Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Các kiểu mỏ volfram ở việt nam và trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.74 KB, 17 trang )

CÁC KIỂU MỎ VOLFRAM Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.1.
Phân chia các kiểu mỏ volfram ở Việt Nam
1.1.1.
Phân chia theo thành hệ quặng
Theo nguyên lý thành hệ của các nhà địa chất Liên Xô, thành hệ quặng được hiểu là
tập hợp những mỏ quặng, điểm quặng có thành phần giống nhau thành tạo trong điều
kiện giống nhau, không quan tâm đến tuổi thành tạo. Một số thành hệ quặng volfram sau
đây thường được sử dụng ở Việt Nam:
a- Thành hệ pegmatit chứa thiếc - volfram : những tích tụ quặng của thành hệ
quặng này thấy ở Phia Oắc (Cao Bằng), Kim Cương (Hà Tĩnh), Thường Xuân (Thanh
hoá). volframit là khoáng vật cộng sinh ổn định của thành hệ này.
b- Thành hệ casiterit - volframit - thạch anh: khoáng sản của thành hệ này tạo nên
nhiều mỏ có ý nghĩa vùng Phia Oắc, Bái Thượng... Trong đó kiểu mỏ greisen khơng
những có ý nghĩa cơng nghiệp về quặng thiếc, volfram mà cịn có ý nghĩa cơng nghiệp về
một số ngun tố hiếm khác nữa.
c- Thành hệ thạch anh - casiterit - volframit. Các mỏ quặng điển hình là: Phia Oắc,
Thiện Kế, Bà Nà. Thành phần khống vật có thạch anh, casiterit, volframit, molipdenit,
inmenit, topaz và sulfur (pyrit, arsenopyrit, chancopyrit, pyrotin), zilvaldit. Đây là một
trong hai thành hệ thiếc gốc phổ biến nhất ở Việt Nam. Biểu hiện đặc trưng là các mạch
thạch anh có casiterit, volframit và các đới greisen hóa, các vịm đỉnh greisen.
Một số mỏ và điểm quặng cịn thiếu nhiều thơng tin hoặc thơng tin khơng điển hình
nên khó xếp chúng chính xác vào những thành hệ cụ thể, thậm chí khơng giống nhau giữa
các nhà nghiên cứu.
1.1.2. Phân chia theo kiểu nguồn gốc thành thành tạo quặng
Gần đây một số tác giả đã dùng khái niệm kiểu mỏ để phân loại các mỏ và điểm
quặng. Theo đó, kiểu mỏ hay cịn gọi là kiểu khống sàng, là những mỏ và điểm quặng
có đặc điểm chung về thành phần vật chất (khống vật, hóa học) về đặc điểm đá vây
quanh và biến đổi đá vây quanh, về hình thái thân quặng và được thành tạo trong những
điều kiện địa chất giống nhau. Theo nguyên tắc này, khoáng hóa thiếc, volfram và các
nguyên tố đi kèm ở Việt Nam có thể sơ bộ xếp vào các kiểu nguồn gốc sau:


a- Kiểu mỏ nguồn gốc skarn - đới trao đổi thay thế: Thân quặng kiểu này thường
nằm trong đới tiếp xúc giữa đá magma xâm nhập granitoid với đá carbonat. Loại hình này
thường có quy mơ từ vừa đến lớn. Các khoáng vật quặng thường gặp là scheelit


[Ca(WO4)], (rất hiếm gặp volframit [(Fe2+)WO4
(Mn2+)WO4] phân tán trong đá
hoặc lấp đầy trong các ổ, khe nứt. Các khoáng vật đi cùng có thể gặp pyrit, pyrotit,
casiterit, vàng, bismustin.
Ở nước ta kiểu thành tạo này gặp ở Đại Từ -Thái Nguyên, điểm quặng Pô Pen và
Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Ở Đại Từ - Thái Nguyên, quặng được thành tạo dọc tiếp xúc
của xâm nhập phức hệ Pia Oăc (khối Đá Liền) với đá trầm tích lục nguyên-carbonat (hệ
tầng Phú Ngữ) .
b - Kiểu mỏ nguồn gốc nhiệt dịch.
+ Kiểu thân quặng mạch thạch anh-volframit (nhiệt dịch nhiệt độ cao)
Thân quặng có dạng mạch với sự phát triển q trình greisen hóa mạnh, thường tập
hợp thành đới, chủ yếu liên quan với granit axit. Đây là kiểu mỏ có giá trị cơng nghiệp
đối với volfram. Khống vật quặng chính là volframit, rất hiếm gặp các khoáng vật
cassiterit, molipden, scheelit, bismutin, arsenopyrit, pyrite và các sulfur khác. Khống vật
mạch có thạch anh, turmalin, topa, berin, fluorit, fenspat.
Ở nước ta loại hình này gặp ở xã Thiện Kế, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang;
Núi Đất, tỉnh Ninh Thuận; Mé Pu, tỉnh Bình Thuận.
+ Kiểu thân quặng mạch thạch anh - volframit - casiterit (Kiểu vòm đỉnh
greisen chứa volfram - thiếc - molipden):
Đây là kiểu khá phổ biến ở Việt Nam, thân quặng dạng khối vòm chiếm phần cao
nhất của những thể granit chưa xuất lộ hoàn toàn, đi kèm là những mạch thạch anh chứa
quặng. Phần vịm đỉnh này bị greisen hóa mạnh gần như hồn tồn. Những vịm đỉnh
greisen này là phần trung tâm của một trường quặng có sự phân đới ngang theo chiều
giảm dần của nhiệt độ thành tạo rất điển hình
Quặng thành tạo thường có dạng mạch hoặc hệ mạch song song liên quan với q

trình greisen hóa ở đới nội hoặc ngoại tiếp xúc của các khối xâm nhập với các đá vây
quanh. Các mạch quặng kiểu này thường có bề dày từ 0,1-0,2m đến 1,5m (TB 0,30,6m),
dài 100 đến 400-500m. Hàm lượng WO3 trong quặng thay đổi từ 0,02 đến 2,43 %. Hàm
lượng volfram thường gấp 3 đến 25 lần hàm lượng thiếc.
Các khoáng vật quặng chủ yếu là volframit, cassiterit, có molybdenit và các khống
vật sulfur khác (pyrit, pyrotin, chancopyrit, arsenopyrite). Thành phần khoáng vật mạch
phi quặng có thạch anh, muscovit, felspat, topaz...
Ở nước ta loại này gặp ở Pia Oăc - Cao Bằng; Thiện Kế -Tuyên Quang; Bù Me Thường Xuân -Thanh Hóa; Tháp Chàm - Ninh Thuận, Đồi Cờ - Mé Pu - Bình Thuận, xã


Chư Mom Ray (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum).
Ngoài ra cũng có thể xếp các mỏ như Đá Liền - Đại Từ - Thái Nguyên, Bà Nà Quang Nam, Ngọc Tụ - Đak Tô - Kon Tum vào kiểu greisen. Tuy nhiên đặc điểm khống
hóa ở mỏ Đá Liền và Ngọc Tụ có những điểm hơi khác, chúng là những vòm đỉnh
greisen chứa nhiều syenit, chưa phát hiện thấy nhiều casiterit, volframit. Điều đó chứng
tỏ khi dung dịch khí hóa - nhiệt dịch trào lên, mơi trường tạo quặng có nhiều canxi.
c - Kiểu mỏ nguồn gốc nhiệt dịch nhiệt độ thấp: Thuộc thành hệ scheelit
[Ca(WO4)] - Fecberit - Stibnit (Sb2S3) liên quan với các bướu xâm nhập, đá phun trào
andezit - daxit, ryolit, granit porphir nằm gần mặt đất thường có tuổi Paleogen. Thành
phần khống vật chủ yếu gồm: fecberit, scheelit, stibnit, thạch anh (canxedoan), đơi khi
có cinaba, telua vàng, bạc.
2.2. Phân chia các kiểu mỏ volfram trên thế giới
Trong những năm gần đây, nhiều tác giả trên thế giới đã đưa ra nhiều kiểu phân loại
thành tạo quặng vonfram trên cơ sở về nguồn gốc sự thành tạo, địa hóa - khống vật, địa
kiến tạo và các ngun tắc khác (Ahfeld, 1958; Apelcin, 1980; Bybochkin, 1965; Burmol
và nnk, 1978;. Denisenko, 1975; Hosking, 1973; Li và Wang, 1955; Little, 1959;
Malinovsky, 1965; Mo Chu Sun, 1957; Ontoev, 1971; Povilaitis, 1971; Rundquist và
Shcheglov, 1968; Shcheglov và Butkevich, 1978; Shcherba, 1968; Stemprok, 1979).
Dưới đây các tác giả đưa một số kiểu phân loại khá đơn giản phục vụ cho việc dự
báo, khảo sát cho và đánh giá các mỏ vonfram. Đây là một việc cần thiết để phát triển
một bảng phân loại với mục đích quan tâm thích đáng đến vị trí địa chất và cấu trúc hình

thái của mỏ quặng và thành phần khoáng vật của thân quặng cũng như các loại đá biến
đổi kèm theo các quặng, tức là các đặc tính dễ dàng quan sát và dễ dàng xác định ở giai
đoạn đầu trong quá trình khảo sát các mỏ quặng.
Bảng phân loại các mỏ quặng vonfram (của một số tác giả trên thế giới) được đề
xuất trong bảng 1. Bảng phân loại này khá hợp lý đối với việc phân chia tất cả các kiểu
hình thái của các mỏ quặng khác nhau mà đã được biết đến trước đây như: dạng mạch
nhỏ, thể cán, ống, mái vòm granit, daike, đới dập vỡ, vv thành ba nhóm chính:
Bảng 1: Sự phân loại các mỏ quặng volfram theo thành phần quặng


Ghi chú R = kim loại hiếm: Be, Li, Cs, Nb, Ta; sulphur Bi-Cu-Pb-Zn
(I)- Các kiểu thành tạo quặng cắt nhau, bao gồm mạch nhỏ và các thể cán; (II) - Các
kiểu mỏ quặng tiếp xúc mà trong đó sự khống hóa được đại diện bởi các thể biến chất
trao đổi phát triển dọc theo ranh giới tiếp xúc giữa các khối granit và các đá vây quanh và
các đá liên quan tại một khoảng cách trong đới tiếp xúc trong; (III)- Các kiểu mỏ quặng
phân tầng.
Với kiểu phân loại nêu trên, nhìn chung chúng được gộp vào kiểu hình thái đặc biệt,
chẳng hạn như mái vịm khống hóa granit và thể mạch, có thể được gọi là một trường
hợp cụ thể của biến chất tiếp xúc trao đổi bằng cách thay thế chọn lọc tại phần đỉnh của
các khối granit hoặc của các thể mạch. Tương tự như vậy, một số mạch quặng dạng ống
giống như thân quặng có thể là kết quả của một sự phát triển đặc biệt của một hệ thống
đứt gãy thể cán và hệ thống đứt gãy thông qua thay thế chọn lọc của các đường ống núi
lửa hoặc sự phát triển của khoáng hóa dọc theo đường giao nhau có đặc tính dốc đức
song song với với mái của khối granit. Các thân quặng biến chất trao đổi được cho là sự
hình thành chuyển tiếp từ sự mở rộng kèm theo hai hoặc ba nhóm thành tạo quặng dạng
hình thái khác. Trong các thành tạo quặng giao cắt nhau, đặc trưng chuyển tiếp của chúng
được hiển thị trong sự biến đổi của các đá tại tại phần trung tâm của các thể cán; trong


các thể quặng chuyển tiếp nó được hiển thị trong q trình mở rộng của các thành tạo

skarn, amphibol hóa, silicificat hóa và graphit hóa trong phạm vi đới quặng. Đặc trưng
chuyển tiếp này của các thành tạo quặng tiếp xúc thì được cho thấy bằng mũi tên trong
bảng.
Nhiều kiểu thành tạo quặng vonfram có thể được phân biệt bởi thành phần khoáng
vật của chúng, nhưng nếu chỉ lấy sản phẩm cộng sinh của khoáng vật quặng và khoáng
vật mạch làm cơ sở phân hệ thống hóa thì sự phân loại của các thành tạo quặng đơn giản
hơn nhiều. Nó đã được phát hiện ra rằng tất cả các khoáng vật chính có thể được chia ra
thành tám nhóm như trong bảng 1. Trong đó giới thiệu các nguyên tố quặng nhưng khơng
phải là khống vật, bởi vì các khống vật thành tạo quặng thay đổi đáng kể phụ thuộc
đáng vào kiểu thành tạo quặng và sẽ được trình bày dưới đây.
Chỉ có một hoặc nhiều hơn một trong những nguyên tố quặng đã đề cập trong từng
nhóm, chúng cần lưu ý, có thể quan trong về thương mại. Như một kết quả các nhóm này
(ví dụ: nhóm thiếc -vonfram) có thể bao gồm cả các đơn kim loại (thiếc hoặc vonfram) và
các thành tạo quặng phức tạp. Trong một số nhóm như vậy (nhóm molipđen - volfram,
vàng - volfram và angtimon -volfram nói riêng) một sự chuyển tiếp phân đới liên tục từ
thành tạo quặng đơn kim loại (ví dụ như thiếc) thông qua thành tạo quặng phức tạp
( thiếc-volfram) đến thành tạo quặng đơn kim loại khác có thể thường được quan sát thấy.
Trong những trường hợp này một thành tạo quặng phức tạp đặc biệt được xem thuộc về
một kiểu quặng volfram- thiếc từ các giá trị của các nguyên tố quặng. Ví dụ về các thành
tạo quặng với các quá trình chuyển tiếp lẫn nhau trong các vùng quặng của Liên Xô là
các mỏ vonfram thiếc ở vùng Đông - bắc và Transbaikalia, và các mỏ vonfram-molypden
của trung tâm Kazakhstan.
Phần chuyển tiếp lẫn nhau giữa các thành tạo quặng trong một nhóm mỏ quặng có
thể được ghi nhận bằng sự chuyển tiếp giữa các kiểu thành tạo của các nhóm khác. Một
số kiểu thành tạo có thể có đặc điểm của hai nhóm mỏ. Trong khi những nhóm khác lại là
phần trung gian.
Như vậy, sự chuyển tiếp được đánh dấu bằng mũi tên trong Bảng 1. Chúng ta phải
nhấn mạnh rằng các kiểu thành tạo khác nhau của mỏ quặng vonfram đặc trưng bởi quá
trình chuyển tiếp, như vậy chỉ có thể được đặt trong trình tự mà được thể hiện trong bảng.
Ví dụ các thành tạo quặng sunfua - vonfram, cho thấy sự liên kết chặt chẽ với thành tạo

quặng volfram -molipđen và volfram - vàng thơng qua phân nhóm trung gian, sau đó liên


quan với thành tạo quặng volfram - angtimon và cuối cùng thành tạo quặng volfram mangan.
Sự tồn tại của quá trình chuyển đổi lẫn nhau được minh họa ở một mức độ khác
nhau của các mối quan hệ địa hóa giữa vonfram và các yếu tố quặng cũng có thể phân
biệt với nhóm khống vật cộng sinh trong mạch quặng. Cho ví dụ thành tạo quặng
vonfram dạng mạnh nhỏ của các nhóm khác nhau được đặc trưng hóa bởi các nhóm sau:
thạch anh; fenspat fenspat; thạch anh - thạch anh - thạch anh; topaz - thạch anh;
muscovit-thạch anh; tourmaline, thạch anh, fluorit; cacbonat thạch anh; carbonat; barit.
Mỗi thành tạo quặng của mỗi nhóm trong tám nhóm ở Bảng 1, trong hầu hết các
trường hợp, một giai đoạn thành tạo quặng đặc trưng trong một chu kỳ của sự tiến hóa
dung dịch tạo quặng. Chúng bao gồm tổ hợp cộng sinh khoáng vật duy nhất lặp đi lặp lại
liên tiếp trong cùng một kiểu thành tạo quặng. Chúng cũng được đặc trưng bởi sự biến
đổi tương tự của các loại đá vây quanh gần thân quặng. Tất cả điều này sẽ giúp xác định
loại thành tạo quặng không phân biệt thời gian, khơng gian và điều kiện địa chất khác. Sự
hình thành khoáng sản diễn ra hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng triệu năm. Khống
hóa đi kèm với khống sản vonfram được cho là phát triển gần như đồng thời với chúng.
Sự thừa nhận cần phải được thực hiện, tuy nhiên, thực tế là các thành tạo quặng
hoặc các trường quặng khác đã được biết, ngoài thành tạo quặng volfram thơng thường
"một giai đoạn” như vậy đã được hình thành bởi không gian chồng chéo về nguồn gốc đã
được thành tạo trong giai đoạn hơi khác nhau. Trong những trường hợp này thành tạo
quặng gọi là “nhiều giai đoạn”, sự hình thành này diễn ra trong một thời gian dài hàng
chục triệu năm. Chúng cũng có một số đặc điểm cụ thể, bao gồm cả "hoạt động magma
nội quặng”, sự đa dạng của các loại đá thay đổi kèm theo các quặng và sự phân đới phức
tạp của khống hóa, hoặc phi chuẩn (bao gồm nghịch đảo) loại điển hình của chúng. Từ
quan điểm thực tế, chúng ta phải nhấn mạnh rằng các mỏ quặng như vậy một thành tạo
quặng thương mại với thành thành phần quặng phức tạp. Ví dụ như mỏ Tyrnyauz, Dzhida
và Vostok-2 ở Liên Xô, Climax tại Hoa Kỳ, Mount Pleasant ở Canada, Iian, Huanpodi và
Lian - Huanshan ở Trung Quốc, Viloco và Caracoles ở Bolivia. Echassières ở Pháp và

Torrington ở Úc.
Trong Bảng 1 cho thấy, thành tạo quặng vonfram trong các nhóm theo chiều dọc
(được xác định theo các kim loại liên quan) khác biệt đáng kể về nguồn gốc (endogenic,
endoexogenic, exogenic) và trong một vài đặc tính chính của thành phần và cấu trúc, bao


gồm cả giá trị kinh tế của chúng. Một phần tiếp theo của thành tạo quặng có thể được
thực hiện trên cơ sở cấu trúc này và thành phần quặng, ghi nhận sự thành tạo bao gồm
một nhóm thành tạo quặng được đặc trưng bởi sự ổn định của tổ hợp cơng sinh khống
vật của kiểu quặng và các đá biến đổi nhiệt dịch xuất hiện thường xuyên theo không gian
và thời gian.
Theo điều này, nó thích hợp tên của các kiểu thành tạo quặng khác nhau để phản
ánh quặng gốc và khoáng vật nền (hay các khoáng vật), tức là tổ hợp khoáng vật dễ nhận
biết của biến đổi nhiệt dịch trong các đá vây quanh liên quan đến một trong những đá
biến biến chất trao đổi. Tên của các loại thành tạo quặng được phân biệt trong bảng 1
cũng được hình thành trên nguyên tắc này. Tùy thuộc vào khống hóa chiếm ưu thế mà
các tên này cần được bổ sung với các khống sản chính. Ví dụ thành tạo quặng casiteritthạch anh-greisen, volframit-thạch anh-greisen và molybdenit-thạch anh-greisen và các
loại khác có thể được đưa ra trong số thành tạo quặng thạch anh greisen. Ví dụ để có
thơng tin đầy đủ hơn các loại hình thái của thành tạo quặng cũng có thể được chỉ ra, như
thành tạo quặng volframit-thạch anh-greisen dạng mạnh nhỏ, thành tạo quặng dạng thể
cán casiterit-thạch anh-greisen, vv.
Tên của thành tạo quặng skarn, greisen and apogranit có thể được thành tạo trong
một cách tương tự (kiểu 7-8 bảng 1): ví dụ thành tạo skarn garnet-pyroxene scheelite, vv.
Theo quan điểm sự đa dạng của tướng khoáng vật của biến chất trao đổi chứa quặng đã
được quan sát, tuy nhiên, trong các thành tạo quặng kim loại khác nhau (thiếc, vonfram,
molypden và các kim loại khác) của kiểu hình thái này, tên của chúng được đưa ra trong
bảng theo sự thành tạo biến chất trao đổi chứa quặng phổ biến nhất.
Việc đặt tên của các thành tạo quặng ngoại sinh khác đôi chút so với phương pháp
xem xét ở trên, vì chúng là những đá vây quanh chứa quặng và khơng phải là khống vật
cộng sinh riêng biệt. Bởi vì điều này, thành tạo quặng nên được coi là sa khoáng chứa

volframit và casiterit hoặc travectin, lớp vỏ phong hóa hoặc trầm tích do bốc hơi chứa
vonfram, vv... (chứa vonfram nhưng không chứa volframit và scheelite, vv, vì vonframit
khơng tạo thành dạng khống vật độc lập trong chúng và có mặt như volfram-sắt trong
các oxit và hydroxit mangan và sắt hoặc trong nước mặn).
Giải thích bổ sung ngắn gọn về bảng 1 liên quan chủ yếu đến một số loại đã được
công nhận của biến chất trao đổi và thành tạo khoáng vật chủ yếu của vonfram trong các
thành tạo của các nhóm khác nhau được đưa ra dưới đây, cùng với các ví dụ điển hình


của các mỏ quặng.
2.2.1. Kiểu thành tạo pegmatit-albitite (loại 1, bảng 1)
Khống hóa vonfram kiểu này có sự phân bố kém quan trong hơn so với Sn và
khống hóa ngun tố kim loại hiếm. Thành tạo quặng kiểu này có thể, tuy nhiên, đây là
một nguồn quan trọng của sa khống, đặc biệt trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng.
Volframit là khống vật duy nhất volfram có tầm quan trọng trong pegmatit. Ví dụ thành
tạo quặng pegmatit-albitite ở Kular và Priiskatel (Liên Xô), các Woodgina tại Úc, Bikita
ở Zimbabwe và Monono-Kitotolo ở Zaire.
2.2.2. Thành tạo quặng thạch anh greisen dạng mạch, dạng cán trong vòm
granite, đai mạch thay thế trao đổi (loại 2 và 8)
Loại này phổ biến trong hầu hết các tỉnh vonfram của thế giới. Volframit là phổ
biến nhất, nhưng thành tạo quặng greisen chứa scheelite trong vòm granit cũng được biết
đến như (Dzhulalu trong Gorny Altai, Liên Xô). Các pha sản phẩm của greisen khác nhau
(như liên quan đến hàm lượng quặng). Tùy thuộc vào loại thành tạo quặng, vị trí của nó
so với khối granit và mức độ xói mịn của thân quặng. Có rất nhiều ví dụ về các loại
thành tạo quặng kiểu này như: Akchatau, Kara-Oba, lultin (Liên Xô cũ); Altenberg,
Ehren-friedersdorf, Cinovec, Krupka trong Erzgebirge (Cộng hòa Dân chủ Đức và Tiệp
Khắc (cũ); Panasqueira (Bồ Đào Nha); Lost River (Thổ nhĩ kỳ); Volfram Camp
(Australia); Sihuashan (Trung Quốc); Mawchi (Miến Điện); Yugodzyr (Mông Cổ), vv.
2.2.3. Thành tạo quặng dạng mạch thạch anh sericit-K-feldspathic (gumbeitic)
(loại 3)

Được sử dụng xem như là một loại hoặc một kiểu khống của mạch thạch anh
greisen, nhưng có một số đặc điểm nổi bật đặc biệt của các thành phần và cấu trúc mà
làm cho nó hợp lý như một loại khống hóa độc lập của volfram. Những tính năng này
bao gồm sự tồn tại đáng kể khống hóa ở độ sâu lên đến vài trăm mét, hình thái riêng của
thân quặng và sự vắng mặt rõ ràng lien quan với đá granit tồn tại ở độ sâu dưới 800-1200
m, theo tài liệu địa vật lý. Một sự khác nhau của của kiểu khoáng vật của các mạch quặng
và biến đổi nhiệt dịch (sericit hố, silic hóa, greisens hóa, feldspat hóa, chlorit hóa, vv)
cũng điển hình. Giai đoạn tạo quặng được thể hiện bởi thạch anh sericit-K-feldspathic
metasomatites quặng kèm theo (gumbeites) và cộng sinh khoáng vật tương tự về thành
phần được phát triển trong các mạch. Scheelite chiếm ưu thế trong các loại quặng liên


quan với với sulfua khác nhau (molybdenit, bismuth-ine, chalcopyritc, galenit, sphalerit
và pyrit). Hàm lượng volfram trong các thân quặng thường khơng cao, nhưng kích thước
đáng kể và ổn định của khống hóa tại độ sâu nhất định của thân quặng dạng thể cán. Các
thành tạo quặng Kairakty Thượng, Batistau và Urzarsai ở Liên Xơ có thể được trích dẫn
là ví dụ. Từ các tài liệu được biết đến với các tác giả gửi Glenorchy của New Zealand
cũng có thể thuộc về thành tạo quặng loại này.
2.2.4. Thành tạo quặng thạch anh sericit-beresitic (loại 4)
Như đã được liệt kê ở trên là tương tự với kiểu thành tạo quặng greisen trong một
số đặc điểm, đó là lý do tại sao một số nhà địa chất (Stemprok, 1979) xếp chúng vào một
kiểu thành tạo chuyển tiếp dạng thạch anh greisen-sericit chứa thiếc - vonfram molypden. Sự khác biệt chính là ở nồng độ cao của sulphur và fluorine trong sản phẩm
cộng sinh khống vật, trong đó giải thích cho sự phân bố rộng rãi của fluorit và sulfua
khác trong các loại quặng, bao gồm các muối phức của đồng, bạc và chì. Một số sulfua,
đặc biệt là pyrit cũng hình thành trong các loại đá vây quanh thân quặng, trong đó thạch
anh-pyrit-sericitic và fluorit-pyrit-mica biến chất trao đổi chiếm ưu thế. Các khống vật
vonfram khác thuộc loạt đồng hình của volframit có thể xảy ra trong kiểu thành tạo quặng
này cũng như scheelite.
Một sự phụ thuộc nhất định giữa các thành phần của volframit và hàm lượng sắt
của sunfua cộng sinh mà trong đó volframit đã được chú ý. Đặc biệt là càng phổ biến các

sulfua sắt, càng có nhiều mangan (hubneritic) hơn là sắt (ferberitic) của Volframit được
phát triển (Denisenko, 1978). Ví dụ thành tạo quặng hubnerite-thạch anh- beresitic ở
Kholtason, Bukuka và thành tạo quặng Ilintas ở Liên Xô; Chicote Grande, Choilla và
Jukamarani ở Bolivia, Red Rose ở Canada.
2.2.5. Thành tạo quặng tourmaline-chloritic thạch anh (loại 5)
Trong thực thế chúng có tầm quan trọng hạn chế đối với vonfram, chúng thường
được tạo ra trong quá trình quá trình khai thác các mỏ vàng. Các thân quặng thường có
một tổ hợp cơng sinh đơn giản thạch anh, tourmaline, cacbonat và fenspat liên quan đến
scheelite, đôi khi ferberite và sulfua. Trong một số trường hợp khống hóa vonfram diễn
ra trước giai đoạn khống hóa sunfua vàng (thành tạo quặng ở Canada và Úc), trong
trường hợp khác thì nó muộn hơn so với khống hoá vàng (thành tạo quặng của vành đai
quặng Colorado). Biến đổi nhiệt dịch của đá vây quanh khá đa dạng và dường như khơng
đồng nhất về nguồn gốc. Chlorit hóa, tourmaline hóa và sericit hố đi kèm với carbonat


hóa một phần và silicat hóa, là những quy trình tiêu biểu nhất. Ví dụ như thành tạo quặng
như ở Canada (Hollinger, MacIntyre, Đảo Outpost), tại Úc và New Zealand
(Higginsville, mỏ Edna, Berewood).
2.2.6.

Thành tạo quặng chalcedony-argillizitic (loại 6)

Như đã nói ở trên, cũng ít phổ biến hơn so với thành tạo vonfram của các loại khác.
Thành tạo quặng thường tạo đới khống hóa và đới cà nát kèm theo argillite sericit và
silic hóa các đá vây quanh. Các khống vật mạch gồm chalcedony, fluorit, carbonatc và
khoáng vật sét. Khoáng vật quặng thường là ferbcrite (ít phổ biến hơn scheelite),
antimonite, HgS, vàng và một lượng nhỏ sulfua. Ví dụ về các loại thành tạo quặng ở
Barun-Shiveja, Novo-Ivanovo và Notzara ở Liên Xô; Usi Tintszusi, Lendyasi và Sian ở
Trung Quốc, các usler Giim ở Thổ Nhĩ Kỳ và khu vực Boulder ở các bang phía tây của
Hoa Kỳ. Một số cơng nhân, cần lưu ý, đã thu được dữ liệu trong những năm gần đây chỉ

ra việc phân biệt các kiểu thành tạo quặng của loại này có thể được coi là dạng giả tầng
mà chúng phân biệt như là scricite-quartzitic (loại 11) trong bảng 1.
2.2.7. Thành tạo quặng Feldspatholithic hoặc 'granit bị anbit hóa - apogranitic
(theo Beus et al., 1962) (kiểu 7)
Loại này xảy ra như dạng lớp của granit trao đổi biến chất chứa quặng phát triển
trên phần đỉnh của vòm granit. Chúng tương tự về nhiều cách đối với thành tạo quặng
greisen, nhưng trong kiểu này những chủ yếu là microlin hóa và albitit hóa (feldspat hóa).
Khống hóa vonfram đóng một vai trị thứ yếu so với Sn, Be, Li, Nb và Ta. Thành tạo
quặng Blue Tier Australia và Jos Plateau ở Nigeria là một ví dụ.
2.2.8.

Thành tạo quặng Skarn (loại 9)

Đây là một trong những kiểu khống hóa volfram phổ biến nhất. Các vùng cùng
skarns vôi như là một quy luật chứa vonfram. Các khoáng vật vonfram xuất hiện hầu hết
là scheelite, đôi khi molybden-scheelite, liên quan chặt chẽ với magnetite và sulfua khác.
Ví dụ: Tyrnauz, Lyangar, Chorukh-Dairon và Maikhura ở Liên Xô; Sangdong ở Triều
tiên; Pine Creek, Thành phố Mill và Hồ Brown ở Hoa Kỳ, sông phẳng ở Canada; Uludag,
Inlufer và Telekai trong Thổ Nhĩ Kỳ; King Island ở Úc; Salau tại Pháp.
2.2.9. Thành tạo quặng amphibol-skarnoid (loại 10)
Loại này thường được tìm thấy trong cấu trúc lớp vỏ trái đất, khối núi trung bình,
khối nền tiền Cambri. Các đá bao quanh là các đá biến chất, như một quy luật, trong


tướng amphibolit đại diện bởi gneisses khác nhau, đá gneis dạng granit, amphibolites và
đá phiến. Khống hóa scheelite phát triển rộng rãi trong đới biến đổi với đới quặng kéo
dài nhiều cây số. Sự tập trung cao của quá trình biến chất trao đổi khác nhau thể hiện
trong đới chứa quặng là hình thành skarn và amphibol hóa, kết quả là hình thành những
đá skarn giống như đá được gọi là skarnoids.
Các đới chứa scheelite cũng dễ phân biệt trong các đá bao quanh các vòm granite

dạng gneis. Thêm vào đó, scheelite thường cùng với sulfua khác nhau trong thân quặng:
Pyrit, chalcopyrit, molybdenit, pyrrhotite, bismuthine và đôi khi vàng, volframit, vv.
Sự phân bố bất thường của khống hóa đã được thiết lập: đới khống hóa nghèo
(0.00n-0.0n % WO) xen kẽ với các đới giống như mạch mà hàm lượng WO thay đổi từ
phần mười tới vài phần trăm.
Ví dụ về các khống hóa vonfram phân tầng của kiểu amphibol-skarnoid là khá
nhiều: nhứ các khu vực Bindal và Orsdalen ở Na Uy, Montagne Noir, Montredon và
Auriole ở Pháp, thành tạo quặng ở Colorado và Wyoming (Hoa Stales) và Rio Grande do
Norte, Paraiba, São Paulo và thành tạo quặng ở Brazil. Đây là loại khống được biết đến
ở Liên Xơ trong khu vực Karelo-Kola; Sayans, Trung Á và ở Sang-dong ở Hàn Quốc,
đảo King tại Úc và Bayan và KtiTeberda ở Liên Xô, trong số thành tạo quặng phân tầng
vẫn thường được coi là thành tạo quặng biễn chất biến chất tiếp xúc trao đổi skarn đặc
trưng (Klemm, 1977 và nnk).
2.2.10. Kiểu thành tạo quặng sericit-quartzitic (loại 11)
Kiểu này thường xảy ra trong phun trào lục nguyên carbonat chứa silic miền địa
máng tuổi Paleozoi sớm. Các đới chứa quặng bao gồm dolomite hóa, silic hóa, dolomite carbonat, quartzites, đá phiến chứa vơi và amphibolites. Khống hóa scheelite liên quan
với sulfua Cu, Sb, Mo, Fe và Bi xảy ra trong phạm vi của đai chứa quặng như sự phân tán
phù hợp với các đá vây quanh đặc trưng dạng vi uốn nếp của chúng. Scheelite đôi khi tái
thành tạo trong hệ mạch thạch anh và thạch anh-cacbonat. Các đá vây quanh biến chất
đến tướng greenschist và thường bị silic hóa và graphite hóa mạnh mẽ. Trong hầu hết các
trường hợp đã được biết, các thân quặng có giá trị thương mại có kích thước kéo dài vài
trăm mét, có chiều dày từ vài mét đến 3 - 50 m.
Thành tạo quặng volfram có giá trị thương mại của kiểu này thường có trữ lượng
lớn phổ biến nhất ở đông dãy Alps, chủ yếu ở Áo (Felbertal, Kleinartal, Tux, vv), và cũng


được tìm thấy ở Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha (Lagoasa, vv.)
Khống hóa dạng tầng của một loại tương tự được biết đến ở Bulawayan và Piriwiri
ở Zimbabuew, trong khu vực Okahandja ở Namibia, trên biên giới phía tây của Uganda
và Rwanda, và phần khác của châu Phi.

Ví dụ về các khống hóa vonfram của kiểu quaczit - sericit chiếm không nhiều ở
Liên Xô. Tầng đá chứa scheelile đã được tìm thấy ở Gorny Altai, Kuznetz Alatau và
Enisei sườn núi. Theo Korchagin và Saglo (1976), thành tạo quặng Hg, W BarunShiveya ở miền đông Transbaikalia thuộc loại này, trong đó các thân quặng được giới hạn
trong một khu vực mà các đá biến đổi liên tục gồm quartzites và thạch anh đá phiến
mica-graphit
2.2.11. Kiểu thành tạo quặng mangan oxit quartzit (loại 12)
Kiểu này được đại diện bởi hai loại khống hóa vonfram-mangan, đặc điểm phổ
biến của chúng là sự xuất hiện của vonfram, khơng phải là một dạng khống vật độc lập
mà là dạng sắt volfram trong khoáng vật mangan (pyrolusite, psilomelane, cryptomelane,
hollandite, wad) và đôi khi trong ôxit sắt và hydroxit sắt.
Trong trường hợp đầu tiên, khống khóa rõ ràng trong lớp giả tầng của thành tạo
quặng mangan chứa vonfram trong đới đá vôi silic và quartzites tạo thành một phần cấu
trúc của kiểu II (trong phun trào lục nguyên carbonat chứa silic miền địa máng tuổi
Paleozoi sớm.).
Thành tạo vonfram-mangan thuộc kiểu này có các đặc tính về thành phần, cấu trúc
và điều kiện địa chất của thành tạo quặng barit dạng phân tầng với các sulphur Cu, Pb,
Zn, mà chỉ thị cho việc phát hiện triển vọng của vonfram.
Kiểu thứ hai của khống hóa điển hình cho vỏ phong hóa hoặc mạch nhỏ của
khống hóa vonfram-mangan trong phun trào axit trẻ nằm phủ trên tầng lớp siliccacbonat của kiểu eugeosynclinal với hàm lượng mangan cao.
Hầu hết công nhân nghĩ rằng khống hóa trong trường hợp đầu tiên liên quan đến
núi lửa ngầm dưới biển. Theo quan điểm của các liên kết khơng gian chặt chẽ của các
khống vonfram-mangan xảy ra trong lớp volcanites trên mặt đất và trong sự hình thành
trầm tích ở dưới của họ, thường là trong một trường quặng đơn (ví dụ như thành tạo
quặng Golconda ở Hoa Kỳ), chúng tơi có thể kết luận rằng kiểu khống hóa thứ hai được
hình thành thơng qua việc huy động các và tái lắng đọng của vonfram và mangan phân bố


trong các tầng của tầm tích của vùng địa máng.
Ví dụ điển hình nhất về kiểu quartzit -mangan oxit của thành tạo quặng volfram ở
Golconda ở Nevada (Hoa Kỳ). Khoáng hóa vonfram-mangan của một kiểu tương tự đã

được tìm thấy trong thành tạo quặng Sodaville và dãy phía Đơng ở Nevada, Talamantes,
Lucifer và thành tạo quặng Abundancia ở Mexico, Romanèche ở Pháp, Tossor và
Akkayalu-Ozek ở Liên Xô, vv
2.2.12. Thành tạo quặng từ muối và nước bay hơi (loại 13)
Kiểu này xảy ra trong các hồ hoặc thành tạo quặng từ muối ở các hồ cổ trong các
vùng khí hậu khơ cằn. Quan trọng nhất là thành tạo quặng Searles Lake ở California, ở đó
có hai tầng lớp chứa quặng volfram của hồ đã bay hơi trong thành tạo quặng hồ với diện
tích khoảng 40 km2 với chiều dày đến 50m. Nồng độ vonfram là 0,005-0,008 phần trăm
WO3, tổng trữ lượng WO3 đã được ước tính khoảng 170.000 tấn (Hosking, 1973). Ý
nghĩa của việc chiết xuất vonfram đã được tinh luyện nhưng rất tốn kém, vì vậy hiện nay
sẽ có những khó khăn trong cách khai thác thành tạo quặng. Theo quan điểm của các nhà
địa chất Mỹ, nguồn gốc của tungsten trong các trầm tích muối là sản phẩm chiết xuất của
scheelite từ thành tạo quặng skarn của thung lũng sông Owen và vonfram chứa một
lượng nhỏ trong các suối nước nóng Kyow.
Ở Liên Xơ vonfram loại này có thể được dự kiến trong các trầm tích tích hồ của
Trung Á.
2.2.13. Thành tạo quặng vonfram của vỏ phong hóa và sa khống (kiểu 14, 15)
Kiểu này có thể xảy ra thơng qua sự xói mịn của thành tạo quặng vonfram của các
loại khác nhau, có thể được thấy trong Bảng 1.
Các kiểu phân loại như trình bày ở trên đã được xử lý bằng máy tính trên cơ sở tài
liệu từ 77 mỏ vonfram nội sinh ở Liên Xô (cũ). Thành tạo quặng được mơ tả bởi 26 đặc
tính, được chia thành 6 nhóm, tức là các đá vây quanh, thành tạo xâm nhập có chứa kim
loại và biến chất trao đổi, hình thái của thân quặng; mạch và cộng sinh khống vật. Phân
tích các biểu đồ cụm thu được để đưa ra một tính năng thú vị, tức là, cho phép tất cả sự
đa dạng của các thông số cấu trúc-thành phần của một thành tạo quặng sử dụng chúng rơi
vào hai nhóm skarns chính và các nhóm khác. Đó có lẽ là một sự phản ánh của hai xu
hướng lý hóa học chính trong q trình hình thành quặng, tức là một xu hướng canxi-sắtmagiê và một xu hướng axit silixic.


Sự phá hủy diễn ra sau đó của hai nhóm này trong cụm biểu đồ tổng thể khá phù

hợp với các loại thành tạo quặng được nêu trong Bảng 1. Trong đó chỉ ra tính khách quan
đầy đủ về cấu trúc sự phân loại thành phần quặng đã phát triển và khả năng sử dụng nó
để đối phó với vấn đề thực tế. Mặc dù nó khơng phải là khơng có những thiếu sót nhất
định, về cơ bản chúng đáp ứng các yêu cầu sau: đơn giản sử dụng, khách quan đầy đủ về
việc nhận dạng của các thành tạo quặng và khả năng phân biệt các loại thành tạo quặng
chuyển tiếp, bởi các đặc tính của các thành phần và cấu trúc.
Khi thành tạo xâm nhập chứa kim loại được nghiên cứu liên quan với các thành tạo
quặng vonfram, có thể có được tiêu chí bổ sung để xác định các loại thành tạo nội sinh
được phân biệt trong Bảng 1. Ba loạt chính của thành tạo xâm nhập, đặc biệt là liên quan
với khống hóa tungsten, thiếc và molypden đã được thành lập, đại diện cho sự xảy ra
liên tục phân dị của granitoid từ một thành phần nhất định, tức là diorit- granodioritegranit, granit, granit sáng màu-alaskitic và đá granit granit kiềm (Bảng 2).

Bảng 2: Sự phân loại các mỏ quặng volfram theo sự liên quan với magma
Series of intrusive formations

Diorite- granodioritegranitic

Ore-bearing intrusive formations

Diorite granodioritic

Evolutionary series
of magmatism

(V Qố Yó-yó

Zonal series of mineralization

W.Mo
(<■> 7»


Diorite plagiogranitic

V p-yỏ Ply-'/'

Granite leucogranite
alaskite

Granite leucogranitic

(;■ ;■ »;■)

Leucogranite alaskite

JBi.Cu Pb,Zn Ag.Au

Mo.Au
W,Au

Granodiorite granitic

X

(7 V;)

Alaskite alkaline granitic

Quartz tourmaline
chlorine (5)


Mo
jBe.Bi -Cu.Pb.Zn
w

Quartz-sericite Kfeldspar (3)

7 1;
í--------- __

Sn.w

Quartz sericitic (4)

7 I-,’ «7

Sn.Fe.As

Mo.w

yu.Bi.Ag- Pb.Zn Sb.Hg

7 *7

Li.Bcx
Nb.Ta7

Sienite alkaline granitic

'Xu.Fe.As Pb.Zn Au.Sb


Zổ y

Mo.Bi
Granite alkaline granitic

Main types of deposit

Skarn (9)

W.Sn

r-E-Ey

'w, Be—*Pb.Zn

Sn.W—»Bi.As.Zn .Pb

Zr.Tr Nb.Ta Li.Be Sn.w

Greisen and quartz
greisen (8.2)
Feldspatholithic
Capogranitic ) (7)
Pegmatite albititic(l)

- Số trong ngoặc đơn tương ứng với các loại tiền gửi trong Bảng 1
Đá xâm nhập được đại diện bởi các biểu tượng sau đây: v = gabbro, p =


monzonites, Y= sienites, ỗ =diorites, Qỗ = quartz-diorites. Qỗ = sienile-diorites. yỗ =

granodiorites. Ply = plagiogranites. Ỵy = alkaline granites, ly = leucocratic granites,
£y= alaskite granites.Mũi tên liền nét cho thấy hướng phát triển tiến hóa của hoạt động
magma. Mũi tên đứt đoạn xu hướng ngược lại thể hiện trong sự tiến hóa của nhóm đá
dyke.
Một loạt các thành tạo xâm được phân biệt phản ánh sự phát triển chung của vỏ trái
đất và tương ứng với tính liên tục về thành phần hóa học của granitoid diễn ra trong một
chu kỳ kiến tạo-magma đơn. Hàng loạt các granitoid phù hợp tốt với các xu hướng quan
sát thấy trong sự liên kết địa hóa trong quặng trong mỏ vonfram từ chalcophile (Fe, Mn,
Au, Mo, Cu) thông qua lithochalcophile (Pb, Zn, Sn, Bi) đến lithophile điển hình (Nb, Ta,
Li). Vai trị thạch hóa của kali so với natri tăng đều đặn từ loạt đầu đến loạt thứ ba.
Như có thể thấy từ Bảng 2, granitoid của mỗi một kiểu trong ba loạt khác nhau cả
trong các loại hình xâm nhập và loạt tiến hóa của chúng và các đặc tính của khống hóa
Sn, W và Mo liên quan với chúng và chuỗi phân với của chúng. đặc tính này là rất quan
trọng để xác định các loại formational thành tạo quặng và cho dự báo.
Như phân tích thống kê các kiểu phân bố của các ntố quặng đi kèm trong 200 thành
tạo quặng vonfram thế giới đã cho thấy, hàng loạt các thành tạo xâm nhập đã được phân
biệt cũng tương quan tính chun hóa sinh khống với các kiểu địa hóa của granit
(Tauson, 1974) và với các loại thành tạo quặng vonfram khác nhau.
Mơ hình này sẽ được làm trình bày dưới đây:
Các nguyên tố đi kèm của thành tạo quặng vonfram có thể được chia thành bốn
nhóm theo tần số xuất hiện của chúng: (1) Mo, Sn, Bi, Cu, được gặp thường xuyên nhất
(30-55%), (2) Be, Pb, Zn, xảy ra thường xuyên (15-35%), (3) Au, Ag, hiếm khi gặp (515%) và (4) Sb, Hg, Nb, Ta, rất ít khi gặp (khoảng 5%). Các nguyên tố tạo thành một loạt
liên tục như cấu trúc của các liên kết tương quan: Nb-Sn-Bc Mo Bi Cu Zn Pb-Ag Au-Sb
Hg. Các thành viên lân cận của loạt này có hệ số tương quan tích cực mạnh mẽ, tức là
xuất hiện cùng nhau, trong khi các thành viên cực đoan có liên kết tương quan tiêu cực
mạnh mẽ, là chất đối kháng và không được tìm thấy cùng nhau trong quặng.
Nhóm địa hóa của các nguyên tố phù hợp với xu hướng quan sát trong sự thay đổi
của điều kiện nhiệt độ lắng đọng quặng, tức là từ các nguyên tố xảy ra trong các mỏ
quặng của thành tạo quặng ở nhiệt độ cao (Sn, Nb, Be, Mo, Bi) đến thành tạo quặng trung



bình nhiệt độ (Cu, Pb, Zn, Ag) và đến các thành tạo quặng ở nhiệt độ thấp (Au, Sb, Hg).
Tại cùng một thời điểm có một mối quan hệ khơng gian giữa thành tạo quặng và
các khối granitoit mà được hiển thị trong nội địa hố của các khống hóa liên quan đến
các khối núi, ban đầu trong đới tiếp xúc, sau đó trong đới siêu xâm nhập, và cuối cùng
trong một khu vực xa hơn so với khối granitoid, trong các trường đai mạch có thành phần
khác nhau.
Phân tích các liên kết tương quan giữa kiểu thành tạo quặng và các nguyên tố quặng
đi kèm của nhóm đã liên quan làm nó có thể để chú ý tổ hợp địa hóa bên vững đặc trưng
của thành tạo quặng vonfram thuộc các kiểu khác nhau. Như vậy thành tạo quặng greisen
thạch anh và thạch anh sericit có xu hướng phổ biến để trưng để triển lãm một kết nối
không gian chặt chẽ và liên kết về nguồn gốc với loạt đá granit sáng màu và granit
alaskitic, mà thành tạo cùng với loạt đá granit-granit sáng màu-alaskite của hình xâm
nhập. Granit tạo quặng cùng với thành tạo quặng greisen thạch anh được kết hợp, liên
quan bởi sự chuyên hóa địa hóa đối với kiểu địa hóa của granit sang màu hạt thô. Thành
tạo quặng thạch anh sericitic phù hợp với các kiểu granit kim loại hiếm của loạt granit
kiềm. Các đá granit này, với tính chun ngành địa hóa kim loại hiếm nói chung, được
phân biệt bởi hàm lượng Nb, Sn và Be trong granit sang màu hạt thô và và Mo, Cu, Zn và
Pb trong đá granit kim loại hiếm của loạt granit kiềm. Tương tự là một sự phân biệt đặc
tính của liên kết địa hóa của các ngun tố quặng đi kèm trong thành tạo quặng thạch anh
greisen và thạch anh beresitic. Mơ hình quan sát được thể hiện trong Bảng 3, trong đó
khoảng phân phối đưa ra của các loại thành tạo quặng, và hàng loạt các thành tạo xâm
nhập và các kiểu địa hóa của granitoid, tương ứng với các liên kết của các nguyên tố của
nhóm địa hóa nói chung được cho thấy trong cột hai bên trái và rìa bên phải của bảng.
Bảng 3: Địa hóa của volfram và mối liên quan của chúng với magma


Tương tự như vậy granitoid của nhóm diorit-granodiorite-granit liên quan với với
skarn và thành tạo quặng volfram - thạch anh sericit-K-feldspat, có thể là liên quan với
granitoid tái sinh của nhóm địa hóa kiềm và kiềm vơi, từ các mối quan hệ đã quan sát

giữa tính chun hóa địa hóa và tổ hợp của các nguyên tố tạo quặng của hai kiểu thành
tạo quặng đã lưu ý ở trên. Granitoid của nhóm andesit và latite có thể được xem xét (với
vị trí nhất định) là mang quặng như là khống hóa vonfram liên quan của kiểu thạch anh
turmalin-chloritic và chalcedony-argillit. Những granitoid này là các thành viên cuối
cùng của dòng tiến hóa của các đá thuộc nhóm basaltoid được bao gồm trong Bảng 3,
trong loạt đá granit kiềm granit của thành tạo xâm nhập.
Trên toàn bộ các ghi nhận kết nối của các thành tạo quặng vonfram với các kiểu địa
hóa nhất định của granitoit cho phép chúng tơi xác định và dự báo nhiều loại thành tạo
quặng, không chỉ bởi các tính năng của các thành phần và cấu trúc của chúng mà cịn từ
việc phân tích của dịng tiến hóa và các loại thạch địa hóa granitoid.
Theo các tác giả này thì mặc dù việc phân loại được đề xuất là xa
lý tưởng, tuy nhiên nó đã phản ánh khá đầy đủ sự đa dạng của các
kiểu thành tạo quặng của volfram đã được biết đến và hệ thống hóa
chúng bằng cách quan sát thực sự cấu trúc và đặc các thành phần
và sự liên kết chúng với với sự thành tạo địa chất./.



×