Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đánh giá nhận thức của đảng về kinh tế thị trường nêu cảm nghĩ của bản thân trong thời kì hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.59 KB, 16 trang )

I. Mở Đầu:
Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền bắc, Đảng đã xác định đưa đất nước lên
tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền bắc hoàn toàn được giải
phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại hội Đảng VI (1986) là một
bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế vói đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước.
Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn
mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Đường lối và chính sách đối mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng
ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường
lối đối mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đây là bước đột phá
cho công cuộc đối mới các lĩnh vực tiếp theo.
Bước ngoặt trong đối mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến
nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa không chỉ
có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác
nhau.
Việt Nam đang dần khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên nước ta
vẫn còn là một nước nghèo, kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế
quốc dân. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tệ nạn xã hội tham ô tham nhũng vẫn
tồn tại và phát triển. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyết tâm dấy mạnh CNH-HĐH
đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng XHCN, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
Sự thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong gần 30 năm đổi mới ở nước ta- một sự thay
đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp chúng ta thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh
tế vững mạnh.


Bài viết dưới đây sẽ phân tích bối cảnh đất nước trước đổi mới, các giai đoạn phát triển
tư duy của Đảng ta về KTTT, khắng định tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình bày những thành tựu và thách thức
của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến nhận
xét, đóng góp cũng như liên hệ tới chính bản thân em để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
II.1. LÝ LUẬN MAC - LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HOÁ:
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều mô hình kinh tế khác nhau theo trình tự từ
thấp đến cao, kinh tế tự nhiên, kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế
thị trường. Mỗi mô hình kinh tế đều có những nét đặc trưng riêng và có vai trò nhất định
đối với sự phát triển của xã hội loài người, trong đó, kinh tế hàng hoá, đặc biệt là kinh tế
thị trường (kinh tế hàng hoá đã phát triển ở trình độ cao) là mô hình kinh tế phát triển có
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ra đời và phát triển cần
phải có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của C. Mác, những điều kiện đó
là: Sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất hàng hoá. Chính vì vậy, khi nói về sản xuất hàng hoá, một mặt, C.Mác nhấn mạnh
sự phân công lao động xã hội, mặt khác, Ông cũng chỉ rõ “Chỉ có những sản phẩm của những
lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc nhau mới đối diện với nhau như là những hàng
hoá”.
Người lao động tư nhân, độc lập có thể là một người lao động cá thể, hay một người lao
động tổng thể (một xí nghiệp hiệp tác, một công trường thủ công, một công xưởng, một liên
hiệp xí nghiệp…). Xét trong phạm vi cả xã hội thì lao động của họ trước hết biểu hiện ra là
lao động tư nhân, sản phẩm được tạo ra thuộc quyền sở hữu của mỗi tư nhân đó và chỉ
thông qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu hiện thành lao động xã hội, mới chứng tỏ lao
động tư nhân đó được xã hội thừa nhận hay không. Chính vì vậy, “ Muốn cho những đồ vật
đó quan hệ với nhau như những hàng hoá thì những người giữ hàng hoá phải đối xử với
nhau như những người mà ý chí của họ chi phối các vật đó…Do đó, họ phải công nhận lẫn
nhau là người tư hữu”.
Thoạt đầu, trao đổi hàng hoá được diễn ra giữa các bộ lạc, về sau, cuối chế độ công xã

nguyên thuỷ xuất hiện sở hữu tư nhân về tư lịệu sản xuất, đó là một nhân tố làm cho lao
động của người sản xuất biểu hiện thành lao động tư nhân độc lập và cùng với sự phân công
lao động xã hội ngày càng sâu rộng đã thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Theo đà tăng
trưởng của lực lượng sản xuất nảy sinh xu hướng tách quyền sở hữu về mặt pháp lý khỏi
quyền chiếm hữu và sử dụng tư liệu sản xuất. Nhưng C. Mác cũng đã chỉ ra rằng, tính chất
tư nhân độc lập của người lao động sản xuất hàng hoá không phụ thuộc vào quyền sở hữu
về pháp lý mà chủ yếu phụ thuộc vào quyền chiếm hữu thực tế hay quyền sử dụng tư liệu
sản xuất. Sự tách biệt về quyền sử dụng tư liệu sản xuất, tính tự chủ của mỗi chủ thể kinh tế
dẫn đến sự tách biệt về quyền chiếm hữu kết quả sản xuất ( gọi là “đầu ra”), đó là cơ sở của
sự tồn tại trao đổi hàng hoá. Còn các yếu tố đầu vào (ruộng đất, vốn, các tư liệu sản xuất
khác…) về mặt pháp lý có thể thuộc quyền sơ hữu công cộng (nhà nước, tập thể); có thể
thuộc sở hữu tư nhân, người sử dụng tư liệu sản xuất ấy vẫn có thể sản xuất hàng
hoá.
Qua nghiên cứu quan điểm của C.Mác ở trên cho thấy, khi nào còn sự tồn tại của cả 2 điều
kiện, sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất hàng hoá, thì khi ấy còn phải phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Hay
nói cách khác, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường không phải chỉ là sản phẩm riêng có của
chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, C. Mác đã khẳng định: “…sản xuất hàng hoá và lưu thông
hàng hoá là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng
quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau…”
Kế thừa quan điểm của C.Mác và xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo nền kinh tế nước Nga,
cuối năm 1921, Lênin đã chủ trương thay việc áp dụng “Chính sách cộng sản thời chiến”
bằng “Chính sách kinh tế mới ” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát
triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo Ông, để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần
phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Người
khẳng định “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ
nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh của chủ nghĩa tư bản
đã thu được.”[4]. Chính vì vậy, tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã

đem lại những kết quả tích cực, đưa nước Nga thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Tiếc rằng,
tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được
tiếp tục thực hiện sau khi Người qua đời. Chính vì vậy, vào cuối những năm 70 của thế kỷ
XX, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng thêm vào đó là những sai lầm trong cải tổ đã đưa đến sự sụp đổ của
các nước này. Sự sụp đổ đó đã bộc lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi
thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
II.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần: Cách mạng
Tháng Tám vừa thành công, nhà nước VN Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời, ngày 23/9/1945
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Cả nước đứng lên thực hiện cuộc kháng
chiến vệ quốc thần thánh. Trong đường lối kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương “vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc” - một chủ trương thể hiện sinh động sự kết hợp hai giai đoạn
của cách mạng VN trong kháng chiến. Cuối cuộc kháng chiến (1953) Hồ Chí Minh viết
tác phẩm Thường thức chính trị. Trong tác phẩm này Hồ Chí Minh chỉ ra 6 thành phần
kinh tế ở nước ta (vùng tự do): Một là, kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Hai là,
kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Ba là, các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác
xã mua bán, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một
loại hợp tác xã. Bốn là, kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự
túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. Năm là, kinh tế tư
bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh
tế. Sáu là, kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do
Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của
Nhà nước là chủ nghĩa xã hội.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra
chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư đều
lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới.
Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những
người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những
nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực
lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát

triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của
đại đa số nhân dân. Hai là, chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng
Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của
công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp
lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi
bên. Ba là, công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng
khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương
thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công
nông. Bốn là Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn
và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta
những hàng hoá ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có
lợi cho kinh tế ta.
Khi miền Bắc được giải phóng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giai cấp địa chủ
phong kiến bị đánh đổ, đồng nghĩa với thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa
tô bị xoá bỏ. Vì vậy miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại năm thành phần kinh tế
mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ năm 1953. Hồ Chí Minh vẫn nhất quán với quan điểm xây
dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của cách mạng nước ta. Chính sách Người nêu đối với các thành phần kinh tế
lúc này là: Thứ nhất, với kinh tế quốc doanh – là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh
đạo nền kinh tế quốc dân. Cần phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền
tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên. Hai là, với kinh tế hợp tác xã – là hình thức sở
hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và
giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cần phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp
tác xã. Ba là, với kinh tế cá thể của những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ
khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp
đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc
tự nguyện. Bốn là, với kinh tế của những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xoá bỏ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt

động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước.
Năm là, với kinh tế tư bản nhà nước, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư bản đi
theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức khác; Nhà
nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
II.3. Thực tiễn
• Bối cảnh thế giới
Nhung nam 70 - 80 cua the ky XX, tinh hinh kinh te - chinh tri tren the gioi va cua cac
nuoc khoi chu nghia xa hoi co anh huong to lon den tinh hinh kinh te Viet Nam, the hien
cu the:
Xu the hop tac va canh tranh tren the gioi dang dan thay the xu the doi dau va xung dot.
Truoc tinh hinh do, cac quoc gia deu phai thay doi ve tu duy, chinh sach phat trien kinh te
dac biet la duong loi doi ngoai giua cac nuoc voi nhau. Chinh vi vay, mo cua va hoi nhap
kinh te quoc te la yeu cau bat buoc, la doi hoi cua chinh yeu cau phat trien doi voi nen
kinh te Viet Nam.
To chuc “cac nuoc cong nghiep moi” o Dong Nam A da dua ra nhung goi y về cách thức
và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ nông nghiệp, có quan hệ xã
hội theo kiểu giá trị văn hóa phương Đông. Đó là những thành công của chiến lược phát
triển: phát huy sức mạnh nội lực, thị trường - mở cửa, hướng vào xuất khấu và thu hút đầu
tư nước ngoài.
Sự thất bại của công cuộc cải tổ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và các nước Đông Âu là một bài học đắt giá. Đó là kết quả của con đường cải tố theo kiểu
“phủ định sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải quyết không đúng mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.
Công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng với
những đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội với Việt Nam - theo định hướng thị trường
- mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu nối bật. Đó chính là
nhưng kinh nghiệm quý báu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, bối cảnh thế giới vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX có những ảnh hưởng to
lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đe đáp ứng được yêu cầu phát
triển và phù hợp với xu hướng thời đại, chúng ta buộc phải đổi mới về tư duy, tận dụng

những cơ hội do thời đại mang lại nhưng đồng thời, những bài học quan trọng trong sự
thành công và thất bại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội
chủ nghĩa là những kinh nghiệm quý báu cho việc hoạch định đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam.
• Bối cảnh trong nước
Neu như trước đây nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời gian đầu thực hiện đã tỏ ra phù
hợp tạo bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế - xã hội, đồng thời nó thích hợp với
nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng của cả dân
tộc. Nó cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền
tuyến thì hiện nay việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã
trở thành nguyên nhân đẩy nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo
dài.
Nhà nước trở thành cơ quan quyền lực kinh tế trực tiếp mọi khâu, mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, từ sản xuất vật chất đến lưu thông, phân phối sản phẩm. Trong quan hệ với các
đơn vị kinh tế cơ sở thì nhà nước chịu trách nhiệm cấp phát vật tư, các đơn vị kinh tế chịu
trách nhiệm sản xuất và giao nộp sản phẩm theo chỉ tiêu giá trị hiện vật mang tính pháp
lệnh. Trong lĩnh vực thương nghiệp, nhà nước tố chức thu mua, tập trung nguồn hàng và
thực hiện phân phối sản phấm thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã
mua bán. Nen kinh tế vận hành theo kế hoạch pháp lệnh mang tính hành chính nên nhiều
quy luật kinh tế khách quan bị lãng quên.
Cộng thêm xuất phát điểm của nền kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
cùng với những vấp váp và sai lầm trong chính sách kinh tế nên đến năm 1985, kinh tế
nước ta đã rơi vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạm phát, thể hiện trên những mặt chủ
yếu sau:
Kinh tế tăng trưởng thấp: Từ năm 1976 đến năm 1985, tống sản phẩm xã hội tăng 50%,
tức là bình quân mỗi năm trong giai đọan 1976-1985 chỉ tăng 4,6%. Thu nhập quốc dân
chỉ bằng 80-90% nhu cầu sử dụng. Tích lũy nhỏ bé nhưng toàn bộ quỹ tích lũy và một
phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1981-1985, thu
vay nợ và viện trợ nước ngoài bằng ngân sách và bằng 28,9% tổng số thu trong nước. Neu
so với tổng số chi ngân sách thì bằng 18,6%. Đen năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5

tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Tuy nguồn thu từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn
trong tình trạng thâm hụt và phải bù đắp bằng phát hành trái phiếu. Bội chi ngân sách năm
1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6%.
Trị giá xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá trị nhập khẩu. Trị
giá xuất khấu chỉ bằng 20-40% nhập khấu: Năm 1976 bằng 21,7%, năm 1981 bằng 19%,
năm 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời
sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất không đảm bảo được tiêu
dùng. Ke cả những mặt hàng trong nước có thế mạnh như sản xuất gạo, vải. Quan hệ kinh
tế quốc tế hầu như chỉ gói gọn với các nước xã hội chủ nghĩa. Sau mười năm thống nhất,
việc xây dựng và phát triển kinh tế cơ bản trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu
nên cái gì cũng quý.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng theo cấp số nhân: Từ năm 1976, tình trạng lạm
phát ngày càng trầm trọng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước ta. Năm 1985, cuộc
cải cách giá - lương - tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm cho cơn sốt lạm phát tăng
nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Giá cả leo thang từng
ngày đã vô hiệu hóa tác dụng đổi tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn
điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả không chỉ tăng trên thị trường tự do mà còn tăng rất
nhanh trong thị trường có tổ chức, về cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầm tay bao cấp của Nhà
nước. Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới
774,4%.
Như vậy, những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế của nước ta đã lâm vào
khủng hoảng mà đỉnh cao là năm 1986.Trước tình hình đó yêu cầu đối mới nền kinh tế là
yêu cầu sống còn, là vận mệnh của đất nước.
III. Sự hình thành nhận thức của Đáng về kinh tế thị trưòng thòi kì đối mói:
III.1. Nhận thức của Đàng về Kinh tế thị trưòng từ Đại hôi VI đền Đại hội VIII:
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với
thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đối căn bản và sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát
triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao
đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Kinh

tế thị trường đã có mầm mong từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến
và phát triển cao trong chủ nghĩa Tư bản. Chủ nghĩa Tư bản không sản sinh ra kinh tế
hàng hoá. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân
loại. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất hoá
cao.
Kinh tê thị trường còn tôn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa Xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tố chức, vận
hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để
phân bố các nguồn nhân lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh
tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế
độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế
cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất
khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho
chúng.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.
Nen kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui luật vốn có của kinh tế thị trường: qui
luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật lưu thông tiền thị trường, có hệ thống pháp quy
kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
III.2. Nhận thức của Đàng về kinh tế thị trưòng từ Đại hôi IX đến Đại hôi X:
Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh
tế tống quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là “Mọí kiểu to chức kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế
thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất cùa chủ
nghĩa xã hội”. Nội dung cơ bản của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:
- về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,
đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính
đáng, giúp đờ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
- về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế,
trong mọi cá nhân và mọi vùng miền phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền
kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Trong
lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy
động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chũng ta còn thực hiện phân phối theo
mức đóng góp và các nguồn lực khác.
- về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người.
III.3. Những thay đối về nhận thức của Đàng ta .
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay
kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau
cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã
hội chủ nghĩa vận động theo các quy luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ
nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi nói đến
kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất là một

động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với trước. Nhìn khái
quát đã có những sự thay đối lớn như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hừu
về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến
quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn
dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể,
tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ
là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đến quan niệm rằng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ
nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng
của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế
ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình dài xây
dựng, đối mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến khích
phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan
trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung,
thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân
biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh;
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước,
còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa
vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường
vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng

và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các
đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh
doanh.
- Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo
lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc
lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế
mà là ở chỗ phân phối họp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn
cấm mọi sự làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo
đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng
hai đầu.
Xét về thòi gian, dưói góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được đoi mói
qua nhiều bước.
Bước 1: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị
trường.
Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc
điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ
chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đối mới quản lý kinh tế (một
bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khắng định: “thực chất của cơ chế
mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đủng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII (qua
Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước 2: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không đối
lập với chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đại biếu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa vn (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu
kinh tế nhiều thành pha đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế.

Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận
định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà
là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị
trường đã từng tồn tại và phát triến qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có
trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ
nghĩa tư bản nó vận động và phát triến ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc song của
con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như
vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn
tồn tại là tất yếu. vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đổi lập với chủ nghĩa xã hội
không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường đế rồi
tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không.
Quan điếm này củng chính là quan điếm của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương:
“Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa
Bước 3: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tống quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ.
Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù họp trên
cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,

trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thế, kinh tế cá thế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước 4: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn.
Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưởng xã
hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển
đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh
doanh.
Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại
hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thế chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào
tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực hiện
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
IV. Suy nghĩ, nhận thức của bản thân đối với những nhận thức của Đảng về KTTT
Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, chúng
ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Điều đó có ý
nghĩa to lớn được thể hiện qua những thành quả mà chúng ta đã đạt được như: kinh tế
phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao Với những thành tựu đó cho
phép chúng ta vững tin về con đường đã lựa chọn để tiếp tục điều chỉnh và bổ sung nhận
thức, làm cho quan niệm về XHCN ngày càng cụ thể cả về đường lối, chủ trương, chính
sách sao cho ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và cơ sở thực tiễn.
Thành tựu của hơn 20 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho chúng ta
quen dần với các quan hệ hàng hoá, chúng ta đã chứng tỏ được rằng đường lối đổi mới là

đúng đắn. Diện mạo của nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh; đến nay, nước ta đã ra khỏi nhóm nước kém phát triển, với GDP bình
quân 1.200 USD/ người; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Chính trị-
xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh được giữ vững; nước ta được xem là một trong những
nơi an toàn nhất thế giới để thu hút các nhà đầu tư và khách du lịch nước ngoài. Việc gia
nhập WTO đã đánh dấu sự hội nhập sâu, rộng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thị
trường toàn cầu, khẳng định những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, cũng như vị
thế ngày càng tăng của nước ta trên trường quốc tế. Thực tiễn đó là cơ sở để Đảng ta tiếp
tục khẳng định “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), xem đó là
một trong 8 phương hướng cơ bản nhằm xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực tiễn những lợi ích do phát triển kinh tế thị trường những năm qua là phù hợp với sự
nghiệp xây dựng CNXH. Nó không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của thời kỳ
quá độ; mà ngược lại, còn thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ đó tốt hơn. Vì thế, phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là bước đi đúng với yêu cầu về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, kinh tế thị
trường mà chúng ta chủ trương phát triển không phải là nền kinh tế thị trường TBCN và
cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường XHCN, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với những đặc trưng cơ bản
sau đây:
Một là, xét về mục đích, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải nhằm mục
tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; tức là phải
nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH. Theo đó, Đảng và Nhà nước phải có nhiều
giải pháp đồng bộ để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường và hạn chế những
tác động tiêu cực do nó gây ra.
Hai là, xét về mặt quan hệ sản xuất, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng có nhiều
thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất; trong đó,
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở

rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân”
4
. Đây là điểm khác biệt căn bản so với mô hình kinh tế thị
trường TBCN. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có chính sách phù hợp để khuyến khích mọi
thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; đồng thời,
cũng phải chăm lo phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, tích cực xây dựng kinh
tế tập thể.
Ba là, xét về cơ chế vận hành nền kinh tế, thì đó là nền kinh tế “vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”
5
. Do vậy, đó
không phải là nền kinh tế thị trường tự do. Cần thấy rằng, sự quản lý của nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường, nhằm khắc phục những khuyết tật của nó, là một xu thế khách
quan của mọi nền kinh tế thị trường hiện nay trên thế giới. Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu
vừa qua càng khẳng định nguyên lý đó. Thế nhưng, mục đích cuối cùng về mặt kinh tế-xã
hội của sự quản lý nhà nước lại phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước. Trong
CNTB, sự quản lý của nhà nước tư sản có mục đích sâu xa là đảm bảo mở rộng sự bóc lột,
thống trị kinh tế thế giới cho các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Trái lại, với
bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân, sự quản lý của Nhà nước ta trong phát triển
kinh tế là nhằm cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành
công CNXH. Tuy nhiên, sự quản lý đó phải bằng các biện pháp “tương hợp” với các quy
luật của kinh tế thị trường. Bởi thế, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các
nguyên tắc phản ánh bản chất của CNXH (thể hiện qua các biện pháp can thiệp, quản lý
của nhà nước XHCN). Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức chăm lo xây dựng bộ máy
nhà nước pháp quyền trên cả hai mặt: thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự gần dân và
vì dân; có năng lực quản lý vĩ mô ngày càng hoàn thiện. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh cải cách
hành chính, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.

Bốn là, tiến bộ và công bằng xã hội được chú ý giải quyết ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường TBCN ngày nay,
vấn đề công bằng xã hội cũng được đặt ra, nhưng chỉ được giải quyết trong khuôn khổ và
giới hạn của CNTB và là phương tiện để duy trì, phát triển chế độ đó. Trái lại, trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trong suốt quá
trình phát triển. Với chúng ta, tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để
đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, mà còn là mục tiêu cần phải hiện
thực hóa từng bước trong quá trình đi lên CNXH; cho nên, nó sẽ được thực hiện “ngay
trong từng bước và trong từng chính sách”
6
. Theo đó, chúng ta không chờ đến khi kinh tế
đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời,
cũng không chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần để “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã
hội. Ngược lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi
chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không
phải là sự lặp lại chủ nghĩa bình quân, chia đều cái nghèo cho mọi người dân; mà ngược
lại, phải tạo cơ hội bình đẳng để mọi người dân phấn đấu đều trở nên khá giả. Do vậy,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhiều chính sách nhằm “Tạo môi trường và
điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu
hợp pháp đi đôi với giảm nghèo bền vững. Có chính sách điều tiết hợp lý thu nhập trong
xã hội. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”; “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”
7
. Trong thời gian
tới, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, Nhà nước cần
có các chính sách quan tâm đặc biệt đến những gia đình thương binh, liệt sĩ, người có
công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, những vùng bị thiên
tai tàn phá , để sớm thu hẹp sự phân cực giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, cũng như

giữa các vùng, miền trong phạm vi cả nước.
Các đặc trưng nói trên là một thể thống nhất. Có hiểu rõ và nắm vững thực chất những
đặc trưng đó mới có thể đề ra và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, có hiệu quả các giải
pháp đúng đắn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Chỉ có như vậy, các mục tiêu của CNXH mới được hiện
thực hóa trong cuộc sống. Thành công của mô hình CNXH đổi mới, chứa đựng trong đó
sự phát triển kinh tế thị trường, chắc chắn sẽ là một đóng góp quan trọng vào phát triển
học thuyết Mác-Lê-nin về CNXH nói chung, về con đường xây dựng CNXH ở những
nước khởi đầu từ nền kinh tế chậm phát triển nói riêng. Đó sẽ là sự phủ định mạnh mẽ đối
với những luận điệu xuyên tạc về sự không “dung hợp” giữa kinh tế thị trường và CNXH;
đồng thời, củng cố niềm tin về sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
tất yếu ở nước ta. Niềm tin đó đã được những thành tựu của công cuộc đổi mới hơn 25
năm qua khẳng định và cuộc sống hôm nay tiếp tục củng cố.
Nhìn lại lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có thể thấy
được trong mỗi sự kiện lịch sử đều có sự đóng góp to lớn của thế hệ thanh niên. Nổi trội
hơn cả là những chiến công do lớp lớp thế hệ thanh niên lập nên góp phần cùng toàn dân
tộc tạo nên thành công của hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh tan bè lũ thực dân, đế
quốc giành lấy độc lập tự do để xây dựng nên nước Việt Nam hòa bình thịnh vượng ngày
hôm nay.
Bác Hồ nói: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Sau này, trước lúc đi xa, trong di chúc
để lại Người còn căn dặn: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên để đào tạo thanh niên trở thành những người kế thừa xứng đáng sự nghiệp cách mạng
xây dựng xã hội chủ nghĩa,
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khóa VII đã khẳng định:
“Thanh niên phải là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên,
vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên. Trong giai đoạn mới của cách mạng hiện
nay, một lần nữa Đảng ta lại khẳng định điều đó, nghị quyết hội nghị Ban chấp hành

Trung ương Đảng lần thứ bảy khóa X nhận định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn,
một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng
chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức
khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn
năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình”.
Đó là những nhận định của Đảng và nhà nước ta về vị trí và vai trò của thanh niên trong
công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước từ ngàn xưa đến thời kì công nghiệp
hóa,hiện đại hóa hiện nay. Đảng và nhà nước đã nhận thấy vị trí và vai trò của thanh niên
quan trọng thế nào đối với vận mệnh đất nước.
Chúng ta thấy rằng sinh viên là một bộ phận tiên tiến trong thanh niên, là những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về một lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư
duy độc lập. Do đó, sinh viên cũng có vị trí và vai trò của thanh niên. Nhưng với những
đặc điểm riêng của mình, sinh viên sẽ là những người chủ tương lai của đất nước, là
những người sẽ nắm vận mệnh của đất nước, là thuyền trưởng lèo lái con tàu cách mạng
Việt Nam vượt qua những con sóng dữ của thời đại. Do đó, sinh viên phải không ngừng
nâng cao năng lực chính trị và không ngừng rèn luyện, thử thách để có một tư tưởng
chính trị vững vàng.
Việc ngày càng có nhiều sinh viên được kết nạp Đảng đã thổi vào Đảng một luồng sinh
khí mới và làm cho sinh viên thấy được vị trí, vai trò cũng như sự quan tâm của Đảng,
nhà nước đối với sinh viên. Từ đó nâng cao trách nhiệm và ý thức của sinh viên về vận
mệnh đất nước. Sinh viên là đảng viên trẻ với sức trẻ, sự sáng tạo, dám nghĩ dám làm sẽ
đóng góp cho Đảng, đất nước những suy nghĩ táo bạo, mới mẻ nhằm đưa đất nước đi lên.
Sinh viên còn là lực lượng đại diện cho sự tiến bộ của đất nước. Sinh viên với sức trẻ và
sự say mê tìm tòi không những tiếp thu những kiến thức trên giảng đường mà họ còn
nhanh chóng cập nhật không ngừng những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới thông
qua báo đài, internet và họ sẽ đem tất cả những gì học được vận dụng vào cuộc sống và
công việc làm cho xã hội, đất nước ngày càng phát triển, tiến bộ hơn.
Với vốn kiến thức rộng, say mê nghiên cứu, sáng tạo không ngừng và được tạo điều kiện
tiếp xúc với những tiến bộ mới nhất của khoa học công nghệ thế giới, sinh viên sẽ là
nguồn nhân lực chất lượng cao cung ứng cho những dự án trọng điểm phát triển kinh tế

nước nhà. Những dự án như nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, nhà máy lọc dầu Dung
Quất, đường cao tốc Bắc Nam …. là những dự án trọng điểm quốc gia, những dự án này
sẽ đem lại cho đất nước nguồn lợi kinh tế to lớn, làm thay đổi bộ mặt của nhiều vùng
miền nói riêng và đất nước nói chung. Xây dựng và điều hành những dự án, nhà máy này
không ai khác chính là sinh viên có trình độ cao của đất nước ta vì khi đó chúng ta vừa
đảm bảo cả về an ninh kinh tế vừa đảm bảo an ninh quốc phòng, giảm bớt sự lệ thuộc và
ảnh hưởng của nước ngoài.
Là một sinh viên đang học tập tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân – ngôi trường đầu
ngành của cả nước về đào tạo kinh tế, em nhận thấy trách nhiệm của bản thân, không chỉ
là việc học tập tốt để không phụ lòng của gia đình mà còn là trách nhiệm với xã hội. Nó
được thể hiện bằng việc nỗ lực học tập trên giảng đường, tham gia các hoạt động xã hội,
tìm tòi những kiến thức mới để sau này khi ra trường dù có hoạt động trong bất kì lĩnh
vực nào của ngành kinh tế cũng có thể đóng góp hết sức mình, góp phần nhỏ bé xây dựng
thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta
đang hoàn thiện.

×