Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Báo cáo thương mại điện tử năm 2008 của bộ công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.06 KB, 13 trang )

BÁO CÁO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ NĂM 2008 CỦA BỘ CÔNG
THƯƠNG VIỆT NAM
Posted on 09/04/2009 by Civillawinfor
TỔNG QUAN
Nền kinh tế Việt Nam năm 2008 đã phải trải qua rất nhiều khó khăn thách thức nhưng với
sự năng động, tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, thương mại điện tử Việt Nam vẫn kế thừa
được sự phát triển sôi động của năm 2007 và đang dần đi vào chiều sâu, đặt nền móng cho sự phát
triển toàn diện trong những năm tới.
Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2008 được xây dựng trên cơ sở đánh giá kết quả 3 năm triển
khai Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010, tình hình triển khai một số
hoạt động về bảo vệ dữ liệu cá nhân và ứng dụng các tiêu chuẩn công nghệ hỗ trợ thương mại điện tử.
Trên cơ sở đó, Báo cáo đề xuất những khuyến nghị nhằm thực hiện thành công Kế hoạch tổng thể phát
triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010.
Phần tổng quan này sẽ điểm lại những nét nổi bật nhất của thương mại điện tử Việt Nam năm 2008.
Mục tiêu chính là giúp người đọc nắm bắt nhanh tình hình phát triển thương mại điện tử Việt Nam qua
những nét lớn này.
1. Thương mại điện tử đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp với hiệu quả ngày
càng tăng
Kết quả điều tra với 1600 doanh nghiệp trên cả nước của Bộ Công Thương trong năm 2008 cho
thấy, hầu hết các doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở những mức độ khác nhau.
Đầu tư cho thương mại điện tử đã được chú trọng và mang lại hiệu quả rõ ràng cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đã quan tâm tới việc trang bị máy tính, đến nay hầu như 100% doanh nghiệp đều
có máy tính. Tỷ lệ doanh nghiệp có từ 11–20 máy tính tăng dần qua các năm và đến năm 2008 đạt trên
20%. Tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so với 84% của năm 2007. Đến
nay, có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối Internet, trong đó kết nối băng thông rộng chiếm 98%. Tỷ lệ
doanh nghiệp có website năm 2008 đạt 45%, tăng 7% so với năm 2007. Tỷ lệ website được cập nhật
thường xuyên và có chức năng đặt hàng trực tuyến đều tăng nhanh.
Một trong những điểm sáng nhất về ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp là tỷ lệ đầu tư
cho phần mềm tăng trưởng nhanh, chiếm 46% trong tổng đầu tư cho công nghệ thông tin của doanh nghiệp
năm 2008, tăng gấp 2 lần so với năm 2007. Trong khi đó, đầu tư cho phần cứng giảm từ 55,5% năm 2007
xuống còn 39% vào năm 2008. Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư này cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu chú


trọng đầu tư cho các phần mềm ứng dụng để triển khai thương mại điện tử sau khi ổn định hạ tầng công
nghệ thông tin. Doanh thu từ thương mại điện tử đã rõ ràng và có xu hướng tăng đều qua các năm. 75%
doanh nghiệp có tỷ trọng doanh thu từ thương mại điện tử chiếm trên 5% tổng doanh thu trong năm 2008.
Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm bố trí cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử.
Các con số thống kê này cho thấy, đến thời điểm cuối năm 2008 nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
nhận thức rõ về tầm quan trọng của thương mại điện tử đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và sẵn sàng
ứng dụng thương mại điện tử ở mức cao hơn trong thời gian tới.
2. Các tổ chức đào tạo chính quy đẩy mạnh giảng dạy thương mại điện tử
Để đánh giá tình hình đào tạo chính quy về thương mại điện tử sau ba năm triển khai Kế hoạch tổng
thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy đào
tạo thương mại điện tử trong hai năm cuối triển khai Kế hoạch tổng thể, năm 2008 Bộ Công Thương đã
tiến hành điều tra toàn diện tình hình đào tạo thương mại điện tử tại các trường đại học và cao đẳng trong
cả nước.
Kết quả cuộc điều tra cho thấy đến thời điểm cuối năm 2008, tại Việt Nam có 49 trường triển khai
hoạt động đào tạo về thương mại điện tử, gồm 30 trường đại học và 19 trường cao đẳng. Trong số 30
trường đại học đã giảng dạy thương mại điện tử, 1 trường thành lập khoa thương mại điện tử, 19 trường
giao cho khoa kinh tế – quản trị kinh doanh phụ trách giảng dạy thương mại điện tử và 10 trường giao cho
khoa công nghệ thông tin phụ trách giảng dạy môn học này, 8 trường thành lập bộ môn thương mại điện
tử. Trong số 19 trường cao đẳng đã giảng dạy thương mại điện tử, 1 trường thành lập khoa thương mại
điện tử, 9 trường giao cho khoa kinh tế phụ trách giảng dạy thương mại điện tử và 9 trường giao cho khoa
công nghệ thông tin phụ trách dạy môn học này, có 3 trường cao đẳng đã thành lập bộ môn thương mại
điện tử.
Về kế hoạch đào tạo trong thời gian tới, trong số 108 trường tham gia điều tra có 33 trường dự định
xây dựng ngành thương mại điện tử và 52 trường dự kiến sẽ triển khai đào tạo thương mại điện tử trong
tương lai gần.
Như vậy, có thể thấy các tổ chức đào tạo nắm bắt khá nhanh nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp
đối với nguồn nhân lực về thương mại điện tử và đã triển khai khá sớm hoạt động đào tạo nhân lực cho
lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự phát triển của hoạt động đào tạo hiện nay đang ở trong giai đoạn phát triển tự
phát, chưa có sự quan tâm thoả đáng của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan. Hầu như chưa trường
nào thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với những doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực thương

mại điện tử do trường đào tạo. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng chưa chủ động đề xuất nhu cầu tuyển
dụng nhân lực thương mại điện tử trong ngắn hạn và trung hạn làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo.
3. Nhiều cơ quan, địa phương đã quan tâm tới vấn đề cung cấp dịch vụ công trực tuyến
Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010 đề ra nhiệm vụ “Đến năm
2010 các cơ quan Chính phủ phải đưa hết dịch vụ công lên mạng, trong đó ưu tiên các dịch vụ: thuế điện
tử, hải quan điện tử, các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử, thủ tục liên quan tới đầu tư và đăng ký kinh doanh
điện tử, các loại giấy phép thương mại chuyên ngành…”. Trong ba năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch tổng
thể, các Bộ ngành đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả khả quan đối với một số dịch vụ công
quan trọng với hoạt động thương mại như dịch vụ thủ tục hải quan điện tử, dịch vụ khai, nộp thuế điện tử,
dịch vụ cấp chứng nhận xuất xứ điện tử và dịch vụ ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm Chính
phủ.
Từ năm 2005, Bộ Tài chính bắt đầu triển khai Dự án Thủ tục hải quan điện tử và đến nay cơ bản đã
đạt được các mục tiêu đặt ra như rút ngắn thời gian thông quan, giảm hồ sơ giấy tờ, giảm chi phí cho
doanh nghiệp. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thông qua thủ tục hải quan điện tử tăng dần qua các
năm, từ 8% năm 2006 lên trên 16% năm 2007 và 9 tháng đầu năm 2008 đã đạt 17,5% tổng kim ngạch xuất
khẩu.
Một trong những thành công nổi bật trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ cấp
chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương (eCoSys). Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu
giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh, eCoSys được triển khai từ đầu năm 2006. Đến cuối năm 2008,
eCoSys đã được đưa vào triển khai toàn diện trên cả nước, tất cả doanh nghiệp có nhu cầu cấp CO ưu đãi
cho hàng hoá xuất khẩu có thể gửi đơn đề nghị cấp CO ưu đãi qua Hệ thống cấp CO điện tử đến các tổ
chức cấp CO thuộc Bộ Công Thương mà không cần phải trực tiếp đến làm thủ tục như trước kia.
Hiện nay, một số dự án về dịch vụ công trực tuyến quan trọng khác như dịch vụ khai, nộp thuế điện
tử do Bộ Tài chính chủ trì, dịch vụ ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm Chính phủ do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chủ trì đang chuẩn bị chuyển sang giai đoạn triển khai thí điểm.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và địa phương cũng rất coi trọng việc cung cấp trực tuyến các dịch vụ
công khác. Tính đến hết tháng 12 năm 2008, hầu hết các Bộ ngành và 59/63 Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có website để giao tiếp với công dân và các tổ chức trong xã hội. Phần lớn các
website này đều cung cấp những dịch vụ công trực tuyến cơ bản như cung cấp thông tin về hoạt động của
tổ chức, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật, quy trình thủ tục hành chính công và tương tác với tổ chức

cá nhân qua website.
Một số địa phương như thành phố Hồ Chí Minh, Lào Cai, v.v… đã bắt đầu triển khai cung cấp trực
tuyến các dịch vụ công liên quan đến thương mại như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy
chứng nhận đầu tư, giấy phép thành lập văn phòng đại diện, đăng ký thuế, đăng ký con dấu, v.v…
Cùng với sự tiến bộ nhanh trong công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến thương mại
điện tử và hạ tầng công nghệ, sự quan tâm chỉ đạo của Nhà nước, những điển hình về cung cấp thành công
dịch vụ công trực tuyến trên quy mô cả nước cũng như tại một tỉnh, thành phố cụ thể sẽ góp phần giúp
hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới.
4. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân bước đầu được quan tâm
Bên cạnh những nét nổi bật trên, năm 2008 còn chứng kiến những chuyển biến có ý nghĩa lớn đối
với sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn tới.
Trong thương mại điện tử, các giao dịch được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng, các đối
tác không cần phải gặp mặt trực tiếp, nên nhu cầu về thông tin cá nhân là rất lớn. Giao dịch thương mại
điện tử của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian gần đây tăng nhanh, khối lượng thông tin trao đổi ngày
càng nhiều. Tuy nhiên, những vi phạm liên quan đến thông tin cá nhân cũng ngày một nhiều hơn, gây tâm
lý e ngại cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch thương mại điện tử.
Từ năm 2005 đến nay các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều nỗ lực đưa các quy định liên quan
đến bảo vệ thông tin cá nhân vào các văn bản quy phạm pháp luật, với các hình thức xử phạt, chế tài cụ
thể. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
thông tin cá nhân trong khuôn khổ APEC và song phương. Bộ Công Thương đã tổ chức dịch và phổ biến
tài liệu Những nguyên tắc cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử của APEC, phối hợp
với Bộ Thương mại và Hội đồng Thương mại Liên bang Hoa Kỳ tổ chức hai hội thảo về bảo vệ thông tin
cá nhân trong năm 2007 và 2008, v.v…
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã ý thức được tầm quan trọng và quan tâm tới vấn đề bảo vệ
thông tin cá nhân. Theo kết quả khảo sát năm 2008 của Bộ Công Thương, 18% trong số 132 doanh nghiệp
cho biết đã có quy chế bảo vệ thông tin cá nhân, 40% khác sẽ xây dựng quy chế trong tương lai gần. Tuy
chưa có quy định cụ thể đối với việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân của khách hàng nhưng các
doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bước đầu kết hợp các biện pháp về quản lý và công nghệ để bảo vệ thông
tin của khách hàng. 67% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết có triển khai cả hai nhóm giải pháp công
nghệ và quản lý để bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng.

5. Thanh toán điện tử tiếp tục phát triển nhanh và đang đi vào cuộc sống
Nếu như năm 2007 được đánh giá là năm đánh dấu bước phát triển nhanh chóng và toàn diện của
thanh toán điện tử, thì năm 2008 là năm thanh toán điện tử khởi sắc và thực sự đi vào cuộc sống.
Đối với hệ thống thanh toán ở tầm quốc gia, sau nhiều năm tích cực triển khai, ngày 8 tháng 11 năm
2008 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức đưa vào vận hành Hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng giai đoạn II. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đẩy mạnh công tác kết nạp thành
viên mới, mở rộng phạm vi hoạt động của Hệ thống. Dự kiến trong Quý 2 năm 2009, Hệ thống thanh toán
điện tử liên ngân hàng giai đoạn II sẽ được phủ sóng toàn quốc. Khi hoàn thiện, Hệ thống có khả năng xử
lý 2 triệu giao dịch thanh toán/ngày, góp phần quan trọng trong việc mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt
động thanh toán, chu chuyển vốn của nền kinh tế.
Dịch vụ thanh toán thẻ cũng có một năm phát triển tích cực. Đến hết năm 2008, các tổ chức ngân
hàng đã phát hành khoảng 13,4 triệu thẻ thanh toán, tăng 46% so với năm 2007. Toàn hệ thống ngân hàng
đã lắp đặt và đưa vào sử dụng 7.051 máy ATM, tăng trên 46% so với năm 2007, số lượng máy POS đạt
trên 24.000 chiếc. Hệ thống thanh toán của hai liên minh thẻ lớn nhất cả nước là Banknetvn và Smartlink
với trên 90% thị trường thẻ toàn quốc đã được kết nối liên thông.
Trong năm 2008, với sự năng động, tích cực của các ngân hàng và doanh nghiệp, một loạt dịch vụ
thanh toán điện tử với những giải pháp khác nhau đã xuất hiện. Đặc biệt số lượng website thương mại điện
tử cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến có sự phát triển nhảy vọt. Nếu năm 2007 chỉ có một vài website
thương mại điện tử cung cấp dịch vụ này thì năm 2008 đã có trên 50 website của các doanh nghiệp thuộc
nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như ngân hàng, hàng không, du lịch, siêu thị bán hàng tổng hợp,
v.v… triển khai thành công việc cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến cho khách hàng.
Theo Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán đã giảm
xuống còn 14% vào thời điểm cuối năm 2008, so với mức 18% của năm 2007.
Có thể khẳng định rằng, với sự phát triển mạnh mẽ của hạ tầng thanh toán điện tử và các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt trong năm 2008, giai đoạn 2009 – 2010 sẽ chứng kiến những sự thay đổi
sâu sắc trong hoạt động thanh toán tại Việt Nam.
Ngoài ra, hiện nay các Bộ, ngành đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy việc áp dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ, các
tiêu chuẩn chung sử dụng trong thương mại điện tử, đặc biệt là chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI và

ebXML). Tại Chương III của Báo cáo này sẽ cung cấp các thông tin tổng quan về tình hình phổ biến, xây
dựng và ứng dụng các tiêu chuẩn công nghệ hỗ trợ thương mại điện tử của các doanh nghiệp thuộc nhiều
lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Hội thảo về ứng dụng Thương mại điện tử trong doanh nghiệp
- Ngày 1/12/06, Viện tin học doanh nghiệp - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
phối hợp với Sở Bưu chính Viễn thông tổ chức buổi hội thảo “Ứng dụng thương mại điện tử trong doanh
nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển” tại tỉnh Đắklắk với mục tiêu đánh giá thực trạng ứng dụng
đồng thời cùng nhau đưa ra các giải pháp hỗ trợ nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh
cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
- Trong bối cảnh Việt Nam vừa chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
vấn đề ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp đang được Chính phủ cùng các doanh nghiệp hết
sức quan tâm. Hiện nay, tại hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới có đến 90% giá trị TMĐT là từ
loại hình doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business to Business). Theo kế hoạch phát triển tổng thể thương
mại điện tử (TMĐT) giai đoạn 2006-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2010, 60%
số doanh nghiệp lớn, 80% doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng TMĐT và 10% số hộ gia đình tham gia mua
bán qua TMĐT.
- Trong những năm gần đây, khung chính sách và pháp lý cho TMĐT ở nước ta đã hình thành và có
nhiều hoạt động hỗ trợ TMĐT, các hoạt động đào tạo nhân lực cũng đang đi vào chiều sâu. Cùng với sự
phát triển bùng nổ của CNTT và Internet, các ứng dụng trên đó cũng phát triển đa dạng và phong phú,
trong đó TMĐT phát triển với những phương thức khác nhau và phát triển nhanh. Vấn đề tồn tại lớn nhất
hiện nay của Việt Nam là hạ tầng để áp dụng TMĐT. Trong đó, những rào cản trong việc thanh toán qua
mạng, vấn đề bảo mật, an ninh mạng và đồng bộ hóa hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử, … đang đòi hỏi sự
đầu tư chiều sâu và phát triển bền vững.
- Tham dự buổi hội thảo có đại diện Bộ Bưu chính viễn thông, Cục ứng dụng CNTT, các công ty và
đơn vị cung cấp giải pháp như: NH Đầu tư và phát triển VN, Công ty AZ Solution, CMS, Trung tâm điện
toán và truyền số liệu KV3 (VDC3) cùng với hơn 200 doanh nghiệp trên địa bàn khu vực Tây Nguyên. Các
đại biểu đã cùng nhau thảo luận về thực trạng và sự cần thiết của việc ứng dụng TMĐT trong doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực Tây Nguyên. Đây là khu vực vẫn chưa thực hiện được một
dự án ứng dụng và triển khai TMĐT nào theo Quyết định 222/2005/QĐ-TTg.
- Thị trường TMĐT ở khu vực Tây Nguyên chủ yếu là các giao dịch hợp đồng hàng hóa theo tiêu

chuẩn trên các sàn giao dịch lớn như: NYBOT, LIFFE, CBOT, … thông qua trung gian môi giới là các
ngân hàng với các mặt hàng giao dịch chủ yếu là nông sản (cà phê, cao su, cacao). Điều này đã tạo nhiều
cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm và tiếp cận với các đối tác trên thế giới đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu trong khu vực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp tự tổ chức “sàn giao dịch thứ cấp”, với khá
nhiều rủi ro không lường trước được, dẫn đến thua lỗ, phá sản. Có nhiều nguyên nhân để giải thích nhưng
quan trọng nhất đó là do các doanh nghiệp chưa thật sự tìm hiểu kỹ về bản chất của TMĐT cũng như các
hoạt động giao dịch của nó.
- Hội thảo là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp được tìm hiểu và tiếp cận với nhiều giải pháp được
cung cấp bởi những công ty hàng đầu trong lĩnh vực CNTT của Việt Nam. Cũng tại hội thảo đã diễn ra lễ
ký kết thỏa thuận hợp tác chương trình hành động năm 2007 “Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục
vụ Hội nhập và phát triển” giữa Viện tin học Doanh nghiệp – VCCI và Sở Bưu chính Viễn thông – UBND
tỉnh Đắklắk.
- Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Thảo, Phó tổng thư ký VCCI, Viện trưởng viện tin học
doanh nghiệp (ITB), cho biết: “Việc ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu hội nhập và
phát triển cần thiết phải được thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất giữa các cấp chính quyền và các
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải thấy được tầm quan trọng của việc ứng dụng TMĐT và phải
nắm rõ khả năng của mình để từ đó lựa chọn được những giải pháp đúng đắn”.
Thực trạng Thương mại điện tử ở Việt Nam
Theo thống kê mới nhất, tính đến giữa năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 10 triệu người truy cập
Internet, chiếm gần 12,5% dân số cả nước. Tỷ lệ này cũng ngang bằng với tỷ lệ chung của toàn cầu năm
2004.
- Nếu cuối năm 2003 số người truy cập Internet ở Việt Nam là khoảng 3,2 triệu người, đến cuối năm
2004 con số này đã tăng lên gần gấp đôi, tức khoảng 6,2 triệu người, sáu tháng sau đó, con số này đã lên
đến hơn 10 triệu, dự đoán đến cuối năm 2005, số người Việt Nam truy cập Internet có thể lên đến 13 đến
15 triệu người, chiếm tỷ lệ 16% - 18% dân số cả nước. Những thống kê này cho thấy một tín hiệu lạc quan
về sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010.
- Theo thống kê của Vụ Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, đến cuối năm 2004, Việt Nam đã
có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp, trong đó số tên miền .vn (như .com.vn, .net.vn,...) đã tăng
từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm 2003) và 9.037 (năm 2004).
- Năm 2003, 2004 là năm các website sàn giao dịch B2B (marketplace), các website rao vặt, các siêu

thị trực tuyến B2C... đua nhau ra đời. Tuy nhiên, các website này vẫn còn phát triển hạn chế, chưa có
website nào thực sự phát triển đột phá vì nhiều nguyên do. Những mặt hàng được bán phổ biến trên mạng
tại Việt Nam hiện nay gồm: hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử, CD, VCD,
nhạc...), thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ. Các dịch vụ ứng dụng Thương mại điện tử nhiều
như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin (thông tin tổng hợp, thông tin chuyên ngành...), giáo dục và
đào tạo...
- Các doanh nghiệp cũng đã quan tâm nhiều hơn về việc lập website để giới thiệu thông tin, hỗ trợ
marketing, bán hàng qua mạng... Bảng sau minh họa kết quả khảo sát của Vụ Thương mại điện tử về quan
điểm của doanh nghiệp về tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác dụng của Website đối với Doanh nghiệp
Điểm (0 là thấp nhất, 4 là cao nhất)
Xây dựng hình ảnh công ty
3,2
Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có
2,9
Thu hút khách hàng mới
2,6
Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động
2,0
Tăng doanh số
1,9

×