Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hợp đồng vay tài sản qua thực tiễn giải quyết tranh chấp tại TAND quận Hai Bà Trưng – thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.7 KB, 83 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH


HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG



Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH


HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG


Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phùng Trung Tập




HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.

Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


NGƯỜI CAM ĐOAN






Đỗ Thị Hồng Hạnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS
: Bộ luật Dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê các vụ dân sự và kinh doanh thƣơng mại về
tranh chấp hợp đồng vay tài sản đƣợc TAND quận Hai
Bà Trƣng thụ lý từ năm 2009 đến năm 2013

35
2.2
Thống kê các vụ án kinh doanh thƣơng mại về tranh chấp
hợp đồng vay tài sản đƣợc TAND quận Hai Bà Trƣng
thụ lý từ năm 2009 đến năm 2013

35
2.3
Số liệu các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản có chủ
thể là cá nhân, tổ chức, ngân hàng từ năm 2009 đến năm
2013

41


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ
ĐẦU………………………….………………………………………
1
Chƣơng 1: Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản và sơ lƣợc một số
nét về Quận Hai Bà Trƣng – thành phố Hà Nội…………………….

8
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản……………
8
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng vay tài sản………………………
8
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản………………………….
11
1.1.3. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản………
14
1.2. Chủ thể, hình thức, đối tƣợng, thời hạn, lãi suất trong hợp
đồng vay tài sản…………………………………………

16
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản…………………
16
1.2.2. Hình thức của hợp đồng vay tài sản……………………….
20
1.2.3. Đối tƣợng của hợp đồng vay tài sản……………………….
22
1.2.4. Thời hạn của hợp đồng vay tài sản………………………
24

1.2.5. Lãi suất của hợp đồng vay tài sản…………………………
25
1.3. Sơ lƣợc về đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội trên
địa bàn quận Hai Bà Trƣng – thành phố Hà Nội……………….

30
Chƣơng 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản của
TAND quận Hai Bà Trƣng – thành phố Hà Nội……………………….

33
2.1. Nhận xét chung…………………………………………………
33
2.2. Những kết quả đạt đƣợc trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND quận Hai Bà Trƣng trong 5 năm gần đây
(2009 – 2013)………………………………………………….

36
2.2.1. Các trƣờng hợp công nhận sự thỏa thuận của các đƣơng
sự….
36
2.2.2. Các trƣờng hợp đình chỉ giải quyết vụ án………………….
37
2.2.3. Các trƣờng hợp xét xử……………………………………
38
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản của TAND quận Hai Bà Trƣng……………….

41
2.3.1. Về chủ thể…………………………………………
41

2.3.2. Về đối tƣợng ………………………………………………
43
2.3.3. Về hình thức………………………………………….…….
48
2.3.4. Về lãi suất………………………………………………….
52
2.3.5. Về hợp đồng vay có các biện pháp bảo đảm……………….
57
2.3.6. Xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với hợp
đồng vay tài sản………………………………………….

61
2.3.7. Sự biến tƣớng của hợp đồng vay tài sản. ………………….
62
2.4. Một số hạn chế trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản của TAND quận Hai Bà Trƣng và nguyên nhân…


64
2.4.1. Một số hạn chế trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND quận Hai Bà Trƣng…………

64
2.4.2. Nguyên nhân………………………………………
65
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
hợp đồng vay tài sản…………………………

68
3.1. Về đối tƣợng…………………………………………………

69
3.2. Về hình thức………………………………………………….
70
3.3. Về lãi suất……………………………………………………
70
3.4. Về bên vay là hộ gia đình……………………………………
72
KẾT LUẬN………………………………………………………….
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………
75



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, việc xây dựng Nhà nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hƣớng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân là một trong những nhiệm vụ lớn của Đảng
và Nhà nƣớc ta.
Trong Nhà nƣớc pháp quyền, tƣ pháp có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hoạt động của Tòa án đƣợc xác định là trung tâm có vai trò quan trọng trong
hệ thống cơ quan tƣ pháp và là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nƣớc tiến
hành các hoạt động xét xử các loại án nói chung và án dân sự nói riêng. Hoạt
động xét xử trong những năm gần đây cho thấy các vụ án dân sự ngày càng
tăng về số lƣợng và tính chất ngày càng phức tạp, trong đó có các loại án về
tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Quan hệ vay tài sản là một loại quan hệ dân

sự diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
Nhà nƣớc cho phép các cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau đƣợc tự do, sản xuất, kinh doanh theo quy định pháp luật và không bị
hạn chế về vốn, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc huy
động vốn trong kinh doanh đã trở nên hết sức sôi động. Việc vay vốn diễn ra
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức và đặc biệt là giữa cá
nhân, tổ chức với các tổ chức tín dụng, Ngân hàng đang là một loại án diễn ra
phổ biến hiện nay trong tổng số các vụ án dân sự mà Tòa án thụ lý, giải
quyết. Những tranh chấp về lãi suất, phƣơng thức thanh toán diễn ra theo sự
tăng lên về số lƣợng và giá trị của các hợp đồng vay ngày càng lớn. Hiện nay,
việc giải quyết các tranh chấp về dân sự của Tòa án đã góp phần quan trọng
trong việc giải quyết đƣợc những mâu thuẫn trong các quan hệ dân sự. Hầu
hết các bản án, quyết định của Tòa án đƣợc ban hành đúng pháp luật, thấu
2

tình, đạt lý và có tính giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân.
Điều này đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
và các tổ chức.
Là một trong những Tòa án lớn, có số lƣợng án nhiều nhất trong hệ
thống Tòa án thủ đô, số lƣợng vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản ở
TAND quận Hai Bà Trƣng trong những năm qua có xu hƣớng ngày càng
tăng. Mỗi vụ án có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác nhau nên
việc giải quyết loại án này gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận dụng
pháp luật cũng nhƣ những khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết TAND quận Hai Bà Trƣng đã đạt đƣợc những kết quả nhất
định, góp phần vào việc giải quyết số lƣợng án và nâng cao tỷ lệ giải quyết
của đơn vị và của toàn ngành. Thông qua việc giải quyết vụ án đã góp phần
giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự, giữ gìn kỷ cƣơng pháp luật, ổn định chính trị, trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng. Đồng thời, thông qua việc giải
quyết án, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nảy sinh trong
lĩnh vực dân sự vay tài sản, còn phổ biến, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp
luật cho nhân dân. Ngoài ra, qua thực tiễn giải quyết án vay tài sản sẽ phát
hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung
pháp luật cho phù hợp với những đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn
cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc trong quá trình giải quyết các tranh
chấp dân sự vẫn còn những thiếu sót nhƣ có những vụ án còn để tồn đọng,
kéo dài, vi phạm thời hạn tố tụng, có những vụ án còn bị sửa, hủy, đặc biệt có
những vụ án bị hủy nhiều lần, kéo dài nhiều năm gây ảnh hƣởng đến quyền
lợi của các bên đƣơng sự. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
3

trạng bức xúc, khiếu nại vƣợt cấp trong nhân dân. Tồn tại trên ảnh hƣởng tới
quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, xây dựng nền tƣ pháp vững mạnh,
trong sạch.
Do vậy, với mong muốn nghiên cứu và phân tích những tồn tại để đƣa
ra những giải pháp khắc phục nhằm góp phần giải quyết các tranh chấp về
hợp đồng vay tài sản ở TAND quận Hai Bà Trƣng nói riêng và ngành TAND
nói chung trong thời gian gần, tác giả đã chọn đề tài "Hợp đồng vay tài sản
qua thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà
Trưng" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết các vụ án dân sự nói chung và giải quyết án về hợp đồng
vay tài sản nói riêng đã đƣợc các nhà khoa học pháp lý và nhất là những
ngƣời trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến một số khía cạnh về
những vấn đề liên quan đến đề tài. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu
sau: “Hợp đồng vay tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ

Luật học, của Bùi Kim Hiếu, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2007; “Hợp
đồng vay tài sản theo qui định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận văn
thạc sỹ Luật học, của Nguyễn Hƣơng Lan, Khoa luật Trƣờng Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2012; Với đề tài này, tác giả đã nghiên cứu các quy định của
pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản, trong đó đi sâu nghiên cứu vấn đề
lý luận và nội dung các quy định pháp luật, qua đó chỉ ra các bất cập và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Hay nhƣ, một số giáo trình, sách
khoa học nhƣ "Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Luật Dân sự",
của TS. Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; "Giáo
trình Luật Dân sự", Tập 2, của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, 2006. Ngoài ra, phải kể đến một số bài báo trên các tạp chí chuyên
4

nghành nhƣ bài viết “Một số vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản”,
của Dƣơng Quốc Thành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2004; "Cần sửa đổi,
bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài sản", của Nguyễn Minh Oanh, Tạp
chí Luật học, số 11/2003;"Một số vướng mắc trong việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản liên quan đến trả lãi và lãi suất", của Trần Văn
Biên, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11/2001; "Hậu quả pháp lý của hợp
đồng vay tài sản bị vô hiệu một phần", của Thanh Thủy, Tòa Dân sự Tòa án
nhân dân tối cao (21/12/2004); “Một số ý kiến góp ý cho các quy định của Dự
thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về hợp đồng vay tài sản", của Trần Văn Biên -
Viện Nhà nƣớc và pháp luật, 26/12/2008; " Về chế định hợp đồng vay tài
sản", của Trần Văn Biên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004. “Có thỏa
thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, thỏa thuận lãi chồng lãi trong hợp đồng
vay tài sản, hợp đồng tín dụng không?”, của Tƣởng Duy Lƣợng, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 24/2013 và số 1/2014; “Vướng mắc trong việc giải quyết yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán trong hợp đồng dân sự và
thương mại ở Việt Nam”, Nguyễn Thanh Tùng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
21/2013; “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín

dụng và hợp đồng vay tiền”, Đoàn Đức Lƣơng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
20/2013; “Những bất cập trong quy định của pháp luật về quy trình, thủ tục
giao kết hợp đồng điện tử và một số giải pháp đề xuất”, Đặng An Thanh, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 7/2014.
Qua nghiên cứu những công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, các tác
giả chủ yếu khai thác một số khía cạnh pháp lý của hợp đồng vay tài sản.
Chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ trong việc
giải quyết hợp đồng vay tài sản trên một địa bàn cụ thể. Việc làm rõ vấn đề
giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại một địa bàn cụ thể cần phải
đƣợc xác định và nghiên cứu để làm nổi bật những đặc thù trong quan hệ vay
5

tài sản tại một địa bàn lớn của thành phố Hà Nội nhƣ quận Hai Bà Trƣng là
cần thiết. Vì đây là một trong những quận nội thành có dân số đông nhất, có
nhiều các doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ thƣơng mại lớn, nhiều hộ làm ăn
cá thể, tiểu thƣơng phát triển mạnh … Cùng với sự tăng trƣởng về các sản
phẩm do lao động, sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn quận cũng phát
triển, nhu cầu về vốn tăng cao, vì vậy quan hệ vay tài sản cũng không ngừng
gia tăng về số lƣợng, giá trị cũng nhƣ tính phức tạp. Nhận thức đƣợc tính
phức tạp của quan hệ vay tài sản nói chung và việc giải quyết tranh chấp về
hợp đồng vay tài sản của TAND quận Hai Bà Trƣng nói riêng nên việc
nghiên cứu đề tài này là hết sức quan trọng và cần thiết.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận, nội dung các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản và việc giải
quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại TAND quận Hai Bà Trƣng.
Nguyên nhân và những bất cập trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản, từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử và góp
phần giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại Tòa án ngày một tốt
hơn.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét, nghiên cứu về hợp đồng vay
tài sản và việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của TAND quận
Hai Bà Trƣng trong 05 năm gần đây, trong đó đi sâu phân tích nguyên nhân
của những tồn tại và đƣa ra giải pháp khắc phục.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản,
đƣa ra những kiến nghị có tính ứng dụng cao trong hoạt động xét xử của Tòa
án, góp phần nâng cao chất lƣợng xét xử liên quan đến tranh chấp hợp đồng
6

vay tài sản trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện đƣợc mục đích trên luận văn có
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý của chế định hợp đồng vay tài
sản theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.
+ Nghiên cứu tranh chấp thực tế đã phát sinh qua thực tiễn giải quyết
của TAND quận Hai Bà Trƣng để làm rõ những điểm còn bất cập của pháp
luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hợp đồng vay tài sản hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật hợp đồng vay tài sản.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật, trong đó có vấn đề giải quyết tranh chấp
về hợp đồng vay tài sản.
Phương pháp nghiên cứu: Để có đƣợc kết quả trình bày trong luận
văn, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và phƣơng pháp duy
vật lịch sử; phƣơng pháp lịch sử và logic; phƣơng pháp kết hợp lý luận và
thực tiễn; phƣơng pháp phân tích, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản, làm rõ những đặc thù của loại án này tại
TAND quận Hai Bà Trƣng.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND quận Hai Bà Trƣng và
đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND quận Hai Bà Trƣng ngày càng
7

hiệu quả, đáp ứng đƣợc công cuộc cải cách tƣ pháp. Đề xuất phƣơng hƣớng
hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản đồng thời là cơ sở
sửa đổi, bổ sung chế định pháp luật dân sự theo Bộ luật dân sự năm 2005,
góp phần nâng cao chất lƣợng xét xử nói chung trong việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và đào tạo chức
danh tƣ pháp nói riêng.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần phục vụ
yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lƣợng xét xử của
TAND trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay, đặc biệt trong việc giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại TAND quận Hai Bà Trƣng.
Mặt khác, nội dung luận văn có thể góp phần xây dựng kỹ năng nghề
nghiệp của ngƣời Thẩm phán trong việc nghiên cứu, giải quyết các loại án
dân sự trong đó có án kiện về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản và sơ lƣợc một số

nét về Quận Hai Bà Trƣng – thành phố Hà Nội.
Chƣơng 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của
TAND quận Hai Bà Trƣng
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định pháp
luật về hợp đồng vay tài sản


8

CHƢƠNG 1:
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ SƠ LƢỢC
MỘT SỐ NÉT VỀ QUẬN HAI BÀ TRƢNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng vay tài sản.
Dƣới góc độ xã hội, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, từ “vay”
đƣợc hiểu là “ nhận tiền hay vật gì của ngƣời khác để chi dùng trƣớc với điều
kiện sẽ trả tƣơng đƣơng hoặc có thêm phần lãi”[17]. Nhƣ vậy, dƣới góc độ là
quan hệ xã hội, quan hệ vay tài sản phải có ít nhất hai chủ thể tham gia, đƣợc
xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, đối tƣợng của quan hệ là tiền hoặc
vật bất kỳ. Qua tiến trình phát triển của xã hội đã chứng minh sự vận động và
phát triển của quan hệ vay tài sản luôn chịu sự tác động và chi phối bởi các
hình thái kinh tế - xã hội.
Ở hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội
phong kiến, quan hệ vay tài sản tồn tại dƣới hình thức cho vay nặng lãi. Đây
là thời kỳ nền kinh tế kém phát triển, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên
nhiên, tác động tới sự phân chia giai cấp. Các chủ thể tham gia quan hệ chủ
yếu hai tầng lớp giai cấp thống trị - ngƣời cho vay và giai cấp bị trị - ngƣời
vay. Dƣới thời này, quan hệ tài sản không còn đƣợc xác lập trên cơ sở sự thỏa
thuận. Ngƣời vay bị phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí và các điều kiện của

ngƣời cho vay.
Dƣới hình thái kinh tế xã hội tƣ bản chủ nghĩa, do sự phát triển của nền
công nghiệp với nhu cầu số lƣợng vốn lớn nên quan hệ vay tài sản với mức
lãi suất cao bị đẩy lùi và đƣợc thay thế bởi quan hệ vay tài sản với lãi suất
thấp. Tuy nhiên, việc cho vay nặng lãi không bị thủ tiêu hoàn toàn, nó vẫn
tồn tại bởi ngƣời đi vay không vì mục đích sản xuất, kinh doanh, mà nhằm
9

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Nền kinh tế thị trƣờng, bị tác động bởi quy luật tiền tệ. Tình trạng thừa
hoặc thiếu nguồn vốn vẫn tồn tại, vấn đề đặt ra lúc này là việc điều chỉnh nhu
cầu giao lƣu vốn để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế theo định hƣớng của
Nhà nƣớc.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, Nhà nƣớc xuất hiện điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị. Xuất phát từ tính chất phổ
biến và phức tạp của quan hệ vay tài sản nên Nhà nƣớc đã tác động và điều
chỉnh quan hệ này bằng các quy định pháp luật. Từ đó quan hệ vay tài sản
không chỉ là quan hệ xã hội mà đƣợc nâng lên thành quan hệ pháp luật và chế
định hợp đồng vay tài sản ra đời. Từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản
đã trở thành một trong những hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp
đồng. Ở pháp luật các nƣớc trên thế giới cũng rất chú trọng tới việc điều chỉnh
quan hệ pháp luật này. Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại
Thái Lan quy định hợp đồng vay tài sản trong một thiên – Thiên: Vay mƣợn.
Dƣới góc độ pháp luật, khái niệm hợp đồng vay tài sản đƣợc nhìn ở
nhiều phƣơng diện khác nhau. Về phƣơng diện khách quan, hợp đồng vay tài
sản đƣợc hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ vay tài sản phát sinh giữa
các chủ thể với nhau trong giao dịch dân sự.
Về phƣơng diện chủ quan, hợp đồng vay tài sản là một giao dịch dân sự
mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để

cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
C.Mác đã nói: “Tự nó, hàng hóa không thể đi đến thị trƣờng và trao đổi
với nhau đƣợc. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những ngƣời
giữ chúng phải đối xử với nhau nhƣ những ngƣời mà ý chí nằm trong các vật
đó”

[1]. Chính vì quan hệ vay tài sản đƣợc hình thành từ những hành vi có ý
10

chí của các chủ thể, cho nên yếu tố thỏa thuận thông qua việc bày tỏ và thống
nhất ý chí giữa các bên là nền tảng đầu tiên hình thành nên một quan hệ hợp
đồng dân sự. Vì vậy để hiểu đƣợc bản chất của hợp đồng vay tài sản cần
nghiên cứu khái niệm hợp đồng vay tài sản ở phƣơng diện chủ quan.
Hợp đồng vay tài sản trƣớc hết là một giao dịch dân sự, vì vậy khi giao
kết bất cứ một hợp đồng dân sự nào, các bên đều phải tuân thủ nguyên tắc cơ
bản của quan hệ dân sự, đó là nguyên tắc “tự nguyện cam kết, thỏa thuận"
(Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005) và tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của
một giao dịch dân sự nói chung đƣợc quy định tại Điều 122 BLDS năm 2005.
Xuất phát từ nguyên tắc này mà khái niệm hợp đồng vay tài sản đƣợc hình
thành trên cơ sở của “sự thỏa thuận”. Thỏa thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa
các chủ thể trong hợp đồng, đó là bên vay và bên cho vay. Hợp đồng có đƣợc
xác lập hay không là do sự thỏa thuận giữa các bên, tức phải có sự thống nhất
ý chí giữa các bên trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ nhất định. Bởi vì ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành
động và hƣớng hoạt động của mình tới việc đạt đƣợc mục đích đó. Tuy nhiên,
sự thỏa thuận phải nằm trong hành lang quy định của pháp luật và chuẩn mực
xã hội. Nội dung của sự thỏa thuận không đƣợc trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Ngoài ra, sự thỏa thuận còn phải đƣợc hình thành trên cơ sở của sự tự
nguyện. Nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, ép buộc khi giao kết hợp
đồng thì hợp đồng đó sẽ không đƣợc Nhà nƣớc công nhận và bảo hộ, giao

dịch đó sẽ vô hiệu. Nhƣ vậy, hợp đồng vay tài sản trƣớc tiên phải sự thống
nhất giữa ý chí và sự thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, hợp đồng vay tài sản đƣợc quy định
tại Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn
trả, bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo đúng số lƣợng,
11

chất lƣợng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định”[5].
Vậy, có thể định nghĩa về hợp đồng vay tài sản nhƣ sau: Hợp đồng vay tài
sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay chuyển giao cho bên
vay tài sản và quyền sở hữu đối với tài sản vay; khi đến hạn, bên vay có nghĩa
vụ thanh toán cho bên cho vay khoản tiền hoặc vật cùng loại đã vay đúng số
lượng, chất lượng và lãi suất tương ứng với thời hạn vay theo thoả thuận.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng của hợp đồng dân sự, do vậy bên
cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự thì hợp đồng vay tài sản
cũng có những đặc điểm riêng của nó. Nghiên cứu đặc điểm riêng của hợp
đồng vay tài sản giúp ta phân biệt hợp đồng vay tài sản với các loại hợp đồng
dân sự khác.
Thứ nhất, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng ƣng thuận.
Dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng dân sự đƣợc phân
thành hai loại: hợp đồng ƣng thuận và hợp đồng thực tế. Hợp đồng ƣng thuận
là những hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
các bên phát sinh ngay sau khi các bên đã thoả thuận xong nội dung cơ bản
của hợp đồng; còn hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thoả
thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao
cho nhau đối tƣợng của hợp đồng.
Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể

trong hợp đồng vay tài sản phải đƣợc bắt đầu từ khi hợp đồng có hiệu lực.
Theo Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Hợp đồng đƣợc giao kết
hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trƣờng hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác" [5]. Nhƣ vậy từ thời điểm hợp đồng giao
kết đã phát sinh hiệu lực của hợp đồng vay tài sản, và từ thời điểm này nếu
12

bên cho vay không thực hiện nghĩa vụ giao tiền hoặc vật cùng loại thì bên
vay có quyền kiện dƣới góc độ là vi phạm nghĩa vụ đƣợc cam kết trong hợp
đồng vay tài sản. Do vậy, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ƣng thuận.
Thứ hai, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng đơn vụ.
Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng
mà hợp đồng đƣợc chia thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn
vụ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: "Hợp
đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau"[5].
Nghĩa là trong quan hệ này mỗi bên đều có quyền và đồng thời có nghĩa vụ
đối với bên còn lại. Còn theo quy định tại khoản 2 Điều 406 Bộ luật Dân sự
năm 2005 thì: "Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa
vụ"[5]. Tức là trong quan hệ này một bên chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ
và một bên có nghĩa vụ mà không có quyền.
Trong quan hệ này, một bên chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ, còn
bên có nghĩa vụ mà không có quyền. Có ý kiến cho rằng, nếu dựa vào mối
quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên vay thì hợp đồng vay
là hợp đồng song vụ, quyền của bên vay tƣơng ứng với nghĩa vụ của bên cho
vay và ngƣợc lại, hoặc có thể là đơn vụ khi một bên trong hợp đồng chỉ có
nghĩa vụ mà không có quyền với bên kia. Có những hợp đồng mà thực chất
hai bên đều phải thực hiện cho nhau một lợi ích vật chất nhƣng vẫn đƣợc coi
là hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng nhƣ thế [18].
Xét về nguyên tắc, hợp đồng vay tài sản là đơn vụ đối với những
trƣờng hợp vay không lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay hoàn

trả vật cùng loại tƣơng ứng với số lƣợng, chất lƣợng của tài sản vay. Bên vay
không có quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đông vay có lãi
suất thì bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng hạn, nếu vi phạm thì phải
chịu trách nhiệm dân sự.
13

Thứ ba, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng có đền bù hoặc
không có đền bù.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi mà một bên sau
khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tƣơng ứng.
Đây là một dạng thƣờng thấy trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Khi các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có quy định mức lãi suất tƣơng ứng
tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và đặc điểm của hợp đồng vay tài sản.
Hoặc trong trƣờng hợp bên này cho bên kia vay và có thỏa thuận là vay có lãi
thì tới thời hạn trả nợ bên vay không những trả nợ gốc mà còn trả số tiền lãi
mà các bên đã thỏa thuận nhƣng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù thể hiện trong
tất cả các hợp đồng vay không trả lãi. Khi đến hạn trả nợ, bên vay chỉ có
nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ một lƣợng tài sản cùng loại, cùng giá trị cho bên
cho vay, mà không trả thêm bất kỳ một khoản lợi ích vật chất nào khác, hay
một giá trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này thƣờng xuất phát từ tinh thần
tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể có quen biết lẫn nhau nhƣ gia
đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng … nhằm khắc phục những khó khăn tạm
thời của đời sống hoặc giúp đỡ nhau phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, hợp đồng vay tài sản có hiệu lực chuyển quyền sở hữu
Đây là dấu hiệu để phân biệt hợp đồng vay tài sản với các hợp đồng
dân sự thông dụng khác nhƣ: hợp đồng mƣợn tài sản, hợp đồng thuê tài sản.
Vì trong hai hợp đồng này, ngƣời mƣợn và ngƣời thuê tài sản không trở
thành chủ sở hữu tài sản mƣợn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng
tài sản đã mƣợn, thuê trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận.

Khi hết hạn, bên mƣợn, bên thuê phải trả đúng tài sản đã mƣợn, thuê cho bên
cho mƣợn, bên cho thuê tài sản. Còn trong hợp đồng vay tài sản, "bên vay trở
thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó" (Điều 472 Bộ
14

luật Dân sự năm 2005) [5]. Bên vay có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay chỉ cần trả cho bên cho vay tài sản
cùng loại theo đúng số lƣợng, chất lƣợng, mà không phải trả lại đúng tài sản
đã vay.
Nhƣ vậy, hợp đồng vay tài sản là một dạng của hợp đồng dân sự, nó
mang đầy đủ những đặc điểm của hợp đồng dân sự nói chung và còn có
những đặc điểm riêng, đó là tính ƣng thuận, tính đơn vụ, tính đền bù hoặc
không đền bù và là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Đây
là những đặc điểm riêng biệt giúp ta phân biệt hợp đồng vay tài sản với
những hợp đồng dân sự khác.
1.1.3. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản
Cũng nhƣ hợp đồng dân sự, hợp đồng vay tài sản muốn có hiệu lực
pháp luật thì phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
dân sự. Căn cứ vào quy định tại Điều 122 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và
các quy định có liên quan, có thể xác định một hợp đồng vay tài sản có hiệu
lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải có năng lực giao kết.
Năng lực chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải thỏa mãn đầy đủ về độ
tuổi và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Hành vi giao kết hợp đồng
sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên, do vậy để hợp đồng có
hiệu lực pháp lý và có khả năng thực hiện, ngƣời giao kết hợp đồng phải có khả
năng nhận thức hành vi giao kết hợp đồng cũng nhƣ hậu quả của việc giao kết
hợp đồng. Đối với cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền.
Thứ hai, phải có sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa bên vay và bên
cho vay.

Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ giao
kết, sự thoả thuận giữa các bên phải hoàn toàn tự nguyện, không có bất kỳ
15

một sự ép buộc nào. Việc thể hiện ý chí của các bên phù hợp với nguyện
vọng thực của họ, hƣớng đến những lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời
không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp
đồng nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng phải tuân theo các nguyên
tắc: tự do giao kết những không trái pháp luật và đạo đức xã hội: Tự nguyện,
bình đẳng, thiện chí Những hành vi cƣỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết
hợp đồng là lý do dẫn đến hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng vay tài sản không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Mục đích của hợp đồng là những lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt đƣợc khi giao kết hợp đồng. Nội dung của hợp đồng bao gồm các
điều khoản mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất. Để hợp đồng có hiệu lực và
có khả năng thực hiện, pháp luật quy định mục đích, nội dung của hợp đồng
không đƣợc trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong thực tiễn có những tranh chấp về hợp đồng vay tài sản với lãi
suất cao vƣợt quá quy định của Nhà nƣớc (lãi suất do Ngân hàng Nhà nƣớc
quy định), hoặc có những hợp đồng vay tài sản nhằm mục đích lừa dối hay
che dấu một quan hệ pháp luật khác. Hậu quả pháp lý của hợp đồng không
hợp pháp đó là việc Toà án tuyên bố hủy một phần hoặc toàn bộ hợp đồng
vay tài sản giữa các bên đã giao kết.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật.
Tuỳ từng đối tƣợng, giá trị của tài sản cho vay mà sự thoả thuận thống
nhất ý chí của các bên có thể bằng miệng, bằng văn bản hoặc văn bản phải
đƣợc công chứng. Hiện nay, hình thức giao kết trong hợp đồng dân sự nói
chung, hợp đồng vay tài sản nói riêng chủ yếu bằng hai hình thức chính, là
bằng miệng đối với những hợp đồng có giá trị tài sản không lớn và bằng văn

bản đối với những hợp đồng có giá trị tài sản tƣơng đối lớn.
16

1.2. CHỦ THỂ, HÌNH THỨC, ĐỐI TƢỢNG, THỜI HẠN, LÃI SUẤT
TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
Chủ thể trong hợp đồng vay tài sản là những cá nhân, tổ chức có đầy
đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Chủ
thể trong quan hệ hợp đồng vay tài sản bao gồm:
Cá nhân
Đây là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và phổ biến nhất của các quan hệ
dân sự nói chung và quan hệ vay tài sản nói riêng, các chủ thể khác khi tham
gia vào quan hệ dân sự cũng đều phải thông qua hành vi của con ngƣời cụ
thể. Vì vậy, để tham gia vào quan hệ vay tài sản, cá nhân phải có tƣ cách chủ
thể, tức là năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định pháp luật.
Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật dân sự 2005:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự nhƣ nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi ngƣời
đó sinh ra và chấm dứt khi ngƣời đó chết [5].
Nhƣ vậy, năng lực pháp luật của mọi cá nhân là nhƣ nhau, không bị
hạn chế bởi bất cứ lý do gì, mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật.
Tuy nhiên, để cá nhân có tƣ cách đầy đủ tham gia giao kết dân sự nói
chung thì cá nhân phải thỏa mãn điều kiện về năng lực hành vi dân sự quy
định tại Điều 17 Bộ luật Dân sự 2005. Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự” [5]. Nhƣ vậy,
năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân là không giống nhau, mỗi cá nhân
có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi khác nhau. Pháp luật quy định

17

tiêu chí chung nhất là độ tuổi để phân biệt năng lực hành vi dân sự của cá
nhân ở nhiều mức độ khác nhau đƣợc quy định từ Điều 17 đến Điều 23 Bộ
luật Dân sự 2005.
Đối với cá nhân là ngƣời nƣớc ngoài, theo quy định tại điều 762 BLDS
2005 năng lực hành vi dân sự của họ đƣợc xác định theo pháp luật của nƣớc
mà ngƣời đó là công dân. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch dân
sự trên lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngƣời nƣớc ngoài
phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác lập và thực hiện
đối với loại giao dịch dân sự đó.
Nhƣ vậy, chủ thể là cá nhân tham gia quan hệ vay tài sản phải thỏa
mãn điều kiện về năng lực hành vi dân sự đầy đủ, khi đó họ có quyền trực
tiếp hoặc ủy quyền cho ngƣời khác hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật tham
gia vào quan hệ vay tài sản.
Pháp nhân.
Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về pháp nhân nhƣ sau:
“Một tổ chức đƣợc công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
Đƣợc thành lập hợp pháp; Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản độc lập với
cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; Nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập” [5]. Mọi hoạt động
của pháp nhân đƣợc thực hiện thông qua hành vi của cá nhân, đó là ngƣời đại
diện hợp pháp của pháp nhân và hành vi của ngƣời đại diện hợp pháp phải
phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân. “Ngƣời đại diện theo pháp
luật hoặc ngƣời đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân
trong quan hệ dân sự” (Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2005) [5]. Nhƣ vậy, đại
diện hợp pháp của pháp nhân có hai dạng: đại diện theo pháp luật và đại diện
theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là ngƣời đứng đầu các
tổ chức đó trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc trên cơ sở quyết định của
18


cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân có
thể là một thành viên bất kỳ của pháp nhân hay một cá nhân bất kỳ có đầy đủ
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định cuả pháp
luật, trên cơ sở một văn bản ủy quyền. Việc ủy quyền chỉ có giá trị pháp lý
khi ngƣời đƣợc uỷ quyền thực hiện đúng nội dung công việc ủy quyền và
trong thời hạn đƣợc ủy quyền.
Hiện nay, loại hình pháp nhân phổ biến tham gia vào các quan hệ vay
tài sản là các tổ chức kinh tế, trong đó phải kể đến là các tổ chức tín dụng.
Theo quy định tại Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Tổ chức tín
dụng bao gồm Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng
tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” [7], trong đó Ngân hàng là tổ chức
tín dụng phổ biến và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng.
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể đƣợc thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thƣơng mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” [7]. Là một trong những đại diện tiêu
biểu cho pháp nhân trong quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng vay tài
sản nói riêng, hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết
nền kinh tế của đất nƣớc. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng vay tài sản,
Ngân hàng với tƣ cách là trung tâm kinh doanh tiền tệ vừa là ngƣời đi vay và
cũng vừa là ngƣời cho vay. Ngân hàng có quyền cho các tổ chức, các nhân
vay để hoạt động sản xuất, kinh doanh với lãi suất nhất định, đồng thời cũng
đƣợc phép huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân dƣới hình thức gửi
tiết kiệm có lãi suất theo Nhà nƣớc quy định để kinh doanh. Việc cho ngân
hàng vay và vay của ngân hàng có những điểm khác biệt cơ bản nhƣ:
Về trách nhiệm thanh toán nợ, cho ngân hàng vay thì chủ thể cho vay
có quyền đòi bất cứ lúc nào không cần phải hết thời hạn cho vay, còn vay của

×