Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Hợp đồng vay tài sản theo bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.58 KB, 6 trang )

MỞ ĐẦU
Với đời sống hiện tại, mỗi chúng ta đôi lúc đều phải cần vay mượn gì đó từ
người khác. Và liệu các hoạt động vay tài sản có ln ln hợp pháp? Bộ luật
dân sự 2015 quy định gì về vấn đề trên. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, tôi đã
chọn "Hợp đồng vay tài sản theo Bộ luật dân sự 2015" làm đề tài cho bài tiểu
luận của mình.
I. Khái quát chung về hợp đồng vay tài sản
1. Khái niệm hợp đông vay tài sản
Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn
trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định.” Vậy theo bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng vay tài sản là một loại giao
dịch dân sự chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên cho vay sang cho bên vay. Đồng
thời hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, do đó phải có ý chí giữa
bên vay và bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản. Chính vì thế mà hợp đồng
vay tài sản không thể phát dinh do hành vi pháp lý đơn phương.
2. Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
Một là căn cứ chuyển quyền sở hữu: theo điều 464 bộ luật dân sự 2015 thì
tại thời điểm chuyển giao tài sản bên vay trở thành chủ sở hữu của tài sản. Điều
này cũng có nghĩa là tại thời điểm chuyển giao tài sản thì bên vay có đầy đủ 3
quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt với tài sản vay. Đây là một đặc điểm
dẫn tới quy định đối tượng của tài sản vay phải là vật cùng loại.
Hai, hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng có đền bù hoặc khơng có đền
bù. Hợp đồng vay tài sản có đền bù khi bên vay phải trả cho bên cho vay một
khoản lợi ích vật chất nhất định. Đó chính là khi mà hợp đồng cho vay là hợp
đồng cho vay có lãi và mức lãi suất sẽ do các bên thỏa thuận nhưng không trái
với quy định của pháp luật để tránh tệ nạn cho vay nặng lãi. Ngược lại, hợp
đồng vay tài sản là hợp đồng khơng có đền bù khi hợp đồng vay tài sản là hợp
đồng vay khơng có lại. Trong hợp đồng vay này, bên vay chỉ phải trả cho bên



cho vay tài sản cùng loại với tài sản đã vay đúng thời hạn. Nếu bên vay chậm trả
thì bên cho vay có quyền yêu cầu lãi chậm trả theo quy định của bộ luật dân sự.
Ba là hợp đồng thực tế hoặc hợp đồng ưng thuận. Hợp đồng vay tài sản là
hợp đồng ưng thuận khi hiệu lực hợp đồng phát sinh kể từ khi hai bên đã giao
kết xong hợp đồng và hợp đồng thực tế khi hai bên chuyển giao tài sản.
Bốn là, hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng đơn vụ hoặc song vụ. Là
hợp đồng đơn vụ trong trường hợp hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực tế. Bởi
vì hợp đồng thực tế phát sinh hiệu lực khi chuyển giao tài sản. Mà khi chuyển
giao tài sản thì bên vay sẽ xác lập quyền sở hữu tài sản với tài sản vay. Nên khi
đó chỉ có bên vay có nghĩa vụ với bên cho vay còn bên cho vay đã thực hiện hết
nghĩa vụ trước khi giao tài sản cho bên vay. Còn ngược lại, là hợp đồng song vụ
khi hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận. Bởi hiệu lực hợp đồng ưng
thuận phát sinh khi 2 bên đã giao kết xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng
nên khi đó bên cho vay vẫn cịn nghĩa vụ với bên vay trược khi giao tài sản nên
đó là hợp đồng song vụ.
3. Về đối tượng của hợp đồng:
Theo bộ luật dân sự 2015 thì đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tiền hoặc
vật cùng loại. Bởi vì khi chuyển giao tài sản, bên vay sẽ có quền sở hữu đối với
tài sản. Tức là họ có đầy đủ 3 quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản. Mà khi họ đã có quyền định đoạt tài sản thì tài sản đó có thể khơng cịn,
hoặc được chuyển giao cho người khác nên nó khơng thể là vật đặc định mà
phải là vật cùng loại.
4. Về hình thức hợp đồng
Hình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng lời nói hoặc văn bản. Quy
định này là hợp lý bởi vì các bên vay tài sản có thể có quen biết hoặc không
quen biết nhau từ trước. Nên khi các bên trong quan hệ vay tài sản mà thân
thuộc với nhau thì họ sẽ ngại chuyện giao kết bằng văn bản và đơi khi trong tình
thế cấp bách họ khơng có thời gian để lập hợp đồng văn bản. Tuy nhiên quy
định này vẫn cịn chưa chặt chẽ, bởi vì nếu các bên vay tài sản khơng có hợp

đồng bằng văn bản mà nếu có tranh chấp thì tịa án khó có thể xác định được


tình hình của vụ việc như thế nào, lãi xuất khi các bên thỏa thuận thực tế có
đúng như họ khai hay không
2. Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay tài sản:
2.1 Nghĩa vụ của bên cho vay (Điều 465 BLDS 2015):
(1) Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời
điểm và địa điểm đã thỏa thuận.
(2) Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không bảo
đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà
vẫn nhận tài sản đó.
(3) Khơng được u cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp
quy định tại Điều 470 của BLDS 2015 hoặc luật khác có liên quan quy định
khác. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản
2.2. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay (Điều 466 BLDS 2015):
(1) Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật
thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
(2) Trường hợp bên vay khơng thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá
của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
(3) Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
(4) Trường hợp vay khơng có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc
trả khơng đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất
theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương
ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
(5) Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không

đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:


Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời
hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì cịn phải trả lãi theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
=> Khoản 4 Điều 474 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp vay khơng
có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả
thuận.” Theo quy định này trong hợp đồng vay không lãi, khi vi phạm nghĩa vụ
trả nợ, bên vay chỉ phải trả lãi đối với khoản chậm trả trong trường hợp các bên
có thỏa thuận về vấn đề này, quy định này không hợp lý bởi trong hợp đồng vay
không lãi bên cho vay đã thể hiện thiện chí và sự tin tưởng đối với bên vay khi
khơng tính lãi suất trong thời hjan vay, việc đòi hỏi bên cho vay phải dự tính đến
trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ và phải trả lãi suất trong trường hợp này là
không thực tế. BLDS 2015 đã sửa đồi điều khoản này hợp lý hơn: “Trường hợp
vay khơng có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì
bên cho vay có quyền u cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả trước”
Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
=> Khoản 4 Điều 474 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp vay khơng
có lãi mà khi đến hạn bên vay khơng trả nợ hoặc trả khơng đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả
thuận.” Theo quy định này trong hợp đồng vay không lãi, khi vi phạm nghĩa vụ
trả nợ, bên vay chỉ phải trả lãi đối với khoản chậm trả trong trường hợp các bên

có thỏa thuận về vấn đề này, quy định này không hợp lý bởi trong hợp đồng vay
không lãi bên cho vay đã thể hiện thiện chí và sự tin tưởng đối với bên vay khi
khơng tính lãi suất trong thời hjan vay, việc địi hỏi bên cho vay phải dự tính đến


trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ và phải trả lãi suất trong trường hợp này là
không thực tế. BLDS 2015 đã sửa đồi điều khoản này hợp lý hơn: “Trường hợp
vay khơng có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì
bên cho vay có quyền u cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian
chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Như
vậy theo quy định mới bên việc trả lãi chậm trả khơng cần có sự thỏa thuận
trước như quy định cũ.
> Về nghĩa vụ trả lãi trong hợp đồng vay có lãi: BLDS 2005 quy định tại
Khoản 5 Điều 474: “…lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.” Theo quy định
này, sự vi phạm nghĩa vụ lại có khả năng chịu trách nhiệm thấp hơn trách nhiệm
mà các bên đã thỏa thuận (lãi suất do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tài
sản không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, trong khi lãi suất quá hạn chỉ giới hạn
theo lãi suất cơ bản). BLDS 2015 quy định hợp lý hơn: “Lãi trên nợ gốc quá hạn
chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm
trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
3. Lãi suất của hợp đồng vay (Điều 468 BLDS 2015):
Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi
suất thì lãi suất theo thỏa thuận khơng được vượt quá 20%/năm của khoản tiền
vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực
tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều
chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định
tại khoản này thì mức lãi suất vượt q khơng có hiệu lực.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng khơng xác định rõ
lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi
suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 tại thời điểm trả nợ (tức
10%/năm tương ứng với 0.83 %/ tháng)
4. Thực hiện hợp đồng vay tài sản:


4.1. Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn (Điều 469 BLDS 2015):
Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và khơng có lãi thì bên cho vay có
quyền địi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng
phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
Đối với hợp đồng vay khơng kỳ hạn và có lãi thì bên cho vay có quyền địi
lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý
và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại
tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng
phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý.
4.2. Thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn (Điều 470 BLDS 2015):
Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và khơng có lãi thì bên vay có quyền trả lại
tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp
lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng
ý.
Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản
trước kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.



×