Nov. 2008
2008
Phòng Phân tích &
D
ự báo thị trường
(SRTC-UBCKNN)
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008
[
Tổng hợp về cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ, đang lan rộng trên phạm vi toàn thế
giới và điểm dừng chưa thể dự đoán]
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
2
NỘI DUNG
1. Danh m
ục tiến trình cứu trợ sau khi nổ ra khủng hoảng………………………….2
2. Diễn biến thị trường chứng khoán thế giới cuối năm 2008 và đầu năm 2009……4
3. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi bùng phát khủng hoảng đến
đầ
u năm 2009……………………………………………………………………… 11
4. Nhận định nguyên nhân khủng hoảng ……………………………………………20
5. Các quan điểm dự báo…………………………………………………………… 23
Kể từ khi cuộc khủng hoảng bùng phát, khởi đầu từ Mỹ vào tháng 9/2008, cho
đến nay đã có rất nhiều bản tường thuật về diễn biến của cuộc khủng hoảng này
trên m
ọi mặt của đời sống kinh tế thế giới; bao gồm những diễn biến trên thị
trường tiền tệ
- tín dụng và thị trường chứng khoán của nhiều nước. Bản báo cáo
này điểm lại những vấn đề quan trọng nhất xoay quanh cuộc khủng hoảng được
cho là chưa từng có trong lịch sử về quy mô và tốc độ ảnh hưởng.
Trướ
c hết, dưới đây là tóm lược những biện pháp cứu trợ được hàng loạt nền
kinh t
ế hàng đầu trên thế giới đã và đang thực hiện nhằm đối phó với khủng
ho
ảng và nỗ lực chặn đứng nó.
TIẾN TRÌNH CỨU TRỢ
Mỹ
- 19/9/2008: Quan chức Chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch 700 tỷ USD
giúp các ngân hàng thoát kh
ỏi tình trạng nợ xấu.
- 6/10/2008: FED công bố kế hoạch mua một lượng lớn các khoản nợ ngắn hạn
t
ừ các công ty nhằm khai thông thị trường tiền tệ đang đóng băng.
- 14/10/2008: Chính phủ Mỹ dùng 250 tỷ USD trong gói 700 tỷ để mua lại cổ
phiếu của một số ngân hàng quan trọng.
- 9/11/2008: Tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG có thêm hỗ trợ tài chính của
Chính ph
ủ Mỹ, nâng tổng khoản tiền nhận cứu trợ lên 150 tỷ USD (khoản cứu
tr
ợ ban đầu là 85 tỷ USD).
- 12/11/2008: Từ bỏ kế hoạch dùng một phần trong 700 tỷ USD mua lại khoản
n
ợ xấu của các ngân hàng. Thay vào đó, chính phủ sẽ tập trung mua cổ phiếu
c
ủa các tổ chức cho vay đang gặp khó khăn.
- 15/11/2008: Hội nghị thượng đỉnh của nhóm các nền kinh tế giàu nhất thế giới
được tổ chức tại Washington (Mỹ), do Tổng thống Bush chủ trì
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
3
-
23/11
/2008
: Các cơ quan quản lý tài chính chủ chốt của Mỹ, gồm Bộ Tài
chính, C
ục Dự trữ liên bang (FED) và Hãng bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC)
thông báo các bi
ện pháp lập lại ổn định tại Citigroup Inc. Bộ Tài chính sẽ bỏ ra
20 t
ỷ từ gói 700 tỷ USD để hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng có mạng lưới
d
ịch vụ rộng nhất thế giới này. Trước đó, Citi đã nhận 25 tỷ USD và là một
trong nh
ững ngân hàng đầu tiên nhận được hỗ trợ của Chính phủ Mỹ.
- 25/11/2008: Gói giải pháp mới với tổng số tiền lên tới 800 tỷ USD được công
b
ố.
- Ngày 13/1/2009: Tổng thống đắc cử Mỹ B.Obama yêu cầu QH nước này giải
ngân ti
ếp 350 tỷ USD trong Chương trình cứu trợ các tài sản đang gặp khó khăn
(TARP) tr
ị giá 700 tỷ USD giúp nước Mỹ đối phó cuộc khủng hoảng tài chính.
- Ngày 15/1/2009: Thượng viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận cho Chính phủ giải
ngân ti
ếp 350 tỷ USD kích thích kinh tế với tỷ lệ phiếu thuận/phiếu chống là
52/42. M
ột nửa còn lại của gói kích thích kinh tế 700 tỷ USD đã được chấp
thu
ận để mua lại các tài sản đang gặp khó khăn tại Mỹ.
- Đầu tháng 2/2009: Bộ trưởng bộ Tài chính Mỹ Timothy Geithner vừa mới
tiết lộ một kế hoạch cứu trợ ngân hàng toàn diện trị giá ít nhất 1,5 nghìn tỷ USD
với các mục tiêu sẽ hâm nóng lại thị trường tín dụng, củng cố các ngân hàng và
h
ỗ trợ tích cực cho những người sở hữu nhà và các doanh nghiệp nhỏ; và đồng
thời với việc triển khai này là áp dụng các tiêu chuẩn mới và cao hơn về tính
minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình.
Các nước khác (tháng 11/2008)
- Nhật Bản: Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso đã thông báo khoản cứu trợ cả gói
tr
ị giá 27 nghìn tỷ yên (275 triệu đôla) trong đó có việc tăng cường hỗ trợ tín
d
ụng cho các doanh nghiệp nhỏ
- Liên minh châu Âu: Đưa ra dự thảo cho chương trình cả gói kích thích kinh tế
trong vòng 2 năm. Gói này sẽ chiếm ít nhất 1% tổng thu nhập của khối, tương
đương khoả
ng 130 tỷ euro (170 tỷ USD).
- Trung Quốc: Công bố gói giải pháp kinh tế trị giá 586 tỷ USD nhằm ngăn
chặn tác động của khủng hoảng tài chính. Khoản tiền 586 tỷ USD được dành
cho 10 l
ĩnh vực, trong đó có cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội từ nay đến năm 2010,
tiêu dùng của người dân, đặc biệt là nhà ở giá rẻ, y tế, giáo dục, bảo vệ môi
trường và tái thiết các vùng bị thiên tai, như khu vực bị động đất tại tỉnh Tứ
Xuyên. Một phần của gói kích thích cũng được dành cho khu vực tư nhân,
- Hàn quốc: Chính phủ Hàn Quốc công bố khoản cứu trợ trị giá 100 tỷ đôla
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
4
trong thời hạn 3 năm để hỗ trợ cho tất cả các khoản nợ nước ngoài do các tổ
chức tài chính trong nước đang phải gánh chịu; đồng thời là khoản hỗ trợ 30 tỷ
đôla bơm vào các ngân hàng nhằm tăng tính thanh khoả
n.
Ngoài ra, trong khu v
ực Đông Á, Trung quốc, Hàn quốc, Nhật Bản xem xét
đóng góp dự trữ ngoại hối trong một quỹ chung trị giá 80 tỷ đôla nhằm đối phó
v
ới khủng hoảng
- Tại Mỹ Latinh: Ác-hen-ti-na trở thành nước đầu tiên có các động thái ngăn
chặn đà suy giảm kinh tế. Tổng thống nước này Cristina Kirchner đã đề xuất
gi
ảm thuế và tăng đầu tư, nhằm giúp hạn chế tác động của khủng hoảng tài
chính toàn c
ầu tới nền kinh tế. Tổng thống cũng công bố quyết định bơm hơn 21
tỷ USD cho đầu tư hạ tầng của nước này.
Ngoài ra, các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng chuẩn bị phương án cứu trợ cho chính
ph
ủ một số nước nếu có nhu cầu. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thông báo chuẩn bị
một khoản trị giá 200 tỷ đôla nhằm sẵn sàng cứu trợ các nền kinh tế gặp khủng
ho
ảng. Ukraine, Hungary và Iceland là những nước đầu tiên nhận cứu trợ của
IMF. Ngân hàng th
ế giới thông qua Ngân hàng tái thiết phát triển quốc tế thuộc
nhóm Ngân hàng th
ế giới năm trước đã cho vay 13,5 tỷ USD cho các nước có
thu nh
ập trung bình; năm nay trong bối cảnh khủng hoảng, Ngân hàng này
thông báo có kh
ả năng tăng gấp đôi số vốn cho vay trên. Tập đoàn Tài chính
Quốc tế (IFC) trực thuộc WB cũng đang xem xét thành lập một quỹ đặc biệt để
đầu tư và tái cấ
p vốn cho ngân hàng vừa và nhỏ tại các nước nghèo nếu chính
ph
ủ các nước không đủ khả năng hỗ trợ. Dự kiến IFC đóng góp khoảng 1 tỷ
USD và gây vốn thêm khoảng 2 tỷ USD từ các định chế tài chính quốc tế, ngân
hàng thương mại, cơ quan tài chính của các chính phủ và nhà đầu tư khác.
DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI CUỐI NĂM 2008
Ngày giao dịch tuần từ 29/9-3/10/2008 ngay sau khi bùng phát khủng hoảng
Mối quan tâm chính trong tuần từ 29/09/2008 đến 03/10/2008 là thông tin về kế
hoạch gói giải cứu thị trường 700 tỷ của Chính phủ Mỹ và phản ứng của thị
trường sau quyết định của Quốc hội
Mỹ.
K
ết thúc phiên giao dịch đầu tuần, cả thế giới chứng kiến sự mất điểm thảm hại
của tất cả các TTCK lớn trên thế giới sau khi có kết quả Hạ viện Mỹ không
thông qua kế hoạch giải cứu thị trường của Chính phủ Mỹ.
Thị trường chứng khoán Mỹ: Dow Jones và S&P 500 có ngày giảm điểm mạnh
nhất trong lịch sử, còn Nasdaq có ngày giảm điểm mạnh nhất kể từ năm 2000.
Trong phiên giao d
ịch đầu tuần này, Dow Jones đã giảm tới 777,68 điểm (gần
7%). Các cổ phiếu khối tài chính dẫn đầu về biên độ giảm điểm, điển hình là cổ
phiếu của Wachovia (81,6%), National City (63,34%), Morgan Stanley
(15,19%), Goldman Sachs (12,53%) và City Group (11,19%). Tuy nhiên, giảm
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
5
điểm trên diện rộng chính là cổ phiếu của khối công nghệ như: Nasdaq (9%),
Apple (17,92%), Google (11,61%), Yahoo (10,78%), Microsoft (8,72%) và Dell
(9,35%).
Biểu đồ 1: Chỉ số Dow Jones trong phiên giao dịch ngày thứ Hai 29/09/2008
Thị trường chứng khoán Châu Âu: Sụt giảm mạnh và xuống thấp nhất trong
vòng 3 năm qua. Kết thúc ngày giao dịch đầu tuần, FTSE-100 giảm 269,7 điểm
(5,3%), đóng cửa ở mức 4.818,77 điểm; DAX giảm 4,23% v
à CAC-400 rơi
5,05%.
Thị trường chứng khoán Châu Á: Cũng đồng loạt mất điểm khi kết thúc ngày
giao d
ịch 29/09, trong đó thị trường Nhật Bản tiếp tục mất điểm phiên thứ ba
liên tiếp. Dẫn đầu về biên độ giảm điểm là các cổ phiếu khối ngân hàng và cổ
phiếu của các nhà xuất khẩu lớn như Sumitomo Mitsui Financial Group mất
1,6%, cổ phiếu Mizuho Financial Group giảm 1,5%, Toyota giảm 3,2%, Honda
Motor mất 3,9% Kết thúc ngày giao dịch, Nikkei-225 giảm 149,55 điểm
(tương đương 1,26%), đóng cửa ng
ày giao dịch ở mức 11.743,61, thị trường cứ
có 2 cổ phiếu giảm điểm thì có một cổ phiếu lên điểm. Cổ phiếu khối tài chính
trên th
ị trường Hồng Kông giảm mạnh. Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Hang
Seng mất 801,41 điểm (tương đương 4,29%), đóng cửa ở mức 17.880,68 điểm.
Các chỉ số khác như Kospi của Hàn Quốc cũng giảm 1,35% và Straits Times
c
ủa Singapore giảm 2,35%.
Tuần giảm điểm liên tục từ 29/09/2008 đến 03/10/2008
Sau phiên giảm điểm ngày 29/09/2008, TTCK đã chứng kiến một tuần mất
điểm nghi
êm trọng trên toàn cầu. Tất cả các chỉ số chứng khoán chủ chốt trên
th
ế giới đều liên tục mất điểm.
Ngày 02/10:
Dow Jones giảm 3,22% xuống mức 10.482,85 điểm. S&P 500 mất 4,08%, đóng
cửa tại 1.114,28 điểm. Nasdaq đóng cửa tại 1.976,72 điểm, giảm 4,48%. Trong
phiên này, phần lớn các cổ phiếu tại SGDCK New York cùng mất giá mạnh, cứ
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
6
5 mã giảm mới có 1 mã tăng giá. Đáng chú ý trong phiên này là sự sụt giảm
mạnh của cổ phiếu các tập đoàn lớn như: Cổ phiếu General Electric (GE) giảm
tới 9,67%, cổ phiếu American Express (AXP) mất 9,05%, Alcoa (AA) trượt
8,89%, Apple (AAPL) mất 8,27%, Intel (INTC) giảm 7,13%
Tại Châu Á và Châu Âu, các thị trường chủ chốt cũng đồng loạt giảm điểm. Tuy
nhiên, chỉ số Hang Seng và và chỉ số Straits Times tăng nhẹ tương ứng 1,08%
và 0,2%.
Ngày 03/10:
B
ảng 1: Chỉ số chứng khoán thế giới ngày 3/10/2008
TTCK Mỹ Giá trị Thay đổi % thay đổi
Dow Jones Index
10,325.38 -157.47 -1.50%
S&P 500 Index
1,099.23 -15.05 -1.35%
Nasdaq Composite
Index
1,947.39 -29.33 -1.48%
TTCK Châu Âu Giá trị Thay đổi % thay đổi
DJ Euro Stoxx 50
3,113.82 106.31 3.53%
FTSE 100 Index
4,980.25 109.91 2.26%
DAX 30 Index
5,797.03 136.40 2.41%
CAC 40 Index
4,080.75
117.47
2.96%
TTCK Châu Á Giá trị Thay đổi % thay đổi
Nikkei 225 Index
10,938.14 -216.62 -1.94%
Hang Seng Index
17,682.40
-
528.71
-
2.90%
CSI 300 Index
1
,143.66
-
1,100.00
-
49.03%
KOSPI Index
1,419.65
0.00
0.00%
Straits Times Index
2,297.12
-
66.48
-
2.81%
Sau khi Hạ viện Mỹ thông qua kế hoạch giải cứu thị trường, các chỉ số chính đã
tăng mạnh vào đầu ngày giao dịch nhưng sau đó vào cuối ngày các chỉ số đều
quay đầu và tiếp tục đi xuống. Nguyên nhân là các nhà phân tích cho rằng nguy
cơ về một cuộc suy thoái kinh tế trong d
ài hạn vẫn còn hiển hiện. Sự lo ngại này
b
ắt nguồn từ những báo cáo không tốt của các ngành công nghiệp chủ chốt như
ô tô, báo cáo tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng
Ngày 07/10:
Phiên giảm mạnh đã đưa cả ba chỉ số chính của Phố Wall về mức thấp nhất kể
từ cuối năm 2003. Thị trường tín dụng tiếp tục căng thẳng khiến giới kinh
doanh trở nên bi quan hơn về triển vọng kinh tế Mỹ và lo sợ kinh tế thế giới có
khả năng đang bước vào một chu kỳ suy thoái mới sau ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính.
Th
ị trường Mỹ tiếp tục có sự sụt giảm mạnh. Tuy nhiên, thị trường châu Á và
châu Âu tình hình kh
ả quan hơn khi mức giảm không sâu, thậm chí có một số
thị trường đã có sự tăng trưởng nhờ những nỗ lực của nhiều nước trong khu vực
nhằm chống lại khủng hoảng tài chính.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
7
Ngày 09/10:
Các chỉ số chính trên phố Wall đều sụt giảm với biên độ trên 5% và đóng cửa ở
mức thấp nhất trong vòng hơn 5 năm trở lại đây. Không chỉ cổ phiếu ngành tài
chính, hàng hi
ệu trong lĩnh vực ô tô, công nghệ cũng bị cuốn vào cơn bão giảm
giá, trong đó General Motors giảm 31% v
à Ford Motor mất 21% giá trị.
Vào đúng dịp kỷ niệm một năm phố Wall lập kỷ lục, Dow Jones Index đứt
phanh, rơi
xuống ngưỡng 9.000 điểm, thấp nhất trong vòng 5 năm qua. Tính
chung trong bảy phiên qua, Dow Jones đã mất 2.271 điểmm tương đương
20,1%.
Ngày 10/10:
Trên phố Wall, các chỉ số chính đã hãm đà giảm tốc so với ngày giao dịch trước
đó, thậm chí Nasdaq c
òn có sự tăng nhẹ với mức 0,27%. Ngược lại, các chỉ số
chính trên thị trường châu Á và châu Âu lại tiếp tục giảm sâu với tỷ lệ trên dưới
7%.
Như vậy, sau một tuần, hầu như tất cả các thị trường chính đều có sự mất điểm
đáng kể. Dow Jones giảm 1.874 điểm, mức giảm
tồi tệ nhất từ trước đến nay
tính cả bằng phần trăm lẫn điểm giá trị. Tâm lý hoảng loạn đã khiến các nhà đầu
tư liên tục rút tiền ra khỏi thị trường chứng khoán. Chỉ trong v
òng một tuần đã
có t
ới 43,3 tỷ đôla được rút ra khỏi các quỹ tương hỗ.
Bảng 2: Chỉ số chứng khoán thế giới từ 6/10-10/10/2008
% thay đổi
10/10 so với cuối
tuần trước
TTCK Mỹ 06/10 07/10 08/10 09/10 10/10 Thay đổi
%
thay đổi
Dow Jones Index
-3.58% -5.11% -2.00% -7.33% -1.49% -1874.19 -18.15%
S&P 500 Index
-3.85% -5.74% -1.13% -7.62% -1.18% -200.01 -18.20%
Nasdaq Composite
Index
-4.34% -5.80% -0.83% -5.47% 0.27% -297.88 -15.30%
TTCK Châu Âu % thay đổi Thay đổi
%
thay đổi
DJ Euro Stoxx 50
-7.86% 0.37% -6.42% -2.43% -7.88% -691.95 -22.22%
FTSE 100 Index
-7.85% 0.35% -5.18% -1.21% -8.85% -1048.19 -21.05%
DAX 30 Index
-7.07% -1.12% -5.88% -2.53% -7.01% -1252.72 -21.61%
CAC 40 Index
-9.04% 0.55% -6.31% -1.55% -7.73% -904.26 -22.16%
TTCK Châu Á % thay đổi Thay đổi
%
thay đổi
Nikkei 225 Index
-4.25% -3.03% -9.38% -0.50% -9.62% -2661.71 -24.33%
Hang Seng Index
-4.97% 0.00% -8.17% 3.31% -7.19% -2885.53 -16.32%
CSI 300 Index
86.13% -1.23% -3.78% -1.36% -4.43% 763.3 66.74%
KOSPI Index
-4.29% 0.54% -5.81% 0.64% -4.13% -178.18 -12.55%
Straits Times Index
-
5.61%
0.43%
-
6.
61%
3.40%
-
7.34%
-
348.79
-
15.18%
Tại châu Á, những lo ngại về việc cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ dẫn
đến suy thoái c
ùng những dự báo không mấy khả quan về sản lượng của các
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
8
mặt hàng xuất khẩu như ô tô vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm trên
th
ị trường Nhật Bản. Kết thúc tuần, chỉ số Nikkei 225 đánh dấu 7 phiên giảm
liên tiếp và dừng lại ở mức 8.276,43 điểm, giảm tới 24% so với đầu tuần.
Tại châu Âu, sau năm ngày giao dịch, FTSE-100 giảm 21%, CAC-40 mất
22,15% và DAX-30 giảm 21,6%.
Sau khi giảm mạnh điểm trong 2 tuần liên tiếp, vào đầu tuần tiếp theo, hầu hết
các chỉ số chính trên thế giới đều tăng điểm mạnh. Một trong những nguyên
nhân được đưa ra để giải thích cho đợt tăng điểm này là giá chứng khoán đã
xu
ống khá thấp trong hơn 10 ngày qua, đồng thời tất cả các quốc gia hàng đầu
trên thế giới đều có những động thái nhằm cứu vãn thị trường tài chính.
Bảng 3: Giá trị sụt giảm của các chỉ số chứng khoán chủ chốt trên thế giới thời
điểm cuối năm 2008.
TTCK Mỹ
Giá trị (30/12/08)
Thay đổi so với 2007
Thay đổi % thay đổi
Dow Jones Index 8.668,39 4.375,57 34,6
Nasdaq Composite Index 890,64 1.058,93
41,5
S&P 500 Index 1.55
0,70
556,52
39,3
TTCK Châu Âu
Giá trị (30/12/08)
Thay đổi so với 2007
Thay đổi % thay đổi
FTSE 100 Index
4.392,68
2.024,02
31,5
DAX 30 Index
4.810,20
3.138,91
39,5
CAC 40 Index 3.217,13 2.333,23 42,0
TTCK Châu Á
Giá trị (30/12/08)
Thay đổi so với 2007
Thay đổi % thay đổi
Taiwan Weighted
4.589,04
3.734,01
44,8
Nikkei 225 Index
8.859,56
5.831,85
42,1
Hang Seng Index
14.235,50
13.325,02
48,8
KOSPI Index Composite 1.124,47 728,98 40,7
Straits Times Index 1.770,65 1.690,57 49,0
Shanghai Composite 1.832,91 3.428,65 65,2
BSE 30 9.716,16 10.749,14 52,2
ASX 3.591,40 2.842,70 44,1
VN-Index 316,32 604,75 65,9
DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI ĐẦU NĂM 2009
02/01/2009- Ngày giao dịch đầu tiên của năm 2009
Ngày giao dịch đầu tiên của năm 2009 hầu hết tất cả các thị trường trên thế giới
đều có sự tăng điểm, thậm chí là tăng rất mạnh. Với những dự báo khả qua
n về
tình hình thị trường tài chính thế giới trong năm 2009, nhiều nhà đầu tư đã thực
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
9
hiện việc mua gom cổ phiếu, đặc biệt là cổ phiếu khối công nghệ cho dù số liệu
cho thấy tình hình sản xuất suy giảm mạnh.
Ngày 07/01/2009
Sau phiên tăng điểm ngày 06/01/2009 do sự lạc quan của nhà đầu tư vào kế
hoạch gói kích thích kinh tế trị giá trên 800 tỷ USD của Tổng thống mới đắc cử
Barrack Obama, thị trường Mỹ lại tụt dốc sau những công bố của Chính phủ về
tình hình thất nghiệp và dự báo mức tăng trưởng âm 2,2% trong năm 2009.
Các thị trường chính của Mỹ có phiên giảm điểm mạnh nhất kể từ đầu tháng.
Kết thúc ngày giao dịch: chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 245,40 điểm,
tương đương
-2,72%, đóng cửa ở mức 8.769,7. Chỉ số Nasdaq phiên này hạ
53,32 điểm, tương đương
-3,23%, chốt ở mức 1.599,06. Cuối cùng, chỉ số S&P
500 trượt 28,05 điểm, tương đương
-3%, đóng cửa ở mức 906,65.
Tại Châu Âu, sau 06 ngày liên tiếp khởi sắc, thị trường lại giảm điểm do những
lo ngại từ nền kinh tế Mỹ. Các cổ phiếu ngành năng lượng và dầu mỏ dẫn đầu
về biên độ giảm điểm. Chỉ số FTSE 100 của Anh giảm 131,41 điểm, tương
đương
-2,83%, đóng cửa ở mức 4.507,51, khối lượng giao dịch đạt 1,87 tỷ cổ
phiếu. Chỉ số DAX của Đức hạ 1,77%, khối lượng giao dịch đạt 29 triệu cổ
phiếu. Chỉ số CAC 40 của Pháp mất 1,48%, khối lượng giao dịch đạt 177,7 triệu
cổ phiếu.
Chứng khoán Châu Á biến động không đồng đều với việc tăng điểm ở các thị
trường Nhật Bản, H
àn Quốc, Đài Loan và Úc. Thị trường Trung Quốc, Ấn Độ,
Hồng Kông và Singapore mất điểm, trong đó Ấn Độ và Hồng Kông giảm mạnh
do ảnh hưởng của thông tin các tổ chức nước ngoài có kế hoạch bán bớt cổ phần
mà họ nắm giữ tại một số ngân hàng lớn ở các nước này làm cho cổ phiếu khối
ngân hàng giảm mạnh, qua đó kéo toàn thị trường đi xuống.
Ngày 14/01/2008
Tại thị trường Mỹ, những lo ngại về triển vọng ngành ngân hàng Mỹ, châu Âu
cũng như số liệu không khả quan về doanh số bán lẻ ở Mỹ, đã đẩy chứng khoán
Phố Wall giảm mạnh. Lệnh bán cổ phiếu khối ngân hàng, công nghệ được tung
ra đ
ã đẩy cả ba chỉ số chứng khoán Mỹ luôn luôn ở dưới ngưỡng giá trị so với
phiên trước đó. Chỉ số S&P T
ài chính mất 5,7%, trong đó cổ phiếu Citigroup đã
gi
ảm 23,22% xuống 4,53 USD/cổ phiếu, cổ phiếu Morgan Stanley mất 8,85%,
cổ phiếu JPMorgan hạ 1,67%, cổ phiếu Bank of America mất 4,23%, cổ phiếu
HSBC, Deutsche Bank niêm yết trên sàn New York có mức giảm lần lượt là 8%
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
10
và 9,2%. Trong ngày giao dịch, cổ phiếu của Motorola đã giảm 4,86% xuống
4,11 USD/cổ phiếu sau khi hãng này công bố cắt giảm 4.000 việc làm và các chi
phí khác để tiết kiệm được khoảng 700 triệu USDKết thúc ngày giao dịch: chỉ
số công nghiệp Dow Jones tiếp tục giảm 248,42 điểm, tương đương -2,94 %,
đóng cửa ở mức 8.200,14. Chỉ số Nasdaq phiên này hạ 56,82 điểm, tương
đương
-3,67%, chốt ở mức 1.489,64. Chỉ số S&P 500 mất 29,17 điểm, tương
đương
-3,35%, đóng cửa ở mức 842,62.
Tại Châu Âu, những cảnh báo về khả năng cắt giảm kết hoạch lợi nhuận và phải
tăng vốn của HSBC, cũng như việc thua lỗ 6,4 tỷ USD trong quý 4/2008 của
ngân hàng lớn nhất ở Đức - Deutsche Bank, đã đẩy cổ phiếu khối ngân hàng
châu Âu s
ụt giảm với biên độ lớn. Cổ phiếu của HSBC giảm 9,8%, cổ phiếu
Royal Bank of Scotland mất 17%, cổ phiếu BNP Paribas, Banco Santander và
Credit Suisse gi
ảm từ 6,9 - 8,6% Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số FTSE 100
của Anh giảm 218,51 điểm, tương đương -4,97%, đóng cửa ở mức 4.180,64,
khối lượng giao dịch đạt 2,1 tỷ cổ phiếu. Chỉ số DAX của Đức tiếp tục hạ
4,63%, khối lượng giao dịch đạt 45,68 triệu cổ phiếu. Chỉ số CAC 40 của Pháp
mất 4,56%, khối lượng giao dịch đạt 184 triệu cổ phiếu.
Thị trường châu Á trong chiều hướng ngược lại đã đồng loạt phục hồi do sự
tăng lên mạnh mẽ của cổ phiếu khối công nghệ và năng lượng. Trung Quốc
cũng công bố những số liệu thông kê lại cho thấy GDP của nước này đã vượt
qua Đức từ năm 2007 để trở th
ành nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới. Bên cạnh
đó, sau nhiều ng
ày giảm liên tiếp, các nhà đầu tư đã tăng lượng mua vào nhằm
tìm kiếm lợi nhuận từ những đợt phục hồi mang tính kỹ thuật.
Ngày 10/02/2009
Trong suốt những phiên giao dịch sau đó, các thị trường trên thế giới đều giao
dịch cầm chừng, những phiên mất điểm xen kẽ những phiên phục hồi làm cho
ch
ỉ số các thị trường thời điểm đầu tháng 02/2009 giao động quanh mức tương
đương đầu tháng 01.
Tại Mỹ, ngày 10/02/2009, kế hoạch giải cứu khối ngân hàng của Chính phủ mới
ở Mỹ đ
ã đưa đến một làn sóng bán tháo cổ phiếu trên thị trường Mỹ. Gói giải
cứu trị giá 2.000 tỷ USD với mục tiêu chính là mua lại các tài sản xấu của các tổ
chức tài chính và cho vay đối với người tiêu dùng, ngăn chặn tịch biên nhà cửa
không được giới đầu tư đánh giá cao v
ì họ nghi ngờ vào nguồn lực tài chính của
Chính phủ để thực hiện kế hoạch này đồng thời kế hoạch này, nếu có được thực
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
11
hiện, thì cũng chưa thể làm ổn định được thị trường cổ phiếu. Diễn biến thị
trường sau đó theo hướng đi xuố
ng sâu. Dow Jones mất mốc 8.000 điểm trong
khi các chỉ số S&P 500 và Nasdaq cũng giảm mạnh. Riêng chỉ số khối ngân
hàng đ
ã mất gần 14%, cổ phiếu ngành bảo hiểm giảm 9,5%, còn chỉ số S&P Tài
chính trượt 10,9%. Trong đó, cổ phiếu của Citigroup, Bank of Ameraca,
Goldman Sachs, JPMorgan, Morgan Stanley đã giảm từ 4,8% đến 19%. Tất cả
30 mã chứng khoán trong chỉ số Dow Jones cùng giảm điểm lần đầu tiên kể từ
ngày 20/1 với biên độ từ 3-19%.
Tại châu Âu, với sự thất vọng về chính sách của Chính phủ Mỹ và việc một số
ngân hàng thông báo mức thua lỗ trong năm 2008, chứng khoán Châu Âu giảm
mạnh. Các chỉ số đều giảm từ 2,2-3,6% sau khi thị trường đóng cửa ngày giao
d
ịch. Cổ phiếu khối ngân hàng đã dẫn đầu về biên độ giảm điểm, trong đó cổ
phiếu HSBC, Standard Chartered, Societe Generale giảm từ 3,2-6,7%. Kết thúc
ngày giao dịch, chỉ số FTSE 100 của Anh giảm 94,53 điểm, tương đương -
2,19%, ch
ốt ở mức 4.213,08. Chỉ số CAC 40 của Pháp giảm 3,64%, trong khi
chỉ số DAX của Đức mất 3,46 0,48%.
Tại châu Á, đã không có nhiều biến động lớn do sự thận trọng của các nhà đầu
tư. Điển h
ình là khối lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán Tokyo đã
gi
ảm gần 500 triệu cổ phiếu so khối lượng trung bình tuần trước đó. Trong
phiên giao dịch ngày 10/2, các thị trường Nhật, Hàn Quốc, Australia dù mất
điểm nhưng biên độ giảm cũng chỉ từ 0,29% đến 0,5%. Các thị trường khác có
sự phục hồi nhưng cũng chỉ biến động quanh mức 1%.
Như vậy, sự kiện được giới đầu tư quan tâm nhất trong những ngày đầu năm
này là việc Tổng thống mới đắc cử của Mỹ nhậm chức và những kế hoạch,
chính sách của Chính phủ mới. Mặc dù đã có những kế hoạch giải cứu kinh tế
nhưng tính khả thi v
à hiệu quả của những chính sách này vẫn chưa lấy được
lòng tín của các nhà đầu tư. Kết quả là thị trường Mỹ không ổn định, các thị
trường khác cũng biến động theo Phố Wall.
DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ KHI BÙNG
PHÁT KH
ỦNG HOẢNG ĐẾN ĐẦU NĂM 2009
Thời gian ngay sau khủng hoảng
Mặc dù quan hệ giữa TTCK Việt Nam với TTCK thế giới chưa chặt chẽ, song
TTCK Việt Nam cũng chịu những tác động nhất định, nhất là tâm lý của nhà
đầu tư. Tuy nhiên, trong dài hạn, tình hình kinh tế và thị trường tài chính, TTCK
th
ế giới sẽ có tác động lớn hơn đến sự phát triển của TTCK Việt Nam. Sự tác
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
12
động của chuỗi các sự kiện từ cuộc khủng hoảng tài chính đã hình thành sự gắn
kết gần như tức thời giữa TTCK Việt Nam và thị trường chứng khoán thế giới
(đặc biệt l
à TTCK Mỹ).
Ngay sau khi có được thông tin từ thị trường thế giới, tâm lý nhà đầu tư trên
TTCK Việt Nam bị tác động mạnh. Các nhà đầu tư chứng khoán đã liên tục đặt
lệnh bán ra ngay từ đợt khớp lệnh đầu tiên trong phiên đầu của ngày giao dịch
30/09 khiến Vn-Index mất 4,68% (tương đương 22,42 điểm), xuống mức
456,58 điểm sau đợt một. Lượng giao dịch ở mức thấp khi chỉ có 1,59 triệu
chứng khoán với tổng giá trị 49,78 tỷ đồng được giao dịch. Bảng điện tử đỏ và
dư mua tràn ngập với gần như toàn bộ 164 mã chứng khoán niêm yết tại HOSE
đều giảm s
àn. Nguồn cung quá lớn trong khi sức cầu yếu khiến xu hướng giao
dịch một chiều được duy trì trong suốt thời gian khớp lệnh liên tục. Trong đợt
khớp lệnh định kỳ cuối cùng đã nâng khối lượng giao dịch báo giá lên thành
4,35 tri
ệu chứng khoán, giá trị 168,8 tỷ đồng. Vn-Index đóng cửa tại 456,7 điểm
(giảm 22,3 điểm, tương đương 4,66%). Toàn thị trường chỉ có 1 mã đứng giá và
có t
ới 163 mã giảm, trong đó 159 mã xuống sàn.
T
ại sàn Hà Nội, tình trạng cũng diễn ra tương tự và kết thúc phiên giao dịch
HaSTC-Index đóng cửa tại 148,55 điểm, giảm 9,43 điểm (tương đương 5,97%).
Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 6,49 triệu cổ phiếu, tương đương
264,4 tỷ đồng.
Sụt giảm trong quý 4/2008
Liên tiếp sau đó trong các phiên giao dịch của quí 4 (các tháng 10, 11, 12)
TTCK Việt Nam liên tục sụt giảm về điểm chỉ số. Vn-Index đóng cửa vào ngày
31/12/2008 là 315,62 điểm giảm 73,04% so với đỉnh của Vn-Index (giá đóng
cửa ngày 12/3/2007 với 1170,67 điểm) và giảm 65,73% so với ngày đầu năm
2008. HaSTC-Index đóng cửa vào ngày 31/12/2008 dừng ở 105,12 điểm giảm
76,88% so với đỉnh (giá đóng cửa ngày 12/3/2007 với 454,75 điểm) và giảm
67,39% so với ngày đầu nằm 2008 (giá đóng của ngày 02/01/2008 là 322,34
điểm). Trong quí này, cả hai chỉ số của TTCK cũng thiết lập đáy mới trong năm
2008. Chỉ số Vn-Index có đáy là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008 còn
HaSTC-Index c
ũng có đáy là 97,61điểm vào ngày 27/11/2008.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
13
Biểu đồ 2: Sự biến động của 2 chỉ số trên TTCK Việt Nam quí 4 năm 2008
107.72
102.62
105.90
103.54
102.20
103.90
113.07
116.36
114.88
111.58
125.32
119.87
152.02
452.14
307.26
304.46
299.54299.68
314.74
318.96
352.07
365.97
347.05
382.51
345.11
379.06
3/10/08
10/
1
0/0
8
17/10/0
8
24/10/0
8
31/1
0
/08
7/11/
08
1
4/1
1
/08
21
/1
1/
08
28
/1
1/
08
5/
12
/
08
12
/1
2/
08
19/
1
2/
08
26/
1
2/
08
Hastc-Index Vn-Index
Theo dõi sự biến động của Vn-Index trong 3 tháng của quí 4 năm 2008, có thể
thấy rõ tác động của khủng hoảng tài chính tới TTCK Việt Nam một cách rõ rệt.
Kh
ối lượng giao dịch tháng 10 là 721 triệu cổ phiếu tương đương với 21.443 tỷ
đồng so với tháng 9 l
à 930 triệu cổ phiếu với giá trị là 34.392 tỷ đồng. Như vậy,
trong tháng 10, Vn-Index đã mất 37,65% khối lượng giao dịch và 22, 53% giá
tr
ị giao dịch. Trong tháng 11 và tháng 12, tiếp tục đà đi xuống của TTCK Việt
Nam khi khối lượng giao dịch mất tiếp 19,03% và 45, 98%. Tính toàn bộ trong
quí 4 của năm 2008 , khối lượng giao dịch trên HOSE sụt giảm 87,54% còn giá
tr
ị giao dịch sụt giảm 50,22%. Có thể thấy rõ sự biến động này tại biểu đồ1dưới
đâ
y.
Biểu đồ 3: Biến động KLGD và GTGD của Vn-Index trong quí 4 năm 2008
21,444
34,392
16,076
18,079
-
100,000
200,000
300,000
400,000
500,000
600,000
700,000
800,000
900,000
1,000,000
Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
KLGD (1000 CP)
GTGD (Tỷ VNĐ)
Nguồn :
Tại HASTC, một kịch bản tương tự cũng diễn ra khối lượng giao dịch của tháng
10 ch
ỉ đạt 174,9 triệu cổ phiếu giảm 24,31% so với tháng 9 , còn giá trị giao
d
ịch chỉ đạt 5.027 tỷ đồng giảm 44,19% so với tháng 9. Tính toàn bộ quí 4, khối
lượng giao dịch tại HASTC giảm 50, 03% còn giá trị giao dịch giảm 84,56%.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
14
Biểu đồ 4: Biến động KLGD và GTGD của HaSTC-Index trong quí 4 năm 2008
3,102
4,721
5,027
9,008
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
0
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
8,000
9,000
10,000
KLGD (1000CP) GTGD (tỷ VNĐ)
Nguồn :
Diễn biến theo tuần trong quý 4/2008
Tuần 40 ( 29/9-3/10)
Tuần 40 thể hiện rõ ràng sự dè dặt của nhà đầu tư trước các luồng thông tin trái
chi
ều, với kết quả là các phiên giảm điểm của Vn-Index xen kẽ với một phiên
tăng giá vào ngày 02/10. Đóng cửa tuần này, Vn-Index đạt 452,14 điểm, giảm
8,11 điểm so với phiên liền trước, và giảm 31,67 điểm so với phiên cuối tuần
trước. Tổng khối lượng giao dịch tuần này đạt 66,17 triệu đơn vị tương đương
hơn 2.514 tỷ đồ
ng. So với tuần trước, cả khối lượng và giá trị giao dịch tuần này
đều giảm mạnh khoảng 58%.
HaSTC-Index d
ừng lại ở mức 152,02 điểm, giảm 0,94 điểm (tương đương giảm
0,61 %). So sánh v
ới phiên đóng cửa tuần trước, HaSTC-Index tiếp tục giảm
8,29 điểm tương đương với 5,17%. Cũng giống như sàn HOSE, tổng khối lượng
giao d
ịch và khối lượng giao dịch trung bình trong tuần đều giảm mạnh so với
tu
ần trước. Cụ thể, tổng khối lượng giao dịch tuần này đạt 47,1 triệu cổ phiếu
trong khi tu
ần trước đạt 55,6 triệu cỏ phiếu tương đương giảm 15,24% so với
tu
ần trước.
Tuần 41 ( 3/10- 6/10)
Kết thúc tuần 41, Vn-Index đóng cửa tại mức 379,06 điểm, giảm 73,08 điểm
(tương đương 16,16%) so với phiên đóng cửa cuối tuần 40. Nếu tính từ đầu tuần
trước, Vn-Index đã giảm tới gần 100 điểm (hơn 20%). Tổng khối lượng giao
d
ịch toàn thị trường tuần này đạt hơn 76,5 triệu đơn vị, tương ứng 2,300 tỷ
đồ
ng. So với tuần trước, giá trị giao dịch tuần này giảm 8,29% trong khi khối
lượng giao dịch lại tăng lên 12,32%. Điều này cho thấy xu hướng tuần này, giao
d
ịch chủ yếu tập trung ở các mã chứng khoán có thị giá thấp (gần với mệnh giá)
và h
ạn chế giao dịch ở các mã chứng khoán có thị giá cao. Như vậy, nhà đầu tư
đ
ã dần chuyển hướng sang lựa chọn các mã có độ an toàn cao hơn và ít bị giảm
sâu.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
15
Đóng cửa tuần này HaSTC-Index dừng lại ở mức 119,87 điểm, giảm 32,15
điểm tương đương với 21,15%. Cùng với diễn biến tại HOSE và thị trường
ch
ứng khoán thế giới, HaSTC-Index tiếp tục có những phiên giảm điểm gần
như tối đa biên độ cho phép, điển hình là ngày cuối tuần 10/10/2008, HaSTC-
Index đã giảm tới 7,28%. Khối lượng giao dịch trong tuần này cũng ở mức thấp
như tuần trước, tuy nhiên càng về những phiên giao dịch cuối tuần khối lượng
giao d
ịch có xu hướng tăng dần giúp cải thiện tính thanh khoản của thị trường.
Tuần 42 ( 13/10- 17/10)
Kết thúc tuần 42, Vn-Index đóng cửa tại mức 382,51 điểm tăng 3,45 điểm
(tương đương 0,91%) so với phiên đóng cửa cuối tuần 41. Tổng khối lượng giao
d
ịch toàn thị trường tuần này đạt 70,1 triệu thấp hơn 76,5 triệu đơn vị của tuần
trước, giá trị tương ứng đạt 2.122 tỷ đồng. So với tuần trước, giá trị giao dịch
tu
ần này giảm 7,74% trong khi khối lượng giao dịch cũng giảm 8,37%. Thị
trườ
ng chứng khoán đã trải qua một tuần đầy biến động. Tiếp nối xu hướng của
tu
ần trước, thị trường tiếp tục đi xuống vào ngày thứ hai, trước khi có một phiên
đảo chiều mạnh mẽ tăng gần hết biên độ cho phép và không có dư mua vào thứ
ba ngay sau khi chứng khoán Mỹ có 1 phiên hồi phục mạnh với chỉ số công
nghi
ệp Dow Jones tăng tới 10%. Tuy nhiên, ngay sau đó, hưng phấn của NĐT
đ
ã giảm dần trong ngày thứ 5, tiếp nối sang ngày thứ 6 với việc VN- Index giảm
nh
ẹ trong 2 ngày cuối tuần.
Giao dich tu
ần này, HaSTC-Index lại có phiên tăng điểm nhẹ đóng cửa ở mức
125,32 điểm tăng 5,45 điêm, tương đương tăng 4,55% so với cuối tuần trước.
Di
ễn biến giao dịch tuần này cho thấy các thông tin từ trong và ngoài nước có
nh
ững tác động rất nhanh đến tâm lý đầu tư, đặc biết là thông tin về kết quả giao
d
ịch của các thị trường chứng khoán quốc tế và báo cáo kết quả kinh doanh QIII
c
ủa các DN đang niêm yết. Chính những yếu tố trên đã được phản ánh trong các
phiên giao d
ịch trong tuần. Khối lượng giao dịch tuần này vẫn chưa có dấu hiệu
được cải thiện và đang có xu hướng giảm so với tuần trước. Tổng KLGD toàn
th
ị trường và KLGD trung bình đạt lần lượt 38,4 triệu đơn vị và 7,69 triêu đơn
vị, tương đương giảm lần lượt 19,41% và 19,48% so với 47,75 triệu đơn vị và
9,55 triêu đơn vị của tuần trước. KLGD lớn nhất tại HaSTC được tập trung vào
ngày
15/10 khi có hơn 14 triệu cổ phiếu được giao dịch đem lại giá trị hơn 404
tỷ đồng. Tuy khối lượng giao dịch chưa được củng cố nhưng với diễn biến giao
d
ịch khá sôi động và kết thúc băng phiên tăng điểm đã phần nào giúp nhà đầu tư
yên tâm vào sẵn sang cho tuần giao dịch mới.
Th
ị trường trong tuần qua cũng như thời gian gần đây đã có những biến động
theo sát xu hướng chung của thị trường chứng khoán thế giới, đặc biệt là thị
trườ
ng Mỹ. Trong bối cảnh vẫn có những lo ngại về suy thoái kinh tế Mỹ và
toàn c
ầu tới Việt Nam thì các tin tốt thị trường thế giới sẽ có tác động về tâm lý
m
ạnh đối với nhà đầu tư, nhất là trong thời điểm chứng khoán trong nước đang
ở
mức thấp và sẵn sàng “chào đón” bất kỳ tin tốt nào. Tuy vậy, xu hướng này
khó có th
ể tiếp tục trong thời gian tới.
Tuần 43 ( 20/10- 24/10)
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
16
Kết thúc tuần giao dịch tuần này, Vn-Index đóng cửa ở mức 345,11 điểm, tổng
giá tr
ị khớp lệnh đạt 450,90 tỷ đồng tương ứng với khối lượng giao dịch hơn
13,1 triệu đơn vị. Vn-Index có phiên tăng duy nhất trong tuần vào ngày 21/10,
m
ột phiên tăng điểm hiếm hoi trong xu thế giảm điểm của cả tuần, sau đó phá
vỡ mức đáy 366 điểm vào ngày 23/10. Khối lượng giao dịch trong cả tuần giảm
so v
ới tuần trước, với giao dịch chủ yếu ở các blue-chips có tính thanh khoản
t
ốt.
Chuy
ển động cùng chiều với Vn-Index, tuần này HaSTC đã không thể tránh
kh
ỏi những phiên mất điểm mạnh. Với chỉ một phiên giao dịch ghi điểm duy
nh
ất đóng cửa tuần này HaSTC-Index dừng lại ở mốc 111,58 điểm, giảm 3,76
điểm, tương đương với 3,26%. So với phiên đóng của của tuần trước, HaSTC-
Index ti
ếp tục để mất thêm 13,74 điểm, tương đương 10,69%.
Dường như tấ
t cả các yếu tố thị trường trong và ngoài nước đang được phản ánh
r
ất nhanh qua từng phiên giao dịch tuần này. Mặc dù các yếu tố khả quan của
n
ền kinh tế được công bố gần đây nhưng hầu như không thể cải thiện được xu
hướng đi xuồng của thị trường. Ngưỡng 100 điểm của HaSTC-Index đang gần
k
ề và chưa có dấu hiệu dừng lại.
Kh
ối lượng giao dịch tuần này tiếp tục giảm so với tuần trước chỉ đạt 37,2 triệu
đơn vị so với 38,4 triệu của tuần trước đồng thời khối lượng giao dịch trung
bình c
ũng giảm từ 9,55 triệu đơn vị mỗi phiên xuống còn 7,45 triêu đơn vị.
HaSTC-Index m
ất điểm cùng với khối lượng giao dịch giảm khiến tình thanh
kho
ản thực sự gặp khó khăn, giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giảm từ
222,37 tỷ xuống chỉ còn 216,53 tỷ trong tuần này. Trong phiên giao dịch cuối
tu
ần khối lượng đã được cải thiện đôi chút đạt 8,7 triệu đơn vị, đây là mức lớn
nh
ất trong tuần này.
Tuần 44 ( 27/10- 31/10)
Kết thúc tuần giao dịch từ 27/10 đến 31/10 chỉ số Vn-Index có 3 phiên tăng
điể
m và hai phiên giảm. Với kết quả này chỉ số Vn-Index đạt mức 347,05 điểm,
tăng nhẹ 4,94 điểm tương ứng với tỷ lệ tăng 1,44% so với tuần trước đó. Phiên
giao dịch 31/10 cũng là phiên giao dịch cuối cùng của tháng, như vậy Vn-Index
đã mất tới 109,65 điểm so với tháng trước, tương ứng tỷ lệ giảm 24,04% chỉ
trong vòng 1 tháng. Khá nhiều nhà đầu tư mua bắt đáy đã mong chờ mức kỳ
vọng Vn-Index ở khoảng xấp xỉ 300 điểm để giải ngân. Tuy nhiên Vn-Index đã
ng
ừng giảm và đóng cửa ở mức 322 điểm trong ngày 28/10. Phiên tăng điểm
đầu tiên trong tuần của Vn-Index là vào ngày 29/10 và liên tiếp sau đó Vn-
Index tăng cho đến hết tuần. Động cơ tăng điểm của Vn-Index và HaSTC-Index
trong tu
ần vừa rồi chủ yếu là bắt nguồn từ tâm lý hưng phấn sau phiên tăng
điể
m ấn tượng của chỉ số Dow Jones và sau đó là Nikkei, thêm vào đó là động
thái ch
ờ bắt đáy khi giá cổ phiếu đã trở nên hấp dẫn, kết hợp với bên sàn
HASTC ch
ỉ số đã rớt xuống dưới mức 100 điểm tức là thấp hơn mức khởi điểm
b
ắt đầu của chỉ số này vào năm 2005. Tuy nhiên với động cơ như vậy thì có vẻ
chưa đủ để
Vn-Index và HaSTC-Index làm một cú bật mạnh khi đa phần tâm lý
nhà đầu tư vẫn e dè với thị trường.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
17
Tuần 45 ( 03/11- 07/11)
Thị trường chứng khoán Việt Nam kết thúc tuần giao dịch từ 03/11 đến 07/11
với một phiên giảm sâu trên cả hai sàn. Kết thúc tuần Vn-Index đạt 365,97
điểm, tăng 5,45% so với tuần trước.
Chỉ số HaSTC-Index đạt 116,36, tăng nhẹ 1,3% so với tuần trước. Đây là tuần
giao dịch khá thành công với sàn HOSE khi mà 4 trong 5 phiên đều thể hiện
mức tăng điểm. Trái lại HASTC có tuần giao dịch nhiều biến động với 3 phiên
gi
ảm và chỉ có 2 phiên tăng trong ngày Thứ Ba (04/11) và Thứ Tư (05/11).
Tuần 46 (10/11- 14/11)
Kết thúc tuần giao dịch 10/11 đến 14/11, chỉ số Vn-Index giảm 19,73 điểm
(tương đương 5,39%) so với mức đóng cửa của tuần trước. Vn-Index giảm nhẹ
cho dù trong tuần có 3 phiên tăng điểm và hai phiên giảm điểm. Các phiên giảm
điểm đều là những phiên giảm khá mạnh trong khi những phiên tăng điểm thì
l
ại yếu dần về cuối phiên. Diễn biến giằng co giữa bên mua và bên bán thể hiện
khá rõ, các l
ệnh đặt mua thường chỉ ở giá thấp trong khi đó lệnh bán thường chỉ
bán với giá cao. Điều này cho thấy đang có sự khác biệt xa về kỳ vọng giữa bên
mua và bên bán. Bên bán ch
ỉ muốn bán với giá cao (đặc biệt cung giá trần rất
cao) còn bên mua ch
ỉ chấp nhận ở mức giá dưới tham chiếu trở xuống. Giá
nhi
ều cổ phiếu đang ở mức sát với mức đáy được thiết lập trong tháng 10 là tác
nhân giúp cho th
ị trường không bị xả hàng khi giảm điểm.
Cùng chung v
ới diễn biến trên sàn HOSE, chỉ số HaSTC-Index trong tuần qua
c
ũng giảm nhẹ, mất đi 5,72 điểm (tương đương 4,91%) so với mức đóng cửa
cu
ối tuần trước. Như đã nhận định từ tuần trước rằng việc tăng thêm lượng cung
r
ất lớn của cổ phiếu ACB chưa hẳn đã dẫn đến hiệu ứng bán tháo làm giảm giá,
và trong tu
ần này ACB đã chứng tỏ độ ổn định về lượng cung và hơn thế nữa,
chính nh
ững phiên tăng điểm của ACB đã góp phần tạo tâm lý tốt cho nhà đầu
tư trên sàn này. Trong tuần qua thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục
ch
ịu ảnh hưởng bởi thị trường chứng khoán thế giới, mặc dù mức độ đã giảm
b
ớt. Có tới 2 phiên các chỉ số Vn-Index và HaSTC-Index biến động ngược lại
v
ới diễn biến trên TTCK thế giới.
Tuần 47 (17/11- 21/11)
Kết thúc tuần giao dịch từ 17/11 đến 21/11, chỉ số Vn-Index có trọn một tuần
giảm điểm. Sau 5 phiên giảm điểm chỉ số Vn-Index đã giảm 33,11 điểm so với
phiên cuối tuần trước (tương ứng với tỷ lệ giảm 9,4 %) và đóng cửa ngày cuối
tuần ở mức 318,96 điểm. Như vậy chỉ số Vn-Index đã phá đáy 322,8 thiết lập
hôm 28/10. Tâm lý bi quan vẫn là tâm lý chủ đạo của hầu hết nhà đầu tư tại thị
trường Việt Nam trong tuần qua. Không giống như tuần trước, sự giằng co
giữabên mua và bên bán chỉ duy trì trong 3 phiên giao dịch đầu tuần này. Lượng
cầu vẫn ổn định nhưng có sự khác biệt giữa bên mua và bên bán khi mà người
muachỉ mua ở giá thấp còn người bán muốn bán với giá cao. Do có sự lệch pha
nàymà khối lượng giao dịch thực tế qua các phiên tương đối thấp. Đến hai
phiêncuối tuần dường như khả năng chịu đựng của nhiều nhà đầu tư đã đến giới
hạn và họ quyết định bán ra để thu tiền mặt, giảm thiểu rủi ro trong tình trạng
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
18
thị trường như hiện nay. Trong khi đó sức cầu lại giảm mạnh khiến cho thị
trườnggiảm khá mạnh, v
à kết quả là chỉ số Vn-Index đã phá đáy 322,8 điểm
thiết lập hôm 28/10.
Cùng chung xu hướng giảm điểm với Vn
-Index, tuần qua chỉ số HaSTC-Index
c
ũng có thêm một tuần sụt giảm. Đóng cửa tuần chỉ số HaSTC-Index còn 103,9
điểm, giảm 9,17 điểm tương ứng với tỷ lệ giảm 8,11%. Chỉ số HaSTC-Index có
duy nh
ất một phiên tăng điểm trong tuần. Nguyên nhân chính của sự tăng điểm
này do sự tăng điểm của một số cổ phiếu chủ chốt như ACB và PVS.
Tuần 49 (24/11- 28/11)
Kết thúc phiên giao dịch ngày 29/11 chỉ số Vn-Index mất 4.22 điểm so với mức
đóng cửa cuối tuần trước (giảm 1,52 %) và đóng cửa tuần tại 314,74 điểm. Thị
trường đầu tuần giao dịch khá ảm đạm, giá trị giao dịch sụt giảm (chỉ c
òn
kho
ảng 300 tỷ đồng mỗi phiên). Vn-Index có tới 3 lần thiết lập đáy mới. Mức
đáy 303,54 điểm đ
ã được thiết lập trong phiên giao dịch thứ 5 (27/11), thấp nhất
trong khoảng 3 năm trở lại đây. Điều bất ngờ đã xảy ra trong phiên giao dịch
cuối tuần khi chỉ số Vn-Index tăng điểm mạnh đã giúp cho kết quả chung cuộc
của chỉ số này chỉ giảm nhẹ so với mức đóng cửa cuối tuần trước.
Trong tuần diễn biến tại sàn HaSTC tích cực hơn HOSE đôi chút khi có tất cả 3
phiên tăng điểm. Kết thúc tuần chỉ số HaSTC
-Index tăng nhẹ 0,3 điểm
(tươngứng với tỷ lệ tăng 0,29%) và đóng cửa ở 104,2 điểm. Cũng giống như chỉ
số Vn-Index thì trong tuần qua HaSTC-Index cũng có 2 lần thiết lập đáy mới
vàocác ngày 26, 27/11. Đáy mới nhất đ
ã được thiết lập là 97,61 điểm. Tuy
nhiênphiên tăng điểm mạnh cuối tuần đ
ã giúp cho chỉ số HaSTC-Index lấy lại
những gì đã mất của những ngày giảm điểm trước đó.
Tuần 50 (01-05/12)
Kết thúc phiên giao dịch ngày 5/12 chỉ số Vn-Index giảm 15,06 điểm so với
m
ức đóng cửa cuối tuần trước (tương đương với tỷ lệ giảm 4,78 %) và đóng cửa
tu
ần tại 299,68 điểm. Không khí ảm đạm là đặc điểm dễ nhận thấy trong tất cả
các phiên giao dịch trong tuần, khối lượng giao dịch thành công giảm đáng kể
dẫn tới giá trị giao dịch giảm mạnh tương ứng. Cụ thể khối lượng giao dịch theo
phương thức báo giá bình quân trong mỗi phiên chỉ đạt 9,395 triệu cổ phiếu
thay vì 11,839 tri
ệu của tuần trước. Tương tự giá trị giao dịch báo giá bình quân
m
ỗi phiên chỉ còn 231 tỷ đồng, giảm đáng kể so với con số 315 tỷ của tuần
trước.
T
ại sàn HaSTC diễn biến giao dịch có khả quan hơn đôi chút so với diễn biến
t
ại HOSE, cụ thể chỉ số HaSTC-Index có 2 phiên tăng điểm và 3 phiên giảm
điểm. Chốt tuần HaSTC-Index đóng cửa tại 103,54 điểm, giảm 0,66 điểm so với
phiên cu
ối tuần trước (tương ứng với tỷ lệ suy giảm khoảng gần 1%). Cũng
giống như HOSE, giao dịch trên sàn HASTC tuần qua cũng suy giảm cả khối
lượng và giá trị tuy nhiên mức suy giảm tương đối thấp (khoảng 5% về giá trị
và 19% về khối lượng).
Tuần 51 (8-12/12)
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
19
Kết thúc phiên giao dịch ngày 12/12 chỉ số Vn-Index giảm 0,12 điểm so với
mức đóng cửa cuối tuần trước và đóng cửa tuần tại 299,56 điểm. Như vậy chỉ số
VNIndex gần như giữ nguyên so với cuối tuần trước. Ngoại trừ phiên giao dịch
đột biến cuối tuần với sự tăng điểm mạnh mẽ của thị trường, các phi
ên giao dịch
trong tuần vẫn duy trì khối lượng giao dịch thành công thấp dẫn tới giá trị giao
dịch vẫn ở mức thấp. Cụ thể khối lượng giao dịch theo phương thức báo giá
bình quân trong mỗi phiên chỉ đạt 9,521 triệu cổ phiếu so với 9,395 triệu của
tuần trước. Tương tự giá trị giao dịch báo giá bình quân mỗi phiên đạt được là
249 t
ỷ đồng,tăng 18 tỷ đồng tuần trước.
Tại sàn HASTC diễn biến giao dịch có khả quan hơn đôi chút so với diễn biến
tại HOSE, cụ thể chỉ số HaSTC-Index có 3 phiên tăng điểm và 2 phiên giảm
điểm. Chốt tuần HaSTC
-Index đóng cửa tại 105,9 điểm, tăng 2,4 điểm so với
phiên cuối tuần trước (tương ứng với tỷ lệ tăng 2,28%). Cũng giống như HOSE,
giao dịch trên sàn HASTC tuần qua cũng nhỉnh hơn cả khối lượng và giá trị, tuy
nhiên mức tăng tương đối thấp, khối lượng giao dịch bình quân đạt được 6,623
triệu cổ phiếu tương ứng với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 149 tỷ
đồng.
Tuần 52 (15-19/12)
Kết thúc phiên giao dịch ngày 19/12 chỉ số Vn-Index tăng 7,72 điểm
(+2,58%)so v
ới mức đóng cửa cuối tuần trước và đóng cửa tuần tại 307,26
điểm. Các phiên giao dịch trong tuần đã có được mức tăng về khối lượng cổ
phiếu giao dịch cũng như giá trị giao dịch. Cụ thể khối lượng giao dịch theo
phương thức báo giá bình quân trong mỗi phiên đã đạt 10,836 triệu cổ phiếu so
v
ới 9,521 triệu của tuần trước. Tương tự giá trị giao dịch báo giá bình quân mỗi
phiên đạt được là 263 tỷ đồng cao hơn một chút so với con số 249 tỷ của tuần
trước.
T
ại sàn HASTC, diễn biến giao dịch cũng cùng chiều với HOSE, cụ thể chỉ số
HaSTC-Index có 3 phiên tăng điểm và 2 phiên giảm điểm. Chốt tuần HaSTC-
Index đóng cửa tại 107,72 điểm, tăng 1,82 điểm (+1,72%) so với phiên cuối
tu
ần trước. Cũng giống HOSE, giao dịch trên sàn HASTC tuần qua cũng tăng
khá cả về khối lượng và giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch bình quân đạt
được 7,270 triệu cổ phiếu tương ứng với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên
đạt 173 tỷ đồng.
Tuần 53 (22-26/12)
Kết thúc phiên giao dịch ngày 26/12 chỉ số Vn-Index giảm 2,8 điểm so với mức
đóng cửa cuối tuần trước và đóng cửa tuần tại 304,46 điểm. Như vậy chỉ số Vn
-
Index đã giảm 0,91% so với cuối tuần trước. Các phiên giao dịch trong tuần có
sự sụt giảm về khối lượng cổ phiếu giao dịch cũng như giá trị giao dịch. Cụ thể
khối lượng giao dịch theo phương thức báo giá bình quân trong mỗi phiên chỉ
đạt 9,445 triệu cổ phiếu so với 10,836 triệu của tuần trước. Tương tự giá trị giao
dịch báo giá bình quân mỗi phiên đạt được là 223 tỷ đồng cao hơn một chút so
với con số 263 tỷ của tuần trước.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
20
Tại sàn HASTC diễn biến giao dịch cũng cùng chiều với diễn biến tại HOSE, cụ
thể chỉ số HaSTC-Index cũng sụt giảm nhẹ với chỉ số dao động không đáng kể
qua các phiên. Chốt tuần HaSTC-Index đóng cửa tại 105,62 điểm, giảm 2,1
điểm so với phiên cuối tuần trước (tương ứng với tỷ lệ giảm 1,95%). Cũng
giống như HOSE, giao dịch trên sàn HaSTC tuần qua cũng sụt giảm cả về khối
lượng và giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch bình quân đạt được 5,987 triệu
c
ổ phiếu tương ứng với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 146 tỷ đồng.
Tuần 54 (29/12/08-02/1/09)
Kết thúc phiên giao dịch ngày 02/01, Vn-Index tăng 8,8 điểm so với mức đóng
cửa cuối tuần trước và đóng cửa tuần tại 313,34 điểm. Như vậy Vn-Index đã
tăng 2,92% so với cuối tuần trước. Các phiên trong tuần cũng có sự gia tăng về
khối lượng cổ phiếu giao dịch cũng như giá trị giao dịch. Cụ thể khối lượng
giao d
ịch theo phương thức báo giá bình quân trong mỗi phiên đạt 10,267 triệu
c
ổ phiếu so với 9,445 triệu của tuần trước. Tương tự giá trị giao dịch báo giá
bình quân m
ỗi phiên đạt được là 260 tỷ đồng cao hơn so với con số 223 tỷ của
tu
ần trước.
T
ại sàn HASTC diễn biến giao dịch lại đi trái chiều so với diễn biến tại HOSE,
c
ụ thể chỉ số HaSTC-Index tiếp tục sụt giảm nhẹ với chỉ số thay đổi không đáng
kể qua các phiên. Chốt tuần HaSTC-Index đóng cửa tại 104,47 điểm, giảm 1,15
điểm so với phiên cuối tuần trước (tương ứng với tỷ lệ giảm 1.09%). Cùng với
di
ễn biến này, giao dịch trên sàn HASTC tuần qua cũng tiếp tục sụt giảm cả về
khối lượng và giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch bình quân đạt được 4,742
tri
ệu cổ phiếu tương ứng với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 121 tỷ
đồ
ng.
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Chưa kể tới hàng loạt các biện pháp chính sách khác ở tất cả các nền kinh tế
chính trên thế giới và trong khu vực, một câu hỏi đặt ra là tại sao cuộc khủng
hoảng nổ ra ở Mỹ và lại có dư chấn lớn đến như vậy. Có thể thấy có 2 nhóm
nguyên nhân dưới đây được đa số
nhà nghiên cứu đề cập
1) Nguyên nhân trực tiếp:
- Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của
các tổ chức tài chính hàng đầu
- Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
2) Nguyên nhân sâu xa:
- Sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và chứng
khoán hóa thái quá các chứng khoán tín dụng bất động sản cộng với
chủ nghĩa tự do trong điều hành kinh tế
Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các
tổ chức tài chính hàng đầu
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
21
Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản
giảm mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán
bất động sản để trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với
nguy cơ mất vốn. Thêm vào đó, việc các
hợp đồng cho vay bất động sản dùng
để bảo đảm cho các các chứng khoán MBS là nợ khó đòi dẫn đến các chứng
khoán MBS mất giá trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư
nắm giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình
tr
ạng khó khăn về tính thanh khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài
chính không còn ch
ịu đựng được sức ép của tính thanh khoản và các khoản thua
lỗ, nên đã buộc phải tìm sự cứu trợ từ tất cả các nguồn và thậm chí giải pháp
cuối cùng là đệ đơn pháp sản. Do sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình
th
ức chứng khoán hoá đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống trên toàn cầu.
Bear Stern, Indy Mac, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Meryll
Lynch, Washington Mutual, Vachovia, Morgan Stanley, Goldman Sachs v.v.
(M
ỹ), New Century Financial, Northern Rock, HBOS, Bradford & Bringley
(Anh), Dexia (Pháp-Bỉ-Luxembourg), Fortis, Hypo (Đức-Bỉ), Glitner (Iceland)
hoặc bị lung lay hoặc đã bị sụp đổ.
Đồng thời, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả tiền bảo
hiểm theo các hợp đồng bảo hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ chức này
bán ra. Ước tính nước Mỹ có khoảng 35.000 tỷ USD tiền bảo hiểm và toàn thế
giới là khoảng 54.600 tỷ USD (theo ước tính của “International Swap and
Derivatives Association”). Tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu thế giới
AIG bị đổ vỡ, một phần là do đầu tư vào MBS và phần lớn là do các hợp đồng
CDS. Nếu không có sự giải cứu kịp thời đối với thị trường tài chính Mỹ thì các
h
ợp đồng CDS sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Ch
ỉ tính đến tháng 07 năm 2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên
435 t
ỷ USD. Hơn nữa, không một ai có thể chắc về giá trị đích thực của các
khoản đầu tư tài chính – bất động sản được ước tính là hàng ngàn tỉ đô la vẫn
nằm trên sổ sách của các tập đoàn tài chính – ngân hàng.
Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày
càng sâu r
ộng là sự khủng hoảng về niềm tin của người dân Mỹ đối với đội ngũ
lãnh đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài chính tưởng chừng như được
thông qua khi hầu hết các lãnh đạo chính trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại
không được Hạ viện thông qua. Ngay lập tức thị trường có những phản ứng ti
êu
c
ực với kết quả này khi các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một
kế hoạch giải cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiệu lại
chưa chắc rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không th
ì
trong b
ất cứ trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt
trong tình trạng thị trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải pháp này
đã được thông qua nhưng rõ ràng đã có sự không nhất quán trong nội bộ các nhà
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
22
lập pháp Mỹ về cách thức điều hành và quản lý thị trường. Nhiều chính sách
điều tiết thị trường đ
ã không còn phù hợp và không theo kịp được sự phát triển
của thị trường. Vấn đề là khi lòng tin vào vai trò của Chính phủ đã bị giảm sút
và những dầu hiệu của một cuộc cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài
h
ạn vẫn còn hiển hiện thì những giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay
đổi được thị trường.
Sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và chứng
khoán hóa thái quá các chứng khoán tín dụng bất động sản cộng với chủ
nghĩa tự do trong điều hành kinh tế
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là tình trạng phát triển bong bóng
của thị trường tài chính, trong đó tập trung là thị trường tín dụng bất động sản
và chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động sản.
K
ể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát
tri
ển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán
hoá các khoản nợ và đầu tư. Mặc dù các công cụ nợ mới này giúp tăng nguồn
tài chính và phân tán rủi ro nhưng đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ
phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm.
Ngược lại với sự biến đổi sâu rộng của thị trường trong gần 30 năm qua, những
yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hoá và năng lực kiểm tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước đ
ã không bắt kịp. Không một cơ quan nhà nước, đơn vị
kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông tin và khả năng nhìn
xuyên qua l
ớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị
và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sả
n nằm trên sổ sách của các tổ chức tài
chính và ngân hàng.
Thêm vào đó những hoạt động chứng khoán hoá lại được che đậy qua các hoạt
động đầu cơ của các quỹ đầu tư nắ
m giữ tới gần 3.000 tỷ đô la giá trị tài sản
nhưng không phải công bố
tài sản với công chúng và gần như không chịu sự
giám sát của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào.
Nh
ững nới lỏng về quản lý như việc huỷ bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách biệt
ngân hàng thương mại
(commercial banking) chuyên thực hiện những hoạt động
cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư (investment banking) chuyên thực hiện
những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao đã góp phần khuyến khích những hoạt động
đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. V
ì vậy đã thổi bùng lên
bong bóng đầu cơ bất động sản.
Trong một thời gian dài, các tổ chức tài chính đã tăng cường cho vay đối với thị
trường bất động sản, đi k
èm với đó là tình trạng nới lỏng các điều kiện vay vốn
dẫn đến việc bùng nổ hoạt động cho vay bất động sản, đặc biệt ở Mỹ, tình trạng
cho vay dưới chuẩn đối với lĩnh vực bất động sản gia tăng mạnh mẽ. Các khoản
tín dụng đầu tư bất động sản sau đó được chứng khoán hoá và được giao dịch
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
23
rộng rãi trên thị trường (gom góp các hợp đồng cho vay bất động sản lại làm tài
s
ản bảo đảm để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế). Các loại
chứng khoán phái sinh này được gọi là “mortgage-backed securities – MBS” và
được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá cao mà không biết rằng các hợp
đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ ti
êu chuẩn. Kết quả là
tình tr
ạng bong bóng tín dụng bất động sản và chứng khoán được đẩy lên rất
cao, đồng thời lôi kéo sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó bao
gồm tất cả các loại hình tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm,
công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư
Hệ quả là, những biến động tiêu cực của thị trường tài chính – tiền tệ lại tạo sức
ép lên hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho họ vốn đã
khó khăn lại ngày càng khó khăn thêm. Lạm phát và tình trạng tín dụng bị co rút
lại làm cho các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, số doanh nghiệp
rơi vào t
ình trạng phá sản ngày càng tăng. Các nhà đầu tư hết sức lo lắng, xem
xét lại các quyết định đầu tư. Vốn đầu tư không những không được bơm thêm
vào thị trường mà lại còn được rút bớt ra. Hậu quả là hoạt động giao dịch trên
th
ị trường giảm sút, lệnh bán được tung ra nhiều trong khi lệnh mua thấp, thị
trường đi xuống trong t
ình trạng tính thanh khoản giảm.
CÁC QUAN ĐIỂM DỰ BÁO
Dự báo của các công ty chứng khoán trong nước về TTCK Việt Nam
Sau những biến động của TTCK trong năm 2008, hầu như tất cả các tổ chức tài
chính trong nước mà rõ nét nhất là các CtyCK khi đưa ra những nhận định đánh
giá đều không xây dựng những dự báo cụ thể, chính xác về TTCK Việt nam
năm 2009
mà chỉ đưa ra các kịch bản về tình hình chung.
Công ty chứng khoán BVSC: Trong Báo cáo “Toàn cảnh năm 2008, thách thức
và cơ hội năm 2009” BVSC đưa ra dự báo giai đoạn phục hồi của TTCK Việt
Nam năm 2009 sẽ trải qua ba mốc chính: khó khăn nhất, biến động, phục hồi.
Theo đó, T
TCK sẽ gặp khó khăn nhất vào cuối quý I, đầu quý II/2009 do hội tụ
nhiều bất lợi: kết quả kinh doanh kém khả quan của các DN; rủi ro nợ xấu của
hệ thống ngân hàng sẽ được giải quyết ở thời điểm cuối quý I Do đó, Vn-
Index nhi
ều khả năng sẽ dao động khoảng +/-20% quanh mức 300 điểm. Giai
đoạn biến động l
à cuối quý II/2009, thời điểm các rủi ro chính của nền kinh tế
Việt Nam và thế giới đã được cải thiện. Sẽ có các đợt sóng mỗi khi thông tin
tích cực và tiêu cực được công bố. Vn-Index có thể dao động mạnh quanh mức
350 - 450 điểm và đây sẽ là giai đoạn nhà đầu tư quan tâm trở lại. Giai đoạn
phục hồi vào cuối quý III, đầu quý IV/2009, các chỉ số kinh tế trong và ngoài
nước được cải thiện, rủi ro hệ thống được hạn chế và viễn cảnh tương lai nền
kinh tế và DN bắt đầu khởi sắc. Thị trường sẽ sôi động trở lại và Vn-Index sẽ
dao động quanh mức 420 điểm v
ào cuối năm 2009.
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
24
Công ty chứng khoán VNDirect: Báo cáo “Thách thức và chiến lược đầu tư năm
2009” của CtyCK VNDirect cũng khẳng định, dự báo thời điểm phục hồi của
n
ền kinh tế và TTCK là công việc khó khăn và ít khi chính xác. Do đó, thay vì
vi
ệc đưa ra một con số cụ thể về Vn-Index, công ty này chỉ vẽ ra 3 kịch bản về
nền kinh tế vĩ mô: lạc quan, trung bình và bi quan cùng các chỉ báo tới các nhà
đầu tư. Báo cáo này cho rằng: “Vn-Index đang ở ngưỡng quanh 300 điểm là
m
ột thực tế cần phải chấp nhận, đa số nhà đầu tư đã mất tiền trong năm vừa qua,
đ
ã có một bộ phận rời bỏ thị trường. Những người còn ở lại thì cùng hy vọng
một năm 2009 thị trường sẽ vượt qua được thời kỹ suy giảm, khởi sắc trở lại và
tìm th
ấy những điều tốt đẹp hơn vào nửa sau của năm 2009”.
Công ty chứng khoán FPT: Trong Báo cáo “Phân tích nền kinh tế Việt nam
2008 và thị trường chứng khoán năm 2009”, CtyCK FPT ( FPTS) cũng xây
dựng các kịch bản cho thị trường chứng khoán Việt nam năm 2009 dựa trên
phân tích k
ỹ thuật. Theo đó có 3 khả năng xảy ra là: Suy thoái, Hồi phục và tăng
trưởng. Ở kịch bản suy thoái Vn
-Index sẽ biến động từ 200-230 điểm trong quí
1 ( từ tháng 1-3/2009). Nếu đứng vững trong ngưỡng này thì trong các tháng
ti
ếp theo có thể tăng lên 280 điểm và cuối nằm dừng ở mức 310 điểm. Như vậy,
trong trường hợp xấu nhất Vn
- Index sẽ sụt giảm thấp hơn cả nằm 2008 khi
đóng cửa tại mức 315,62 điểm ( 31/12/2008); Ở kịch bản hồi phục, nếu thị
trường được hỗ trợ bởi các động lực từ những giải pháp tích cực ở cấp độ vỹ mô
của Chính phủ có khả năng trong quí 1, Vn-Index sẽ vượt qua mức 470 điểm và
sau đó giao động trong khoảng từ 550-600 đến hết năm. Nếu trong quí 1 , Vn-
Index ch
ỉ dao động trong khoảng từ 350-450 điểm thì đến cuối năm Vn-Index
có th
ể tiếp cận ngưỡng 470 điểm; Ở kịch bản tăng trưởng nếu ngay trong quí 1,
Vn-Index vượt mức 470 điểm và tiếp tục vượt ngưỡng 550-600 trước tháng 7
thì nhiều khả năng đến cuối nằm chỉ số này có thể đạt 800. Tuy nhiên, đây là
một kịch bản với một giả định hoàn hảo là nền kinh tế thế giới và Việt nam đã
gi
ải quyết được triệt để cuộc suy thoái nặng nề của năm 2008.
Trong 3 kịch bản nêu trên, kịch bản 2 được FPTS nhận định là hợp lý nhất bởi
nó phù h
ợp với những biến động của kinh tế Việt Nam và thế giới sẽ diễn ra
trong năm 2009. Có một điểm chú ý ở đây, FPTS không đưa ra những nhận
định đánh giá về HaSTC
-Index.
Công ty chứng khoán Tràng An: Trong Báo cáo “ Phân tích thị trường chứng
khoán Việt Nam năm 2009” CtyCK Tràng An đưa ra những dự báo hết sức khái
quát và không đưa ra những con số cụ thể có chỉ số chứng khoán của cả 2 s
àn.
TAS đánh giá trong giai đoạn đầu năm, trước tháng 3/2009, khi một số doanh
nghi
ệp có kết quả kinh doanh tốt, do còn có nguồn lực dự trữ từ năm 2007 để lại
sang năm 2008 công bố thông tin, khi những tin tức xấu chưa lộ rõ, thị trường
ch
ứng khoán co thể đi ngang. Trong giai đoạn này thị trường có những phiên
tăng điểm xen lẫn những phiên giảm điểm. Một số cổ phiếu doanh nghiệp có kết
Ph
òng
PT&DBTT
-
Trung t
â
m NCKH
-
ĐTCK
(UBCKNN)
25
quả kinh doanh, thông tin hỗ trợ tốt hoặc bị "làm giá" có khả năng sẽ tăng điểm.
Nhưng việc tăng điểm kho có thể kéo dài trong nhiều phiên liên tiếp. Giai đoạn
ti
ếp theo, kéo dài tiếp đến khoảng giữa năm 2009. Khi những thông tin xấu của
th
ị trường rộ lên, thị trường co thể có qua trình điều chỉnh và sụt giảm, và hình
thành “đáy” mới trong khoảng thời gian này. Giai đoạn 6 tháng cuối năm sẽ là
giai đoạn điều chỉnh hình răng cưa, giữa những đợt tăng điểm xen lẫn đợt giảm
điểm và thị trường kết thúc năm với chỉ số cao hơn chỉ số đầu năm.
Dự báo của các tổ chức nước ngoài về kinh tế thế giới
Bất chấp những nỗ lực cùng với hàng loạt những biện pháp cải tổ thị trường tài
chính trên toàn c
ầu nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế đã được các quốc gia trên
th
ế giới liên tục đưa ra, các tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu, phân tích vẫn
đưa ra dự báo không mấy khả quan về diễn biến tình hình kinh tế thế giới trong
năm 2009.
Ngân hàng Thế giới (WB): Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới
Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới năm 2009 của Ngân hàng Thế giới dự báo
kinh t
ế thế giới sẽ chững lại với mức tăng trưởng chỉ đạt khoảng 0,9%, thấp hơn
cả so với năm 1991 và 2001 và cũng là thấp nhất kể từ khi bắt đầu thực hiện
th
ống kê vào năm 1970.
Thương mạ
i quốc tế được dự báo là sẽ giảm rất mạnh trong năm 2009 với tổng
giá tr
ị xuất khẩu của toàn thế giới sẽ giảm 2,1% - lần giảm đầu tiên kể từ năm
1982 và là lần sụt giảm mạnh nhất kể từ năm 1975. Do các nước phát triển chủ
yếu đưa ra các chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư cùng với việc chi tiêu cho tiêu
dùng c
ủa người dân ở các nước này bị thu hẹp lại nên nhu cầu về hàng hóa nhập
kh
ẩu từ các nước đang phát triển sẽ giảm đáng kể.
Các nước đang phát triển và các nước kém phát triển ít tham gia vào thị trường
tài chính qu
ốc tế nên sẽ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính sẽ gián tiếp
thông qua s
ự sụt giảm nhu cầu hàng xuất khẩu, giá hàng hóa và các nguồn kiều
h
ối.
World Bank d
ự báo hầu hết các nước phát triển đều có mức tăng trưởng âm
như: Mỹ (-0,5%), EU (-0,6%), các nước thuộc khối OECD (-0,3%), Nhật Bản (-
0,1%). Trong khi đó, hầu hết các nước đang phát triển ở khu vực Châu Á và
Châu M
ỹ đều được dự báo là có sự tăng trưởng mặc dù tốc độ tăng trưởng sẽ
giảm đáng kể so với năm 2008. Tốc độ tăng trưởng cao nhất được dự báo cho
khu v
ực Đông Á, Nam Á và các nước khu vực Thái Bình Dương, điển hình là
Trung Qu
ốc, Ấn Độ.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Báo cáo toàn cảnh kinh tế thế giới
Bên cạnh Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế cũng đã đưa ra những dự báo
c
ủa mình về tình hình kinh tế thế giới trong năm 2009. Dưới tình hình ngày
càng
ảm đạm của thị trường tài chính quốc tế, IMF đã liên tục hạ thấp dự báo