dân sự định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, đề tài đã làm sáng tỏ nhiều vấn
đề từ cơ sở, tiền đề đến thực trạng hình thành, phát triển xã hội dân sự Việt
Nam. Đặc biệt, đề tài đã luận giải mô hình xã hội dân sự định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm những đặc điểm cơ bản, nội dung hoạt động,
vai trò, chỉ ra những hạn chế và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện mô hình
này trong tương lai
15
Bên cạnh những bài báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu còn có
các hội nghị, hội thảo về xã hội dân sự. Các cuộc hội thảo này đã phần nào
thu hút được sự quan tâm của giới học giả và công chúng, góp phần làm sáng
tỏ nhiều vấn đề còn băn khoăn về xã hội dân sự nói chung và xã hội dân sự

Việt Nam nói riêng.
- “Các tổ chức xã hội dân sự trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương tổ chức vào ngày 16 tháng 5 năm 2007.
- “Xã hội dân sự: khái niệm và các hướng tiếp cận nghiên cứu" do liên
chi đoàn TNCS HCM Viện Xã hội học và Viện Nhà nước và Pháp luật đã
phối hợp tổ chức ngày 14/8/2007. Hội thảo mới chỉ dừng lại ở chỗ cung cấp
những khái niệm cơ bản nhất về xã hội dân sự mà chưa đi sâu vào việc phân
tích các nội dung cụ thể của nó.
- “Xã hội dân sự: những vấn đề lịch sử, lý luận và kinh nghiệm nước
ngoài” do chương trình Pháp quyền Châu Á (Konrad Adenauer Stiftung -
KAS) và Viện Khoa học xã hội Việt Nam đồng tổ chức ngày 28 và 29 tháng 2
năm 2008. Hội thảo đã trình bày những vấn đề về lý luận chung của xã hội
dân sự, kinh nghiệm xây dựng, phát triển xã hội dân sự tại Philipin, indonesia,
Singapore, Thái Lan… và bài học cho Việt Nam.
- “Xã hội dân sự của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế và phát
triển bền vững” do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương ( CIEM)
phối hợp với Viện Nghiên cứu Châu Á của các nước Bắc Âu ( NIAS) tổ chức
ngày 4 tháng 4 năm 2008. Hội thảo tập trung vào một số chủ đề chính về Xã
hội dân sự: các diễn ngôn quốc tế về xã hội dân sự; quan điểm quốc tế và phân
tích vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam; vai trò của xã hội dân sự trong sự
phát triển của các nước phúc lợi Bắc Âu: lịch sử, kinh nghiệm, và thách thức;
quan điểm quốc tế và phân tích vai trò của xã hội dân sự ở Trung Quốc; xã hội
16
dân sự trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam: cái nhìn từ
trong nước
- “Quan hệ giữa kinh tế thị trường - nhà nước pháp quyền - xã hội dân
sự: Thực tiễn thế giới và vấn đề này ở Việt Nam” do Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 10 tháng 01 năm 2008. Mục
đích của hội thảo là làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố kinh tế thị

trường - nhà nước pháp quyền - xã hội dân sự trên cả bình diện lý luận và thực
tiễn trên thế giới và Việt Nam….
1.1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu phát triển con người
Ở Việt nam có thể nhận thấy rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam từ đại hội
VIII đã nhấn mạnh sự cần thiết phải quán triệt quan điểm “lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền nhanh và bền
vững” và “Tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự
do, toàn diện của con người. Tư tưởng phát triển con người là nội dung xuyên
suốt các kỳ đại hội Đảng sau này. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
10 năm 2011-2020, như nhận xét của GS. TS. Nguyễn Xuân Thắng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã “đưa ra một hệ quan điểm về phát triển. Trong đó đặc
biệt nhấn mạnh phát triển nhanh phải gắn liền với phát triển bền vững, khẳng
định phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” và điều
đáng lưu ý là Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đặc biệt coi trọng việc
“phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ
yếu và mục tiêu của sự phát triển” (V67, tr.6)
Trong các công trình nghiên cứu về phát triển con người thì, như nhận
xét của GS.TS. Hồ Sỹ Quý, khái niệm phát triển con người mặc dù đã được
biết đến là một khái niệm triết học cơ bản, đặc biệt là trong triết học C.Mác và
tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh, nhưng nó chỉ được đặc biệt chú ý đến
cùng với sự xuất hiện của Báo cáo Phát triển Người (HDR) do Liên Hiệp
17
Quốc công bố vào những năm 1990. “Của cải đích thực của một quốc gia là
con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi tr-
ường thuận lợi cho phép con người đợc hưởng cuộc sống dài lâu, khoẻ mạnh
và sáng tạo. Chân lý giản đơn nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta
quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính”. (V20, tr. 80-81)
Cũng theo GS.TS. Hồ Sỹ Quý thì nội dung chủ yếu của khái niệm này
gồm: 1), là quá trình tăng cường năng lực cho sự lựa chọn của con người. 2),
là sự mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người. Khái niệm này có thể được

giải thích như sau:
1. Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của từng người
và của từng cộng đồng. Ở đâu con người có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn, thì
ở đó điều kiện phát triển con người sẽ tốt hơn.
2. Phát triển con người là quá trình tăng cường các năng lực lựa chọn cho từng
người và từng cộng đồng. Ở đâu con người có năng lực lựa chọn cao hơn, thì
ở đó trình độ phát triển con người cũng cao hơn. Các năng lực của con người
cần được tăng cường bao gồm các năng lực sinh thể (mà trước hết là sức
khỏe) và các năng lực tinh thần (mà trước hết là tri thức). Các cơ hội cho hoạt
động của con người cần được mở rộng bao gồm các hoạt động lao động và
nghỉ ngơi. Mở rộng các hoạt động được hiểu theo nghĩa là con người có khả
năng sử dụng ngày càng tốt hơn năng lực sinh thể và năng lực tinh thần của
mình trong công việc và trong nghỉ ngơi.
3. Quá trình mở rộng cơ hội và tăng cường năng lực lựa chọn chính là môi
trường làm cho khả năng sáng tạo, sống khỏe mạnh, được học hành và trường
thọ của con người tăng lên (V25, tr.80-81).
Ở Việt nam quan điểm phát triển con người còn được triển một cách có
hệ thống trong các công trình của tác giả Phạm Minh Hạc. Tác giả Phạm Minh
Hạc là chủ nhiệm của ba chương trình quốc gia “Con người – mục tiêu và
18
động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991-1995); “Phát triển văn hóa, xây
dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996-
200); “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ cộng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001-2005)…Theo ý kiến của ông thì phát triển
con người chính “là phát triển các lực lượng bản chất của con người, phát
triển các năng lực vật chất và năng lực tinh thần, nhân cách, trí tuệ, thể chất và
trong quá trình sống, con người (chủ thể) chuyển dần thành tâm lực, trí lực,
thể lực (các giá trị cá thể, giá trị nhân cách), tức là nhân lực có hiệu quả cho
cuộc sống của bản thân, gia đình và cộng đồng. Phát triển người là nâng cao
chất lượng sống, tạo nên một động lực quyết định nhất trong nội lực của con

người, của cộng động, của dân tộc” (V49, tr. 31)
Con người văn hóa và quyền phát triển do Mai Quỳnh Nam (chủ biên)
là sản phẩm tập hợp từ những nghiên cứu của cán bộ và cộng tác viên của
Viện Nghiên cứu con người. Trong quyển sách này các khái niệm con người
và phát triển con người được đề cập đén trong mối liên hệ với phát triển văn
hóa và quyền con người. Phát triển con người được các tác giả chú ý đến
trong mối liên hệ với phát triển nguồn nhân lực
Mối liên hệ giữa phát triển con người và văn hóa cũng được đề cập nhiều,
tiêu biểu là các tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người và
phát triển văn hóa do Đặng Xuân Kỳ chủ biên. Trong bối cảnh hội nhập quốc
tế vấn đề con người và văn hóa Việt Nam được đề cập đến trong công trình
Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội nhập quốc tế do Hoàng
Chí Bảo chủ biên…
1. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự
Lịch sử hình thành và phát triển của khái niệm xã hội dân sự đã được
các nhà triết học, xã hội học, chính trị học, luật học nổi tiếng trên trên thế giới
19

×