Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945 1946) và bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao dĩ bất biến ứng vạn biến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.09 KB, 14 trang )

LƯU Ý: TẤT CẢ NHỮNG BÀI Ở ĐÂY ĐỀU LÀ BÀI MẪU NHẰM MỤC ĐÍCH
THAM KHẢO TỰ LÀM, NẾU MUỐN CÓ BÀI RIÊNG IB
0774220127 ZALO
Đề tài 1: Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945 - 1946) và
bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến" của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập.
MỤC LỤC …
A, PHẦN MỞ ĐẦU
……………..
B, PHẦN NỘI DUNG
Chương 1, Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945-1946).
Chương 2, Phương pháp ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Chương 3, bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”
của Chủ tịch Hồ Chi Minh trong thời kỳ hội nhập.
C, PHẦN KẾT LUẬN
………………

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Sau cuộc cách mạng tháng tám thành công, nước ta bước vào một thời kỳ
mới. Từ một dân tộc nô lệ và thuộc địa đã trở thành một dân tộc nắm chắc vận
mệnh của đất nước, của dân tộc trong tay. Tuy vậy nhưng đất nước ta cũng gặp
nhiều khó khăn sau khi độc lập. Trong giai đoạn năm 1945-1946 khơng thể khơng
nói đến nghệ thuật ngoại giao đỉnh cao của nước ta , luôn đi song hành với nghệ
thuật quân sự đỉnh cao. Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trong quá trình dựng
nước và giữ nước, ngoại giao đã được ông cha sử dụng như một mũi tiến công, một
1


binh chủng không thể thiếu. Bằng việc vận dụng một cách linh hoạt truyền thống
ngoại giao, cùng bản lĩnh dạn dày và kinh nghiệm phong phú qua hàng chục năm


hoạt động cách mạng, Bác đã để lại cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại nhiều tư
tưởng ngoại giao đặc sắc, trong đó có tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đây là
một trong những vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp
xây dựng đất nước thời kỳ hội nhập. Chính vì vậy để làm sáng tỏ về vấn đề này em
xin tìm hiểu đề tài “Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945 1946) và bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến"
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập”.
2.Mục đích nghiên cứu
Trong thời kì đổi mới, hội nhập, mục tiêu xây dựng đất nước vô cùng quan
trọng bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến" của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là cần thiết, vì thế cần nhìn nhận lại Chủ trương xây dựng và
củng cố chính quyền của Đảng (1945 - 1946) để đưa "dĩ bất biến ứng vạn biến"
trong đấu tranh ngoại giao.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của
Đảng (1945 - 1946) và bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao "dĩ bất biến
ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với phương pháp luận là quan điểm của ĐCSVN đi tìm hiểu sâu về Chủ trương
xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945 - 1946) và bài học kinh nghiệm
về đấu tranh ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
thời kỳ hội nhập giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu ln đi đúng hướng và hiệu
quả. Kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính khi nghiên cứu đề tài này.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần : Phần mở đầu
2


Phần nội dung : gồm 3 phần
Chương1. Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945-1946).

Chương 2. Phương pháp ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Chương 3. Bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”
của Chủ tịch Hồ Chi Minh trong thời kỳ hội nhập.
Phần kết luận
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (19451946).
1.1. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 1945-1946.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi với
nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của
mình. Ở phe Đồng Minh, quan hệ giữa các nước lớn dần chuyển từ hợp tác trong
chiến tranh sang đối đầu trong hịa bình. Trật tự thế giới thay đổi, hình thành hệ
thống hai cực, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là
sau khi tổng thống Truman lên cầm quyền (T4-1945), dựa vào vị trí là quốc gia
mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, chủ nợ
chính của phần lớn các quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời chiến, mưu đồ làm bá
chủ thế giới. Để thực hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới của mình, hoạt
động ngoại giao của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào cách
mạng thế giới, chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa
nhằm thốt khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Liên xô sau chiến tranh, trở
thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và
vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xơ vẫn đóng một vai trò quyết định cùng Mỹ giải quyết
những vấn đề lớn về hịa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới.

3


Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố
lại hệ thống thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng trong thế
suy yếu, chính trị khơng ổn định nên cần phải nhanh chóng khơi phục lại nền kinh
tế, ổn định chính trị và duy trì vai trị cường quốc sau chiến tranh. Để làm được như

vậy, Anh và Pháp phải bảo vệ được hệ thống thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của
mình.
Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến tranh
xâm lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô cùng mạnh
mẽ.
Các cuộc đấu tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều
có chung một xu hướng là hướng tới lật độ ách thống trị bên ngồi, giải phóng đất
nước vốn và thuộc địa của đế quốc, thực dân phương Tây. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước này dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới.
Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946 có
nhiều diễn biến phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mỗi quan hệ quốc tế
và có tác động trực tiếp đến tình hình ở Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước giai đoạn 1945-1946.
Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra thời cơ và tiên đoán thời điểm cách mạng nước ta thành công
“1945 – Việt Nam độc lập”. Người kêu gọi đồng bào cả nước: “Phe xâm lược gần
đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng.
Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp, ta phải làm nhanh!” Tới tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng Cộng sản Đơng Dương do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu – cuộc cách mạng
nổ ra và giành được thắng lợi. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời mở ra một
kỷ nguyên mới cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội đang rối loạn, suy sụp sau chiến
4


tranh. Nạn khan hiếm lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa lại hậu quả
trong những năm 1945, có hơn hai triệu người chết đói; mọi hoạt động sản xuất,
kinh tế, tài chính, thương mại đình đốn. Hệ thống ngân hàng Đông Dương vẫn

trong tay tư bản Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng cho lưu hành đồng tiền mất giá
của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và tiền Đông Dương, làm lũng
đoạn thị trường ở miền Bắc; chính sách ngu dân của thực dân Pháp làm cho 95%
dân ta mù chữ.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối phó với
nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước ta. Ở phíaBắc,
gần 2000 quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật
từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc.
Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt Cách, Việt Quốc do chính
quyền Tưởng thu nạp và ni dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt Nam lúc này cũng có
khoảng 26 nghìn qn Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật. Tháng 10/1945, Anh
đã ký với Pháp hiệp định chính thức cơng nhận quyền dân sự của Pháp tại Đông
Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định trao quyền cho Pháp giải giáp quân đội
Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp nhân nhượng cho Anh một số quyền
lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng
Đơng Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và
tân binh nằm rải rác ở các miền phụ cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính
Pháp bị Nhật giam giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945
được thả và vũ trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp được gấp rút đưa vào
miền Nam. Ngày 23/9/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt Nam lần 2. Ngồi ra,
cịn khoảng 60 nghìn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này.
Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta (Nhật, Anh, Pháp
và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc giải giáp cho
Đơng Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền cách mạng, lập lại
5


trật tự của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn tổng thể về kinh tế, tài chính, quân
sự, tương quan lực lượng giữa ta và các thế lực thù địch từ bên ngồi vào có sự

chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “châu chấu đá xe”.
1.3. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền.
Tình thế lúc này được những người trong cuộc và những người chép sử gọi là
“ngàn cân treo sợi tóc”. Thực sự khơng có hình tượng nào phản ánh đúng hơn.
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vơ cùng sáng
suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng và
củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách mạng
xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng,
góp phần giữ vững thành quả cách mạng.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa: chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần
của nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ,
thuế đò và cấm thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.
Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và
sẵn sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam) cương
quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân
tộc Việt Nam vào vịng nơ lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào
nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết,
trong đó về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và
chính trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các phố;
thi hành thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết định…
Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các
ủy ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. Theo đó,
mỗi ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư ký, một
6


ủy viên phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính, một ủy viên

phụ trách quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân
dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn
các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”.
Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài
chính phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược.
Trong một tuần, nhân dân quyên góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và 370
ký vàng. Khi Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông
Dương nhưng chỉ thu được 1,25 triệu đồng Đông Dương mà trong đó phần lớn là
tiền rách nát! Điều đó cho thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế nào.
Để đối phó với sự cơng kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản
Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời thành lập
Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.
Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động
cách mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở
rộng mặt trận đoàn kết tồn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban cơng
nhân (sau đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu quốc, Tự
vệ chiến đấu (kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng đạo); tổ chức
Phụ nữ cứu quốc; tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng thời hình thành
nhiều tổ chức quần chúng khác như Công thương cứu quốc đồn, Cựu binh sĩ cứu
quốc đồn, Liên đồn Cơng giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc…
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến
quốc (mật), nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên
“chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp
xâm lược”, đồng thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến Quốc hội
để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”.

7



Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong
cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu và chọn ra 333 đại biểu. Hai Đảng đối lập
trong Chính phủ là Việt Quốc và Việt Cách không tham gia bầu cử; trong kỳ họp
thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng này, nâng tổng
số đại biểu là 403. Cuộc bầu cử đã được tồn dân nơ nức tham gia; dù diễn ra trong
điều kiện chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và sự hạn chế đi lại
nhưng có đến 89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam bộ, cuộc bầu cử đã
có đổ máu, với ít nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã
cơng nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu;
với hai đảng đối lập, Việt Quốc nắm một số bộ gồm Kinh tế, Ngoại giao, Việt Cách
nắm chức Phó Chủ tịch Chính phủ, Bộ Xã hội, Y tế, Cứu tế - Lao động, Canh nơng.
Sau đó, Quốc hội đã thơng qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai. Đối với vấn
đề ngoại xâm, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp, đồng ý
cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Đến tháng 6/1946,
toàn bộ quân Tưởng rút khỏi Việt Nam; bọn phản động mất chỗ dựa nên ra sức
chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp đã mưu toan đảo chính lật đổ
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7/1946, âm mưu của chúng bị vạch
trần, thơng qua sự kiện vụ án phố Ơn Như Hầu. Vụ phá án đã đập tan cuộc đảo
chính phản cách mạng, làm tan rã hệ thống tổ chức của một đảng
phản động, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn phản động bên trong với
thế lực xâm lược bên ngồi.
Có thể thấy, việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh
đạo của Đảng là hết sức ngoạn mục, vừa chớp được thời cơ, vừa giành thắng lợi
trọn vẹn, vừa hạn chế tối đa đổ máu. Các diễn biến tiếp theo đó trong việc giữ vững
thành quả cách mạng cũng ngoạn mục khơng kém, khi chính quyền non trẻ đã phải
cùng lúc đương đầu với rất nhiều kẻ thù, rất nhiều thử thách khốc liệt. Nhưng dưới
sự sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, đứng đầu là Chính phủ Hồ Chí Minh, chính
quyền cách mạng khơng những được giữ vững mà cịn khơng ngừng được củng cố
8



và phát triển.
Chương 2: Phương pháp ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự hội nghị
Phông-ten-nơ-blô (tháng 5-1946) trong điều kiện chính quyền cách mạng Việt Nam
cịn non trẻ và đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Lời huấn thị đó của Người
khơng chỉ giúp chúng ta đề ra phương hướng, cách thức quản lý, điều hành đất
nước, giải quyết tốt vấn đề “thù trong, giặc ngoài”, giữ vững nền độc lập, chính
quyền cách mạng lúc bấy giờ.
Trong những năm 1945-1946, trên nguyên tắc "dân tộc trên hết”, “Tổ quốc
trên hết”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước đi sách lược khơn
khéo, phân hố cao độ kẻ thù, tạm thời hồ hỗn với quân Tưởng để giữ vững chính
quyền, tạo điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm
mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch, tích cực
đấu tranh bảo tồn nền độc lập, tự do quý báu vừa mới giành được. Nhưng để cứu
vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cách
mạng thuộc địa, Pháp – Tưởng đã ký kết Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), mua
bán, trao đổi lợi ích, "bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa
– Pháp", đặt nhân dân ta trước những thử thách mới, đòi hỏi phải có quyết định
tỉnh táo, đúng đắn. Sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc,
Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp được ký kết, thể hiện sự mềm dẻo về sách lược, linh
hoạt trong đấu tranh, nhưng hướng đích, kiên định độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia. Đây là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời
gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với
kẻ thù chính là thực dân Pháp. Đó cũng là cái cách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta nhìn nhận thấu đáo quan hệ biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn
biến", đã cân nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một cách cẩn trọng, trong hai con
đường đi đến độc lập, “đã chọn con đường đỡ hao tổn mà cũng chắc chắn hơn”.
9



Tháng 7-1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu’’, Việt Nam đi tới bàn đàm phán của Hội nghị Geneva với tư thế của một dân
tộc chiến thắng. Tuy nhiên, trước việc các nước lớn đã tác động đến tiến trình giải
quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đồng thời do thế và lực của cách
mạng Việt Nam cịn có những hạn chế nhất định, Việt Nam đã có những nhân
nhượng cần thiết để Hội nghị đạt được các thoả thuận cuối cùng, nhằm lập lại hồ
bình trên bán đảo Đơng Dương, góp phần làm dịu tình hình châu Á. Thắng lợi của
Hiệp định Geneva là ở chỗ chúng ta có nửa nước được giải phóng, buộc đối
phương phải thừa nhận cái bất biến là quyền độc lập cơ bản, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Điều quan trọng hơn là phần chìm của việc ký kết Hiệp định – nửa nước
có hịa bình tạo tiền đề quan trọng cho chúng ta bước tiếp những bước dài vững
chắc trên chặng đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng, thực hiện chiến lược “đánh cho
Mỹ cút”, tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”. Hiệp định Geneva là một điển hình sống
động của triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giành thắng
lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, mang đậm dấu ấn và bản sắc Việt
Nam.
Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, nửa nước khơng cịn
bóng ngoại xâm, song cả dân tộc vẫn chịu chung nỗi đau chia cắt. Xâm lược Việt
Nam, cắt chia một đất nước ln gắn bó hữu cơ, đế quốc Mỹ thách thức ý chí
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, thách thức ý chí thống nhất non sơng của
tồn thể dân tộc Việt Nam. Kết thành một khối thống nhất, nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc kháng chiến tự vệ chính nghĩa, phấn đấu vì một ngày mai, ngày miền
Nam hồn tồn giải phóng, Tổ quốc hồ bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một
nhà. Đương đầu với đế quốc Mỹ - một kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần về tiềm lực
kinh tế, quân sự, trong lịch sử 200 năm lập nước chưa hề nếm mùi bại trận, trên tinh
thần “tự lực cánh sinh là chính”, Việt Nam ra sức tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhất
là sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Trong quá trình ấy, kết hợp đánh – đàm,
kéo địch đến bàn đàm phán, dẫn đến ký kết Hiệp định Paris - kết quả của cuộc đàm

10


phán lâu dài nhất, khó khăn, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao của nước nhà.
Hiệp định Paris đạt tới đỉnh cao triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi Mỹ buộc
phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất của dân tộc, buộc phải cam
kết rút qn và khơng can thiệp trở lại, cịn chúng ta vẫn giữ nguyên lực lượng
chính trị, vũ trang của ta ở miền Nam, tạo cục diện chính trị và chiến trường thuận
lợi để đi tới thắng lợi triệt để, thực sự. Nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững
và biết cách tạo thời, tạo thế, thắng lợi của Hiệp định Paris là thắng lợi của nền
ngoại giao nhân văn Việt Nam trước nền ngoại giao trên thế mạnh của đế quốc Mỹ,
cũng có nghĩa là chúng ta đã “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, biến nghịch thành thuận,
biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách mạng.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn
biến” của Chủ tịch Hồ Chi Minh trong thời kỳ hội nhập.
Tiếp nối lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao ngàn
năm lịch sử của cha ông, “dĩ bất biến ứng vạn biến” vẫn tiếp tục là bản sắc ngoại
giao tiêu biểu của Việt Nam.
Tính bất biến của bản sắc ngoại giao Việt Nam được thể hiện đậm nét trong
đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng. “Đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia-dân
tộc” ln là mục tiêu bất biến, kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt
động đối ngoại và cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh
mới. Tuy nhiên, để quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế sẽ đòi hỏi những biện pháp “ứng vạn biến”. Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ
bao gồm giảm sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lơi kéo, chi phối, mà cịn là nêu cao,
phát huy tính chủ động trong tham gia vào công việc chung của khu vực và quốc
tế.Từ nhận thức đúng đắn về cái “bất biến” và cái “vạn biến”, Đảng và Nhà nước đã
xây dựng và triển khai nhiều chủ trương, chính sách đối ngoại linh hoạt, phù hợp:
Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là đối tác tin cậy, thành viên
có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; từ quan niệm “địch”, “ta”, chuyển sang

cách nhìn nhận về đối tác, đối tượng. Những thay đổi, điều chỉnh đó đã tạo cho
11


Việt Nam một sức mạnh đối ngoại mềm dẻo, được các nước trên thế giới đánh giá
cao.
Năm 2020, đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh đại dịch Covid19 bùng phát mạnh, Việt Nam đã có những cách thức “ứng vạn biến” kịp thời như
chuyển trọng tâm ưu tiên của chương trình nghị sự sang phịng chống dịch với
nhiều đề xuất và sáng kiến hiệu quả.
Theo sáng kiến của Việt Nam, ASEAN đã xây dựng cơ chế điều phối, hợp tác,
tổ chức nhiều cuộc họp trực tuyến của ASEAN ở các cấp, các ngành, đặc biệt là Hội
nghị Cấp cao ASEAN về Covid-19 ngày 14/4, đề ra nhiều biện pháp cụ thể như lập
Quỹ ứng phó Covid-19, lập kho y tế dự phịng, lập Quy trình chuẩn về ứng phó dịch
bệnh, xây dựng kế hoạch phục hồi của ASEAN. ASEAN cũng mở nhiều cuộc họp
trực tuyến với đối tác Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nga... để thúc đẩy hợp
tác quốc tế ứng phó với Covid-19, hỗ trợ khắc phục tác động của dịch bệnh. Kết
quả, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác, thực hiện thành cơng nhiệm vụ
“bất biến”, đó là “vừa tập trung phịng chống dịch bệnh Covid-19, vừa tiếp nối các
nỗ lực xây dựng Cộng đồng, tập trung triển khai những trọng tâm ưu tiên hợp tác
đề ra trong năm 2020”. Nhờ linh hoạt áp dụng tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến”,
Việt Nam đã trở thành một điểm sáng về nỗ lực ứng phó với dịch Covid-19 trong
nước và khu vực, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Gần đây, xung đột Nga-Ukraine là một bước ngoặt lớn trong quan hệ quốc tế
hiện đại. Trước diễn biến chính trị quốc tế mới này, Việt Nam đã vận dụng phương
châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong cách ứng xử của mình tại Đại hội đồng Liên
hợp quốc. Ba lần Đại hội đồng tổ chức bỏ phiếu về vấn đề Ukraine, mỗi lần về một
chủ đề, mục đích khác nhau; đây chính là “vạn biến”. Tương ứng, ba lần Việt Nam
cũng bỏ lá phiếu khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam ln khẳng định lập trường nhất
qn của mình, khi không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn
đứng về lẽ phải, công lý, luật pháp quốc tế. Đây chính là “bất biến”.


12


“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ là nguyên tắc, phương pháp có giá trị
lịch sử, ý nghĩa đối với Việt Nam trong đấu tranh cách mạng, mà còn là nguyên tắc
để giải quyết hiệu quả những vấn đề mới với công tác đối ngoại của Việt Nam ở
quá trình hội nhập hiện nay. Bối cảnh cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước cần quyết tâm ở mức cao nhất, cùng sự nỗ lực của tồn dân để vượt qua
thách thức, biến khó khăn thành cơ hội để phát triển. 76 năm đã trôi qua, song lời
dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cịn ngun giá trị
và đã, đang được Đảng, Nhà nước và công tác đối ngoại vận dụng sáng tạo trong
công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
C.PHẦN KẾT LUẬN
Có thể nói cách mạng Việt Nam thắng lợi phần lớn là nhờ có phương pháp
cách mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt phương châm “Dĩ bất biến
ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Trong cơng cuộc xây dựng đất nước ngày nay, vận
dụng phương châm này vào công tác hàng ngày đó là việc nắm vững đường lối chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sáng tạo ra các
hình thức, biện pháp để hoàn thành tốt nhiệm vụ .
Trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, vận dụng
“bất biến” tức là khơng vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá
nhân nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc,
của tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế cũng phải ln “ứng vạn biến”, biết phân tích, dự đốn và mau lẹ chớp lấy
thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho
quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta./.


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2000, t.8, tr.5,6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.103.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2009, t.4, tr.56,58
3.Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia.

14



×