Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Câu hỏi tình huống môn Công pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.04 KB, 37 trang )

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG MƠN CƠNG PHÁP QUỐC TẾ
Tình huống 1
Năm 1999, quốc gia Alpha gửi cho quốc gia Bêta một văn kiện ngoại giao trong đó
đưa ra đề nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của Alpha với vùng lãnh thổ
Grama mà Bêta đang giữ vai trò đại diện trong quan hệ quốc tế (Grama là thuộc địa
của Bêta). Trong văn kiện đó, Alpha nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có
bản đồ hoạch định đính kèm. Trong văn kiện trả lời, Bêta bày tỏ quan điểm đồng ý
với đề nghị của Alpha. Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp báo để thơng báo chính
thức về nội dung thỏa thuận. Năm 2002, Grama tách ra khỏi Bêta và tuyên bố trở
thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Grama cho rằng thỏa thuận qua các văn
kiện ngoại giao giữa Alpha và Bêta không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng
buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1999 là điều ước quốc tế thì với
tư cách là quốc gia mới giành được độc lập, Grama không phải thực hiện các điều
ước quốc tế mà Bêta đã đại diện ký kết trước đó. Hãy cho biết:
1. Thỏa thuận giữa Alpha và Bêta trong tình huống nêu trên có phải là điều ước
quốc tế hay khơng? Vì sao?
2. Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Grama có phải thực hiện
thỏa thuận mà Bêta đã ký với Alpha hay khơng? Vì sao?
Hướng dẫn:
1. Thỏa thuận giữa Alpha và Bêta trong tình huống nêu trên có phải là điều
ước quốc tế hay khơng? Vì sao?
Theo điểm a, khoản 1, điều 2 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì
“thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản
giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong
một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và
bất kể tên gọi riêng của nó là gì”. Đồng thời, điều 11 Cơng ước Viên 1969 cũng
quy định: “Việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước có thể
biểu thị bằng việc ký, trao đổi các văn kiện của điều ước phê chuẩn, chấp thuận,


phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận”. Để xác định


thỏa thuận giữa quốc gia Alpha và quốc gia Bêta có phải là điều ước hay khơng, ta
có thể xét đến đặc trưng về mặt hình thức của điều ước quốc tế. Ta có thể khẳng
định rằng, điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản, nhưng bên cạnh
đó cịn có điều ước quân tử tồn tại dưới dạng bất thành văn. Như vậy, theo như điều
ước quân tử thì điều ước quốc tế không nhất thiết phải tồn tại dưới dạng văn bản.
Cũng theo định nghĩa về thuật ngữ “điều ước” quy định tại điểm a, khoản 1, điều 2
Công ước viên 1969 thì điều ước quốc tế khơng phụ thuộc vào tên gọi của văn bản
thỏa thuận này.
Hơn nữa, vùng lãnh thổ Grama đã được quốc gia Alpha khai thác và đại diện trong
quan hệ quốc tế, ta có thể hiểu là từ trước năm 1999, Grama đã và đang là “thuộc
địa” của quốc gia Alpha và Alpha là quốc gia “bảo hộ”, vì vậy vùng lãnh thổ
Grama phải tuân thủ theo những cam kết mà Alpha đã ký. Như vậy, thỏa thuận
giữa quốc gia Alpha với quốc gia Bêta về việc hoạch định biên giới giữa lãnh thổ
của quốc gia Alpha với vùng lãnh thổ Grama mà quốc gia Bêta đang khai thác và
đại diện trong quan hệ quốc tế hồn tồn có thể là điều ước quốc tế.
2. Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Grama có phải thực
hiện thỏa thuận mà Bêta đã ký với Alpha hay khơng? Vì sao?
Theo tiến sĩ Kaikobad (1983): “Quy tắc chung của luật quốc tế tập quán về vấn đề
này là, về nguyên tắc, khi kế thừa từ người tiền nhiệm: quốc gia hưởng không hơn
và khơng kém lãnh thổ đó".
Hội nghị lần thứ 53 năm 1968 của Hội Luật gia quốc tế đã thông qua nghị quyết về
sur kế thừa của các quốc gia mới: “Khi một hiệp định quy định việc phân định biên
giới quốc gia giữa hai quốc gia đã được thực hiện, theo đó đường biên giới đã
được hình thành thì khơng cần phải làm gì thêm nữa ... và phạm vi lãnh thổ quốc
gia cũng đã được xác lập”.
Điều 11 Công ước Viên về kế thừa nhà nước 1978 quy định:
Sự kế thừa quốc gia không ảnh hưởng tới:


a) một đường biên giới đã được xác định bởi một hiệp định; hay

b) các nghĩa vụ và quyền được xác định bởi một hiệp định liên quan tới thể chế
biên giới. Những quy định này là sự khẳng định chính thức ngun tắc duy trì biên
giới ổn định khi xuất hiện sự kế thừa nhà nước.
Như vậy, sau khi vùng lãnh thổ Grama trở thành một quốc gia độc lập, có chủ
quyền thì Grama vẫn phải thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế về biên giới lãnh
thổ mà Bêta đã ký kết thay Grama, trong đó có điều ước với Alpha. Quốc gia
Grama khơng có quyền chọn lựa có thừa kế hay khơng mà buộc phải thừa kế, vì
những điều ước về biên giới lãnh thổ thường có giá trị rất bền vững mang tính ổn
định cho dù 1 trong 2 bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia mới vẫn buộc phải
thừa kế.
Tình huống 2
Năm 1960, quốc gia A gửi cho quốc gia B thư đề nghị hoạch định biên giới giữa
lãnh thổ của quốc gia B với vùng lãnh thổ C mà quốc gia A đang khai thác và đại
diện trong quan hệ quốc tế. Trong thư đó, quốc gia A nêu rõ nguyên tắc, cách thức
hoạch định và có bản đồ hoạch định đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày tỏ
quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A. Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp
báo để thơng báo chính thức về nội dung thỏa thuận. Tranh chấp lãnh thổ bắt đầu
nảy sinh sau khi vùng lãnh thổ C trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Quốc gia C cho rằng thỏa thuận qua thư giữa quốc gia A và quốc gia B không phải
là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm
1960 là điều ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới ra đời, quốc gia C không
phải kế thừa tất cả các điều ước quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết. Hãy cho
biết:
1. Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa
thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế
hay khơng? Giải thích tại sao?


2. Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ
mà quốc gia A đã ký kết với quốc gia B hay khơng? Giải thích tại sao?

Hướng dẫn:
1. Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa
thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc
tế hay khơng? Giải thích tại sao?
Có thể khẳng định: thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên
là điều ước quốc tế.
Theo Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ “điều ước”
dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất
hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của
nó là gì”.
Về bản chất, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận dựa trên ý chí tự nguyện của các bên
liên quan. Chủ thể của điều ước quốc tế là các quốc gia. Điều ước quốc tế tồn tại
dưới hình thức văn bản đã được kí kết. Điều ước quốc tế gồm có 3 loại: điều ước
quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước, điều ước quốc tế được kí kết với
danh nghĩa Chính phủ và điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Bộ, ngành.
Các điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước là các điều ước về hồ
bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, về tương trợ tư pháp và về các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức
khu vực quan trọng.
Căn cứ theo đề bài, thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên
hồn tồn có đủ căn cứ để trở thành một điều ước quốc tế. Đây là điều ước quốc tế
nhằm hoạch định biên giới lãnh thổ. Việc phân định biên giới lãnh thổ này đã được
hai quốc gia thỏa thuận và đi đến kí kết. Điều ước quốc tế này được ghi nhận dưới
hình thức văn bản.


2. Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh
thổ mà quốc gia A đã ký kết với quốc gia B hay khơng? Giải thích tại sao?
Căn cứ vào đề bài, ta có thể thấy đây là trường hợp hình thành quốc gia mới bằng

đấu tranh giải phóng dân tộc hoặc qua cách mạng xã hội. Về nguyên tắc, quốc gia
C không phải kế thừa toàn bộ các điều ước do quốc gia A kí kết với quốc gia B.
Tuy nhiên, nhằm mục đích khơng làm xáo trộn trật tự pháp lý quốc tế, và nếu điều
ước đã kí khơng đi ngược lại quyền lợi của quốc gia C thì quốc gia C vẫn có thể
tuyên bố kế thừa trong lĩnh vực biên giới lãnh thổ.
Cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của nghị quyết do Hội đồng
bảo an thơng qua.
Tình huống 3
Năm 2012, tại quốc gia A xảy ra nội chiến. Hàng ngàn người nổi dậy đã tiến hành
đập phá các cửa hàng, nhà kho, sân bãi nhằm tăng sức ép đề nghị chính phủ đương
nhiệm phải từ chức. Cuộc giao tranh giữa Chính phủ đương nhiên và phe nổi dậy
ngày càng căng thẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hịa bình và an ninh trong khu
vực cũng như đe dọa sự an toàn của những người nước ngoài đang có mặt trên lãnh
thổ quốc gia A. Trước tình hình nguy cấp này, Hội động bảo an Liên hợp quốc, với
tư cách là cơ quan thực hiện chức năng duy trì hịa bình và an ninh thế giới, đã có
những cuộc họp nhằm xem xét vấn đề của quốc gia. Dự thảo Nghị quyết của Hội
đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả các
biện pháp về quân sự, đối với quốc gia A cũng đã được soạn thảo. Trong thời gian
chờ đợi nghị quyết được thông qua, với tư cách là Ủy viên thường trực Hội đồng
bảo an quốc gia X đã cho một số tàu quân sự của mình tiến sâu vào neo đậu trong
lãnh hải của quốc gia A để sẵn sàng thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an.
Hãy cho biết:
1. Hành vi của quốc gia X có phù hợp với quy định của Cơng ước luật biển 1982
hay không? Tại sao?


2. Các cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội đồng
bảo an thơng qua?
Hướng dẫn:
1. Hành vi của quốc gia X có phù hợp với quy định của Công ước luật biển

1982 hay không? Tại sao?
Trả lời: Hành vi của quốc gia X không phù hợp với quy định của Công ước luật
biển 1982.
Vì: Quốc gia X cho neo đậu tàu tại lãnh hải của quốc gia A là trái với quy định của
khoản 2 Điều 18 Công ước luật biển 1982 khi thực hiện quyền qua lại lãnh hải đó
là đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc
dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thơng
thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì
mục đích cứu giúp người, thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc
cạn”. Trong tình huống này, quốc gia X đã neo đậu tại vùng lãnh hải của quốc gia
A mà không phải vì gặp những sự cố thơng thường về hàng hải hoặc vì một trường
hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, thuyền hay
phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc cạn mà vì để chuẩn bị sẵn sàng thực hiện
Nghị quyết của Hội đồng bảo an.
Bên cạnh đó, quốc gia X đã vi phạm quy định của công ước Luật biển 1982 việc đi
qua của tàu thuyền nước ngoài bị coi là phương hại đến hịa bình, trật tự hay an
ninh của quốc gia ven biển, nếu như trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành các
hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 19 Công ước Luật Biển 1982. Cụ thể việc đưa
quân sự vào khu vực lãnh hãi của quốc gia A là hành vi đe dọa hoặc dùng vũ lực
chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, điều này càng vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc của Luật quốc tế – nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ luật quốc tế. Việc quốc gia X đưa tàu quân sự vào khu vực lãnh hải
của quốc gia A để sẵn sàng thực hiện nghị quyết của Hội đồng bảo an là khơng có
căn cứ vì Nghị Quyết của Hội đồng bảo an chưa được thông qua. Nghị quyết của


HĐBA được thơng qua khi có 9 ủy viên của Hội dồng bảo an, trong đó có tất cả các
ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27 Hiến chương liên hợp quốc).
Như vậy, hành vi của quốc gia X không phù hợp với Công ước Luật Biển 1982.
2. Các cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội

đồng bảo an thông qua?
Dẫn chiếu theo chương 7 Hiến chương Liên hợp quốc (từ Điều 39 đến Điều 51) về
hành động trong trường hợp hịa bình bị đe dọa, phá hoại hoặc có hành vi xâm
lược. Theo đó, Nghị quyết của Hội đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng
các biện pháp cần thiết, kể cả các biện pháp về quân sự, đối với quốc gia A là hoàn
toàn phù hợp. Cụ thể, theo quy định tại Điều 39, Điều 41 Hội đồng có thẩm quyền
quyết định những biện pháp áp dụng không liên quan tới việc sử dụng vũ lực để
thực hiện nghị quyết của Hội đồng, và yêu cầu các thành viên Liên hợp quốc áp
dụng biện pháp đó. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 42 Hiến chương thì nếu
những biện pháp được nói tại Điều 41 mà khơng thích hợp hoặc mất hiệu lực thì
Hội đồng bảo an có thẩm quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân
nếu Hội đồng bảo an cho rằng đó là cần thiết. Những hành động này có thể là
những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những cuộc hành quân khác, do
các lực lượng hải, lục, không quân của các nước thành viên Liên hợp quốc thực
hiện. Mặt khác, theo quy định tại Điều 51 Hiến chương nếu quốc gia thành viên của
LHQ bị tấn công vũ trang mà cho tới khi HĐBA chưa áp dụng được các biện pháp
cần thiết để duy trì hịa bình, an ninh quốc tế thì những biện pháp mà quốc gia
thành viên của LHQ áp dụng để thực hiện quyền tự vệ chính đáng phải được báo
ngay cho HĐBA, do đó, có thể dùng biện pháp quân sự tương xứng nếu trong
trường hợp bị tấn công vũ trang.
Hội đồng bảo an xác định tình hình nội chiến trên lãnh thổ quốc gia A khơng cịn là
cơng việc nội bộ của quốc gia A bởi tình hình nội chiến tại quốc gia A có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hịa bình và an ninh trong khu vực cũng như đe dọa sự an
toàn của những người nước ngồi đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia A. Do đó, sự


can thiệp của HĐBA LHQ trong trường hợp này không được coi là vi phạm nguyên
tắc của luật quốc tế về “Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia
khác”.
Để nghị quyết của HĐBA được thông qua thì cần 9 ủy viên của HĐBA, trong đó có

tất cả các ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27 Hiến chương Liên hợp
quốc).
Tình huống 4
Hundu và Renda đều là hai quốc gia thành viên của Công ước về chống khủng bố
quốc tế. Tháng 4/2011, Chính phủ Hundu nhận được báo cáo của Cục tình báo
quốc gia về việc phát hiện ra nơi ẩn náu trên lãnh thổ Renda của tên trùm khủng bố
(bị truy nã toàn cầu) mà quốc gia này đang tìm kiếm. Chính phủ Hundu ngay lập
tức bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát
của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước này và tấn công
nơi ở của tên trùm khủng bố, đồng thời tiêu diệt tên này.
Phát hiện ra hành vi của Hundu, Renda đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Phía Renda
cho rằng hành vi này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên,
Hundu cho rằng hành vi của quốc gia này là nhằm thực hiện nghĩa vụ thành viên
của Công ước về chống khủng bố. Hơn nữa, Tổng thống Hundu đã thực hiện cuộc
điện đàm chính thức với Tổng thống Renda và ơng này hứa sẽ tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho hoạt động chống khủng bố được thực hiện bởi Hundu. Hãy cho biết:
1. Tính hợp pháp trong hành vi của Hundu? Vì sao?
2. Cuộc điện đàm chính thức giữa Tổng thống của hai quốc gia có xác lập nghĩa vụ
của Renda trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt trùm khủng bố
trên lãnh thổ Renda khơng? Vì sao?
Hướng dẫn:
1. Tính hợp pháp trong hành vi của Hundu? Vì sao?
Hành vi của Hundu là khơng hợp pháp. Vì:


Hành vi của Hundu đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia của luật quốc tế. Chính phủ Hundu khi nhận được báo cáo của Cục tình báo
quốc gia về việc phát hiện ra nơi ẩn náu trên lãnh thổ Randa của tên Trùm khủng
bố (bị truy nã toàn cầu) mà quốc gia này đang tìm kiếm. Chính phủ Hundu ngay lập
tức bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát

của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước này và tấn công
nơi ở của tên trùm khủng bố, đồng thời tiêu diệt tên này đã vi phạm nguyên tắc
bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều
thiêng liêng của mỗi dân tộc, lãnh thổ là biểu hiện của nền độc lập dân tộc và bất
khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Bảo vệ biên giới, lãnh thổ chính là bảo vệ chủ
quyền quốc gia chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Tuyên bố về những nguyên tắc
của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp
với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1970 cũng đã quy định rõ nội dung nguyên
tắc này. Như vậy, trong tình huống này thì Hundu đã xâm phạm chủ quyền quốc
gia Renda vì hành động bí mật điều động máy qn sự tiến vào Renda. Bên cạnh
đó cịn vi phạm nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế, nguyên tắc này được quy định trong Tuyên bố năm 1970 của Liên hợp
quốc về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị hợp tác
giữa các quốc gia. Hành vi Hundu bí mật điều động máy bay quân sự với tần số
siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào
lãnh thổ Renda có thể bị coi là một hành vi sử dụng vũ lực với quốc gia Renda cho
dù có mục đích chỉ là bắt tên khủng bố, nhưng nó làm ảnh hưởng tới nền an ninh
của Renda khi có quốc gia dùng lực lượng quân sự tiến vào lãnh thổ mình bí mật
như vậy. Tuy luật quốc tế khơng quy định rõ về định nghĩ thế nào là “vũ lực”
nhưng theo các văn kiện của Liên hợp quốc thì vũ lực được hiểu là sức mạnh về
quân sự, chính trị, kinh tế hoặc ngoại giao mà quốc gia này sử dụng bất hợp pháp
đối với quốc gia khác. Hundu và Renda đều là thành viên của Công ước về chống
khủng bố quốc tế nên khi tên khủng bố này đang ẩn náu trên lãnh thổ Renda thì


Renda phải có nghĩa vụ cùng hợp tác với Hundu để bắt tên trùm khủng bố này chứ
Hundu không được bí mật điều động máy bay quân sự tiến vào Renda để tiêu diệt
tên khủng bố. Điều này vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc cấm dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng tới nền an ninh quốc gia
của Renda.

2. Cuộc điện đàm chính thức giữa Tổng thống của hai quốc gia có xác lập
nghĩa vụ của Renda trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt
trùm khủng bố trên lãnh thổ Renda khơng? Vì sao?
Cuộc điện đàm này không xác lập nghĩa vụ của Renda trong việc tạo điều kiện cho
Hundu tấn công và tiêu diệt tên trùm khủng bố trên lãnh thổ Renda. Vì:
Theo nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác (quy định tại Điều 55, 56 Hiến
chương Liên hợp quốc) thì Renda và Hundu phải hợp tác với nhau trong việc bắt
tên trùm khủng bố đó nhằm duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Sự nỗ lực và thiện
chí hợp tác của Renda với Hundu phải dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế sẽ loại bỏ
được các hợp tác trái với luật quốc tế và các vấn đề toàn cầu được giải quyết, đây
vừa là lợi ích chung của các quốc gia vừa là lợi ích cho sự phát triển của các quốc
gia đó. Tuy nhiên như phân tích ở ý thứ nhất thì Hundu đã vi phạm hai nguyên tắc
cơ bản luật quốc tế nên sự hợp tác này đã khơng cịn là sự hợp tác dựa trên cơ sở
luật pháp quốc tế nữa, hành vi của Hundu đã gây phương hại tới Renda. Bên cạnh
đó, Hundu bí mật kế hoạch hành động của mình đó là bí mật điều động máy bay
quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda,
vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước Renda và tấn công nơi ở của tên trùm khủng
bố, đồng thời tiêu diệt tên trùm khủng bố. Điều này đã cho thấy Hundu chưa thiện
chí trong hợp tác với Renda vẫn cho Renda là “ngoài cuộc”, cuộc điện đàm này
như một lời cam kết Renda sẽ hợp tác tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chống
khủng bố được thực hiện bởi Hundu. Tuy nhiên, cách thức, mức độ hợp tác còn
phụ thuộc vào yêu cầu, khả năng của Renda và Hundu cũng cần tôn trọng và tuân
thủ theo đúng mức độ hợp tác giữa hai nước và luật pháp quốc tế. Như vậy trong


trường hợp này cuộc điện đàm không làm phát sinh nghĩa vụ đối với bên Renda
trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt trùm khủng bố trên lãnh
thổ Renda.
Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa hai quốc gia có phải điều ước
quốc tế.

Tình huống 5
Năm 1970, quốc gia A gửi cho quốc gia B văn bản đề nghị xác định biên giới trên
biển giữa quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà quốc gia A đang khai thác và
đại diện trong quan hệ quốc tế. Trong thư đó, quốc gia A có nêu rõ nguyên tắc,
cách thức phân định và có bản đồ phân định đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia
B bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A.
Tuy nhiên, tranh chấp đến biên giới trên biển lại nảy sinh khi C trở thành quốc gia
độc lập, có chủ quyền. Quốc gia C cho rằng: thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn
bản giữa quốc gia A và quốc gia B không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng
buộc giữa các bên. Hơn nữa, với tư cách quốc gia mới ra đời sau cách mạng giải
phóng, quốc gia C khơng phải kế thừa tất cả các điều ước quốc tế mà A đã đại diện
ký kết. Hãy cho biết:
1. Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải điều
ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên hay không? Tại sao?
2. Quốc gia C có nghĩa vụ phải kế thừa tất cả các thỏa thuận quốc tế mà quốc gia A
đã đại diện ký kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay không?
Tại sao?
Hướng dẫn:
1. Thoả thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B có phải
điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên hay khơng? Tại sao?
Thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa quốc gia A và B về vấn đề xác định
biên giới trên biển giữa quốc gia B và vùng lãnh thổ thuộc địa C mà A đang khai


thác và đại diện trong quan hệ quốc tế có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị
ràng buộc ở thời điểm C vẫn là vùng lãnh thổ thuộc địa của A.
Theo điểm a khoản 1 Luật công ước Viên năm 1969, Điều ước quốc tế dùng để chỉ
“một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp
luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.

Thoả thuận quốc tế sẽ trở thành điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc khi nó đảm
bảo các trình tự tạo nên một điều ước quốc tế, cụ thể như phải đảm bảo các giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành các văn bản điều ước: Trong giai đoạn này, các
bên sẽ thực hiện các hành vi như: đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều
ước. Thực hiện xong các hành vi này, điều ước quốc tế vẫn chưa phát sinh hiệu lực,
tuy nhiên nếu thiếu các hành vi này thì một điều ước quốc tế khơng thể được hình
thành.
Giai đoạn 2: giai đoạn thực hiện các hành vi nhằm thể hiện sự ràng buộc của quốc
gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó. Giai
đoạn này có 4 hành vi được thực hiện đó là: hành vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia
nhập điều ước quốc tế. [Theo “Luật Quốc tế” Ts. Ngô Hữu Phước]
Các thoả thuận giữa các quốc gia chưa thể trở thành một điều ước quốc tế khi thiếu
các trình tự trên.
Tuy nhiên, các quy định tại cơng ước Viên năm 1969 chỉ bắt đầu có hiệu lực từ
năm 1980. Trước khi công ước Viên năm 1969 có hiệu lực, trong quan hệ quốc tế,
điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia – có thể bằng hình thức văn bản
hoặc là sự thỏa thuận bằng miệng - thỏa thuận này được gọi là “điều ước quân tử”.
Thứ hai, xét đến yếu tố chủ thể tham gia trong thỏa thuận này là quốc gia A và
quốc gia B đều là chủ thể của luật quốc tế. Thỏa thuận này được hình thành dựa
trên sự đồng ý của 2 quốc gia (quốc gia A gửi đề nghị và quốc gia B ngỏ ý đồng ý).


Như vậy, căn cứ theo phân tích trên, thỏa thuận qua hình thức trao đổi văn bản giữa
quốc gia A và B có thể xem là điều ước quốc tế và có giá trị ràng buộc giữa A và B.
2. Quốc gia C có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thoả thuận quốc tế mà quốc gia A
đã đại diện ký kết, trong đó có thỏa thuận xác định biên giới trên biển hay
không? Tại sao? **
Với thỏa thuận quốc tế, quốc gia C khơng có nghĩa vụ kế thừa tất cả các thỏa thuận
quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết (nghĩa là quốc gia C có thể tiếp tục thực

hiện các nghĩa vụ đó hoặc không) nhưng với thỏa thuận xác định biên giới trên
biển, C vẫn phải tiếp tục tôn trọng và thực hiện thỏa thuận quốc tế này. Vì các lý do
như sau:
Thứ nhất: Theo luật quốc tế hiện hành, các quốc gia mới thành lập khơng có nghĩa
vụ phải tiếp tục thực hiện các điều ước quốc tế do quốc gia để lại thừa kế ký kết.
Căn cứ vào cơ sở pháp lý tại điều 16 và điều 28 công ước Viên năm 1978:
Điều 16: Đối với những điều ước của các quốc gia tiền nhiệm, quốc gia mới độc
lập không bị ràng buộc việc duy trì hiệu lực hoặc phải trở thành thành viên của bất
kỳ điều ước nào với lý do điều ước vẫn còn hiệu lực đối với lãnh thổ được ký kết
vào thời điểm kế thừa.
Điều 28: Điều ước song phương: Điều ước song phương vẫn đang còn hiệu ước
hoặc tạm thời áp dụng đối với lãnh thổ được thừa kế vào thời điểm thừa kế sẽ vẫn
còn hiệu lực giữa hai bên quốc gia độc lập mới hình thành hoặc quốc gia kia khi:
+ Hai bên khẳng định rõ ràng sự chấp thuận
+ Hai bên bằng hành vi thể hiện sự chấp thuận
Như vậy, đối với các điều ước quốc tế các quốc gia để lại kế thừa, có hai trường
hợp:
− Trường hợp 1: Quốc gia mới giành được độc lập không phải tiếp tục thực hiện
các điều ước quốc tế trước đây vẫn thi hành tại lãnh thổ quốc gia mới đó.
– Trường hợp 2: Đối với các điều ước mà trước đây quốc gia A đã kí kết, quốc gia
C có thể thỏa thuận các điều kiện áp dụng điều ước với quốc gia A. Hoặc C sẽ kí


kết với A các điều ước đặc biệt, trong những điều ước lại này có ghi nhận việc C sẽ
kế thừa tất cả các điều ước còn hiệu lực thi hành do A đã kí kết với B về lãnh thổ
vốn là thuộc địa của A trước đây. Thứ hai: Trong trường hợp này C vẫn phải kế
thừa điều ước quốc tế xác định biên giới trên biển giữa A và B bởi: những điều ước
biên giới về lãnh thổ thường có giá trị rất bền vững và mang tính ổn định dù hai
bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia mới vẫn buộc phải thừa kế. Căn cứ theo
quy định tại điều 11, 15 và 30 của Công ước Viên năm 1969:

Điều 11: Sự kế thừa quốc gia không ảnh hương đến tới:
Một đường biên giới đã được xác định bởi một hiệp định, hay
Các quyền và nghĩa vụ đã được xác định bởi một hiệp định liên quan đến thể chế
biên giới. Điều 15: Khi một phần lãnh thổ nhà nước hoặc khi bất cứ phần lãnh thổ
nào mà khơng cịn là lãnh thổ của quốc gia đó hoặc trở thành một phần lãnh thổ
của quốc gia khác thì
a, Điều ước của quốc gia để lại sẽ ngừng có hiệu lực với phần lãnh thổ mà quốc
gia thừa kế có liên quan, kể từ ngày quốc gia thừa kế ra đời.
Như vậy, với các điều ước quốc tế khác, quốc gia C khơng có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện các điều ước này và có thể hiện nó hay khơng nhưng với thỏa thuận quốc
tế về biên giới, quốc gia C buộc phải tôn trọng thực hiện.
Hành vi xâm phạm thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Tình huống 6
Quốc gia Hudu xúc tiến việc lắp đặt các dây cáp ngầm dưới đáy biển ở vị trí cách
đường cơ sở của quốc gia Tara 150 hải lý. Trong q trình lắp đặt, các kỹ sư thi
cơng của Hudu nhận thấy rằng cần phải cố định các đường dây cáp bằng cách
khoan 10 mũi vào đáy biển và họ gửi đề xuất này tới Chính phủ Hudu. Chính phủ
Hudu đồng ý với đề xuất trên, đồng thời cho phép các kỹ sư thi cơng thăm dị và
thực hiện việc khoan cố định 10 mũi vào lòng đất dưới đáy biển nơi đặt dây cáp
ngầm. Khi phát hiện ra hành vi nói trên, Tara đã yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi


lắp đặt dây cáp cũng như việc khoan vào lòng đất dưới đáy biển trong vùng biển
của Tara. Hãy cho biết:
1. Tara yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi lắp đặt dây cáp ngầm cũng như việc
khoan vào lòng đất dưới đáy biển có phù hợp với luật quốc tế khơng? Tại sao?
2. Hudu có thể thực hiện những quyền gì trong vùng biển trên của Tara? Tại sao?
Hướng dẫn:
1. Tara yêu cầu Hudu dừng ngay hành vi lắp đặt dây cáp ngầm cũng như
khoan vào lòng đất dưới đáy biển của Tara hoàn toàn phù hợp với quy định

của luật quốc tế.
Tại vì hành vi “lắp đặt dây cáp ngầm dưới đáy biển” cũng như “khoan vào đáy
biển” của Hudu đã vi phạm quy định của luật quốc tế đồng thời xâm phạm đến
quyền của Tara tại vùng thềm lục địa, mà khơng có sự đồng ý của quốc gia này.
Trước hết, phải khẳng định vị trí mà Hudu thực hiện các hành vi nêu trên thuộc
vùng thềm lục địa của Tara. Thềm lục địa quốc gia ven biển theo Điều 76 Công
ước 1982 được xác định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy
biển và lịng đất dưới đáy biển bên ngồi lãnh hải của quốc gia đó, trên tồn bộ
phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngồi của
rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý,
khi bờ ngồi của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”. (khoản 1
Điều 76 Cơng ước luật biển năm 1982)
Nếu bờ ngồi của rìa lục địa của quốc gia ven biển cách đường cơ sở chưa tới 200
hải lý thì thềm lục địa của nước đó được tính đến 200 hải lý, tức là đến ranh giới
phía ngồi của vùng đặc quyền kinh tế. Nói cách khác, khi bờ ngồi của rìa lục địa
gần hơn, hoặc chỉ cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng
cách là 200 hải lý (370,4 km) thì ranh giới ngồi của thềm lục địa pháp lý nước này
sẽ bằng hoặc mở rộng đến khoảng cách không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở.
Khi bờ ngồi của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá
khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở và dao động ở khoảng cách từ ngoài


giới hạn 200 hải lý ra đến các khoảng cách 250 hải lý; 300 hải lý; 350 hải lý hoặc
rộng hơn thế. Thì theo khoản 5 Điều 76 Cơng ước luật biển 1982 thì thềm lục địa
pháp lý mở rộng ngoài giới hạn 200 hải lý kể từ đường cơ sở được tính từ đường
ranh giới phía ngồi lãnh hải cho đến bờ ngồi của rìa lục địa, nhưng khơng được
vượt quá 350 hải lý (648,2 km) tính từ đường cơ sở hoặc cách đường thẳng sâu
2500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý (185,2 km).
Như vậy, vị trí mà Hudu lắp đặt dây cáp ngầm cũng như khoan vào đáy biển cách
đường cơ sở của Tara 150 hải lý hoàn toàn thuộc vùng thềm lục địa của Tara.

Theo quy định tại Điều 79, Công ước 1982 tất cả các quốc gia có quyền lắp đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa, tuy nhiên phải tuân theo điều kiện của quốc
gia ven biển khi thực hiện quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa
của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có thể khơng đồng ý cho quốc gia khác
lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của mình khi việc lắp đặt ấy cản
trở việc quốc gia ven biển thực hiện quyền của mình tiến hành những biện pháp
hợp lý để thăm dò thềm lục địa và để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm do
dây cáp và ống dẫn ngầm gây ra (khoản 2 Điều 79). Việc lắp đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm theo tuyến phải được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển (khoản 3 Điều
79). Điều đó cho thấy, quyền của tất cả các quốc gia lắp đặt dây cáp và ống dẫn ở
thềm lục địa của quốc gia ven biển không phải là quyền tự do vô điều kiện.
Trong trường hợp này, việc Hudu lắp đặt dây cáp ngầm dưới đáy biển thuộc vùng
thềm lục địa của Tara mà khơng thỏa thuận cũng như khơng có sự đồng ý của Tara
tức là đã xâm phạm đến quyền của Tara tại vùng thềm lục địa; Hành vi lắp đặt dây
cáp của Hudu khi không thỏa thuận với Tara là vi phạm quy định của pháp luật
quốc tế (khoản 3 Điều 79 Công ước Luật Biển 1982); Hành vi lắp đạt dây cáp
ngầm của Hudu có thể cản trở Tara thực hiện quyền của mình khi tiến hành thăm
dị thềm lục địa; đồng thời hành vi này cũng có thể gây ô nhiễm môi trường cho
vùng biển của Tara và Tara có quyền bảo vệ mơi trường biển ở thềm lục địa của
mình (theo quy định tại Điểu 208 Cơng ước 1982). Vì những lý lẽ trên, quốc gia


Tara hồn tồn có quyền u cầu dừng ngay hành vi lắp đặt trái phép của Hudu trên
vùng thềm lục địa của Tara. Quốc gia Tara có đặc quyền cho phép và quy định việc
khoan ở thềm lục địa bất cứ vào mục đích gì theo Điều 81 Cơng ước Luật Biển
1982: “Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm
lục địa bất kỳ vào mục đích gì.” Như vậy, Hudu tiến hành việc khoan 10 mũi khoan
lên vùng thềm lục địa của Tara khi khơng có sự đồng ý của Tara là hành vi trái với
quy định của pháp luật quốc tế, đồng thời vi phạm đến đặc quyền của Tara (Điều
81); Hành vi này cũng có thể gây ơ nhiễm cho vùng biển của Tara. Vì vậy, quốc gia

Tara có quyền yêu cầu Hudu chấm dứt các hành vi vi phạm của mình.
2. Những quyền Hudu có thể thực hiện trên vùng biển trên của Tara
Hudu cũng như các quốc gia khác hồn tồn có quyền đối với vùng nước và vùng
trời phía trên thềm lục địa của Tara. Việc quy định và thực hiện quyền tài phán của
các quốc gia ven biển không làm ảnh hưởng đến quyền tự do của Hudu.
– Hudu có quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của Tara theo
quy định tại Điều 79, Công ước 1982. Tuy nhiên, cũng theo Điều 79 thì Hudu phải
tuân theo một số điều kiện mà quốc gia Tara đưa ra khi thực hiện quyền lắp đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của quốc gia ven biển. Trước hết, Tara có thể
khơng đồng ý cho Hudu cũng như các quốc gia khác lắp đặt dây cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa của mình khi việc lắp đặt ấy cản trở việc quốc gia ven biển
thực hiện quyền của mình tiến hành những biện pháp hợp lý để thăm dò thềm lục
địa và để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm do dây cáp và ống dẫn ngầm gây
ra (Khoản 2 Điều 79). Nếu như Hudu tiến hành việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn
ngầm thì phải theo tuyến đã được sự thỏa thuận với Tara (căn cứ vào khoản 3 Điều
79). Những quy định này chứng tỏ rằng quyền của tất cả các quốc gia lắp đặt dây
cáp và ống dẫn ở thềm lục địa của quốc gia ven biển không phải là quyền tự do vô
điều kiện. Các khoản 2 và 3 của Điều 70 dành quyền quyết định cho quốc gia ven
biển. Ngoài ra, theo khoản 5 Điều 79, khi lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm thì
Hudu phải tiến hành những biện pháp phòng ngừa cần thiết đối với dây cáp và ống


dẫn ngầm đã được lắp đặt từ trước, đặc biệt là khơng làm cho chúng phải sửa chữa
lại.
– Ngồi ra, Hudu cũng có thể tiến hành việc nghiên cứu khoa học ở thềm lục địa
của quốc gia Tara. Theo quy định của Cơng ước thì điều đó về ngun tắc chỉ có
thể xảy ra khi có sự chấp thuận của Tara. Trong những điều kiện bình thường, Tara
có thể đồng ý cho Hudu, các nước khác và tổ chức quốc tế tiến hành nghiên cứu
khoa học ở thềm lục địa của mình, nếu việc nghiên cứu này được thực hiện vì mục
đích hịa bình và thỏa mãn được các điều kiện khác như Cơng ước quy định. Vì

mục đích đó, Tara ban hành các quy tắc, thủ tục và luật lệ để đảm bảo sẽ cho phép
trong một thời hạn hợp lý và sẽ không khước từ một cách phi lý (Điều 246 khoản
3).
– Hudu có quyền được khoan vào thềm lục địa khi được phép của Tara. Tại vì, theo
quy định tại Điều 81 Công ước Luật Biển 1982 thì quốc gia ven biển có đặc quyền
tài phán và quy định việc khoan ở thềm lục địa vào bất kỳ mục đích gì. Điều đó có
nghĩa là các quốc gia khác được phép khoan vào thềm lục địa của quốc gia ven
biển khi được sự cho phép của quốc gia ven biển và phải tuân thủ quy định do quốc
gia ven biển đặt ra. Như vậy, Hudu có thể có quyền khoan vào đáy biển trên vùng
thềm lục địa của quốc gia Tara khi được quốc gia này đồng ý và phải tuân thủ quy
định mà Tara đã đặt ra.
Hiệp ước hợp tác chống khủng bố
Tình huống 7
Các quốc gia A, B, C và D là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về Luật
điều ước quốc tế. Ngày 11/4/2004 các nước này đã ký Hiệp ước hợp tác chống
khủng bố” trong đó cho phép các quốc gia thành viên được áp dụng mọi biện pháp
để vô hiệu hóa tất cả các hoạt động khủng bố, kể cả áp dụng hình phạt tử hình.
Hiệp ước này yêu cầu phải phê chuẩn và có cho phép bảo lưu.
Quốc gia A ngay khi ký Hiệp ước đã đưa ra bảo lưu đối với điều khoản áp dụng
biện pháp tử hình. Sau đó, ngày 19/11/2004, cả 3 quốc gia A, B và C đã phê chuẩn


Hiệp ước mà khơng có bảo lưu (quốc gia A khi ký có bảo lưu nhưng khi phê chuẩn
khơng nhắc lại bảo lưu đó). Quốc gia D đã gửi kèm văn kiện phê chuẩn một tuyên
bố bảo lưu: “Các điều khoản của Hiệp ước ràng buộc quốc gia D, trừ điều khoản áp
dụng biện pháp tử hình”. Quốc gia C phản đối bảo lưu này của quốc gia D và tun
bố hai bên khơng có quan hệ điều ước. Quốc gia B cũng phản đối bảo lưu nhưng
không phản đối Hiệp ước có hiệu lực giữa quốc gia B và D. Quốc gia A im lặng.
Hãy phân tích và xác định hiệu lực của Hiệp ước hợp tác chống khủng bố và điều
khoản áp dụng biện pháp tử hình trong mối quan hệ giữa bốn quốc gia A, B, C, D.

Hướng dẫn:
Lý luận chung
Theo quy định tại Công ước Viên về Luật Điều ước ngày 23 tháng 5 năm 1969,
“Bảo lưu” là một tuyên bố đơn phương với bất kì cách diễn đạt hoặc tên gọi nào,
được quốc gia đưa ra khi kí, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một
điều ước, nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lí của một số điều khoản nhất
định của điều ước khi áp dụng đối với quốc gia đó. Khi một quốc gia thành viên
của điều ước quốc tế tuyên bố bảo lưu một hay một số điều khoản trong điều ước
và việc bảo lưu đó là hợp pháp, thì việc chấp thuận hay phản đối tuyên bố bảo lưu
đó của các quốc gia thành viên khác sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định,
được quy định tại Điều 23, Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 như
sau: “1. Một bảo lưu đề ... bảo lưu đó đề ra.”
Giải quyết tình huống
Trước hết, trường hợp quốc gia A khi ký có đưa ra bảo lưu đối với điều khoản áp
dụng biện pháp tử hình nhưng ngay sau đó, ngày 19/11/2004, A lại phê chuẩn Hiệp
ước mà khơng có bảo lưu. Do đó, việc bảo lưu của quốc gia A khi ký không có giá
trị pháp lý và quốc gia A qua việc phê chuẩn, đã chấp nhận chịu sự ràng buộc của
Điều ước (Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế).
Xét trường hợp tuyên bố bảo lưu và văn kiện phê chuẩn một tuyên bố bảo lưu của
quốc gia D là hợp pháp, do đó việc chấp thuận, phản đối của các quốc gia thành


viên còn lại của điều ước quốc tế về vấn đề khơng áp dụng biện pháp tử hình sẽ làm
phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định. Dựa vào các căn cứ pháp lí nêu trên, ta
thấy quan hệ điều ước giữa các quốc gia thay đổi như sau:
1. Căn cứ theo khoản 5 Điều 20 Công ước Viên 1969, chấp nhận và phản đối
bảo lưu:” Theo qui định tại các khoản 2 và 4 và trừ khi điều ước có qui định
khác, một bảo lưu coi như được quốc gia khác chấp thuận nếu quốc gia này
không đưa ra phản đối bảo lưu trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhận được
thông báo về bảo lưu hoặc vào ngày quốc gia này biểu thị đồng ý chấp nhận sự

ràng buộc của điều ước, nếu thời hạn 12 tháng nêu trên đã chấm dứt” và điểm
a Khoản 4 Điều 20 “Việc chấp thuận một bảo lưu của một quốc gia kí kết khác
sẽ làm cho quốc gia đưa ra bảo lưu trở thành một thành viên của điều ước này
trong quan hệ với quốc gia kí kết khác nêu trên, nếu hoặc khi điều ước đó có
hiệu lực đối với các quốc gia đó”.
Xét việc trước hành động bảo lưu của quốc gia D, quốc gia A im lặng và sau 12
tháng xem như Quốc gia A chấp thuận bảo lưu của quốc gia D về văn kiện phê
chuẩn một tuyên bố bảo lưu. Vì vậy giữa quốc gia A và quốc gia D vẫn tồn tại quan
hệ điều ước quốc tế về chống khủng bố, theo đó, quốc gia D sẽ khơng áp dụng biện
pháp tử hình và tương tự, quốc gia A cũng sẽ không áp dụng biện pháp tử hình để
vơ hiệu hóa tất cả các hoạt động khủng bố ở nước mình.
2. Căn cứ vào điểm b Khoản 4 Điều 20 Công ước viên 1969 “Việc phản đối một
bảo lưu của một quốc gia kí kết khác khơng cản trở việc điều ước này có hiệu
lực giữa quốc gia phản đối bảo lưu và quốc gia đưa ra bảo lưu, trừ khi quốc
gia phản đối bảo lưu đã biểu thị ý định và ngược lại”.
- Quốc gia C phản đối bảo lưu của quốc gia D và tun bố giữa hai quốc gia sẽ
khơng có quan hệ điều ước, do đó giữa C và D không tồn tại quan hệ điều ước về
hợp tác chống khủng bố.
– Quốc gia B phản đối nhưng không phản đối Hiệp ước có hiệu lực giữa quốc gia B
và D. Như vậy giữa B và D vẫn tồn tại quan hệ điều ước tuy nhiên điều khoản bảo



×