Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Phân tích thực trạng hoạt động của dịch vụ y tế ở ĐBSCL năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.96 KB, 22 trang )

1


TRƯNG ĐI HC CN THƠ
VIN NGHIÊN CU PHT TRIN ĐBSCL




Chuyên đề

PHÂN TÍCH THỰC TRNG HOT ĐỘNG
CỦA DỊCH VỤ Y TẾ Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG NĂM 2012

GIẢNG VIÊN NHÓM 3
Lê Cảnh Dũng Dương Bé Thạnh
Hồ Vũ Linh Đan
Trần Thị Thơm
Nguyễn Thị Như
Nguyễn Thị Ngọc Mai


CN THƠ –2013
i

DANH SCH BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 1. Số bệnh viện và giường bệnh từ Huyện, Tỉnh đến Bộ ngành, Trung
ương ở Việt Nam năm 2010


2
Bảng 2. Số cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế từ năm 2009 đến 2012
3
Bảng 3. Một số chỉ tiêu về mạng lưới y tế cơ sở đạt được trong năm 2010
9

DANH SÁCH HÌNH

Tên hình
Trang
Hình 1. Tổng số cơ sở khám chữa bệnh ở các tỉnh ĐBSCL năm 2012
3
Hình 2. Số giường bệnh phục vụ/1000 dân ở các tỉnh ĐBSCL năm 2012
4
Hình 3. Tỷ lệ giường bệnh phục vụ ở từng cơ sở
5
Hình 4. Số cán bộ trên 1000 dân ở các tỉnh ĐBSCL
6
Hình 5. Số cán bộ ngành Y, Bác, Dược sĩ trên 10000 dân ở các tỉnh ĐBSCL
7

ii

MỤC LỤC

DANH SCH BẢNG i
DANH SÁCH HÌNH i
MỤC LỤC ii
CHƯƠNG 1 GIỚI THIU 1
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG 2

2.1. Thực trạng hệ thống cơ sở y tế 2
2.1.1. Các cơ sở khám chữa bệnh 2
2.1.2. Giường bệnh 4
2.1.3. Nguồn nhân lực y tế 5
2.1.4. Trang thiết bị kỹ thuật và quản lý 7
2.1.5. Mạng lưới y tế cơ sở 8
2.1.6. Thuốc và vắc xin 9
2.2. Những thành tựu đạt được và thuận lợi trong phát triển hệ thống y tế 10
2.2.1 Những thành tựu đạt được 10
2.2.2 Những thuận lợi 11
2.3. Những tồn tại và thách thức trong hệ thống y tế 11
CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN 14
CHƯƠNG 4 CC GIẢI PHP PHT TRIN DỊCH VỤ Y TẾ 16
4.1. Về tài chính và đầu tư 16
4.2. Đảm bảo nguồn nhân lực y tế 16
4.3. Phát triển khoa học, công nghệ 17
4.4. Đảm bảo cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế 17
4.5. Tăng cường hợp tác quốc tế 18
4.6. Tăng cường năng lực quản lý y tế 18
4.7. Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ 18
TÀI LIU THAM KHẢO 19

1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIU

Việt Nam là một nước đang phát triển nên nguồn lực đầu tư và cơ sở hạ tầng còn hạn
chế. Nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân ngày một gia tăng, trình độ dân trí ngày
càng được cải thiện, mô hình bệnh tật thay đổi theo hướng gia tăng các bệnh không lây

nhiễm, chấn thương, tai nạn. Thực tế như vậy càng đòi hỏi các bệnh viện, các cơ sở
khám chữa bệnh phải nâng cao chất lượng về chuyên môn và dịch vụ.
Trong những năm qua, ngành y tế đã có nhiều biện pháp nhằm cải thiện chất lượng
khám, chữa bệnh, trong đó tập trung đầu tư nguồn lực tài chính, phát triển nhân lực y
tế, chuẩn hóa các hướng dẫn chuyên môn như hướng dẫn chẩn đoán và điều trị, hướng
dẫn quy trình kỹ thuật, hướng dẫn quy trình chăm sóc, xây dựng chuẩn quốc gia về y
tế xã, tiêu chí nông thôn mới, chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản, thiết lập hệ thống kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm y học cấp quốc gia, thành lập
trung tâm kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm và các văn bản hướng dẫn.
Việc áp dụng các phương pháp và mô hình chất lượng trong bệnh viện đang được
nhiều bệnh viện quan tâm. Đã có một số bệnh viện đi tiên phong trong việc áp dụng
các phương pháp và mô hình quản lý chất lượng, mang lại hiệu quả thiết thực, góp
phần hội nhập quốc tế và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế, thời gian vừa qua, Bộ Y tế
Việt Nam đã nhận được sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ cả về kỹ thuật và tài chính của
nhiều tổ chức, đối tác y tế trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Từ năm
2006-2007 Tổ chức Y tế Thế giới đã hỗ trợ đào tạo về quản lý chất lượng cho Việt
Nam và nhiều hoạt động khác.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế là sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa các
nhóm dân cư. Khoảng cách thu nhập này đã tạo nên sự phân hóa xã hội hết sức sâu sắc
giữa các nhóm xã hội dẫn tới sự khác nhau về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội trong
đó có sự tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe giữa các giai cấp xã hội, giữa
đàn ông và phụ nữ, giữa người trẻ và người già, người giàu và người nghèo, giữa
người sống ở thành thị và người sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa,… vẫn còn tồn
tại.
Nội dung sau đây sẽ giới thiệu sơ lược về hệ thống cơ sở y tế; thực trạng dịch vụ y tế
ở ĐBSCL trong những năm qua; những tồn tại và thách thức trong hệ thống y tế; giải
pháp để phát triển dịch vụ y tế .
2


CHƯƠNG 2
NỘI DUNG

2.1. Thực trạng hệ thống cơ sở y tế
Theo báo cáo của Bộ Y tế (2013) thì cơ cấu tổ chức bộ máy hệ thống y tế hiện nay
từng bước được hoàn thiện và dần ổn định ở cả Trung ương và địa phương. Sau một
thời gian mạng lưới y tế huyện bị phân chia thành 3 đơn vị, nay tổ chức tuyến cơ sở đã
được điều chỉnh và dần ổn định. Trung tâm y tế được thành lập thống nhất trên địa bàn
cấp huyện thực hiện hai chức năng y tế dự phòng, khám chữa bệnh và quản lý các trạm
y tế xã/ phường; nơi có điều kiện tách riêng bệnh viện và trung tâm y tế chỉ thực hiện
chức năng y tế dự phòng và quản lý các trạm y tế xã/phường. Việc triển khai thực hiện
nghị định số 43/2005/NĐ – CP về cơ chế tự chủ dù còn một số hạn chế cần khắc phục
nhưng đã tạo điều kiện để phát triển và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ sở y
tế công lập.
2.1.1. Các cơ sở khám chữa bệnh
Theo số liệu thống kê đến năm 2010, toàn quốc có 13.598 cơ sở với 252.747 giường
bệnh. Có 1.071 bệnh viện từ Huyện, Tỉnh đến Bộ ngành, Trung ương, cụ thể: tuyến
Trung ương có 44 bệnh viện với 20.610 giường bệnh; tuyến Tỉnh có 376 bệnh viện với
105.803 giường; tuyến Huyện có 615 bệnh viện với 55.190 giường bệnh; các cơ sở
thuộc Bộ, ngành khác có 36 bệnh viện và bệnh viện phục hồi chức năng (không kể Bộ
Quốc phòng và Bộ Công an) với 9.415 giường bệnh.
Bảng 1. Số bệnh viện và giường bệnh từ Huyện, Tỉnh đến Bộ ngành, Trung ương
ở Việt Nam năm 2010

Số bệnh viện
Số giường bệnh
Trung ương
44
20.610
Bộ, ngành

36
9.415
Tỉnh
376
105.803
Huyện
615
55.190
TỔNG
1.071
141.347
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011)
Từ năm 2009 đến năm 2012, tổng số cơ sở khám chữa bệnh (trực thuộc Sở Y tế) ở
ĐBSCL chỉ tăng thêm 06 cơ sở. Số liệu được trình bày cụ thể ở Bảng 2. Năm 2009 có
3

155 bệnh viện, năm 2010 giảm 01 và số lượng này là 157 không đổi trong 02 năm
2011 và 2012. Phòng khám khu vực giảm nhanh về số lượng từ 113 (năm 2009) xuống
còn 92 (năm 2010), số lượng đã tăng dần qua các năm sau đó (102 phòng năm 2012).
Trong khi đó, số lượng bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng hầu như không
biến động qua các năm. Trong cơ cấu cơ sở khám chữa bệnh, số trạm y tế xã, phường,
cơ quan, xí nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên xét về số lượng, từ năm 2009 đến
năm 2012, số lượng chỉ tăng 14 trạm, bình quân tăng 4,67 trạm/năm. Nhìn chung, số
lượng cơ sở có tăng lên (ngoại trừ phòng khám khu vực) nhưng vẫn không đủ đáp ứng
nhu cầu y tế, đặt biệt là vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Bảng 2. Số cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế từ năm 2009 đến 2012

2009
2010
2011

2012
Bệnh viện
155
154
157
157
Phòng Khám Khu vực
113
92
94
102
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
2
2
2
3
Trạm Y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp
1.559
1.562
1.570
1.573
TỔNG
1.829
1.810
1.823
1.835
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
Năm 2012, tổng số cơ sở khám chữa bệnh ở các tỉnh ĐBSCL là 1.837 cơ sở. Trong đó,
Long An là tỉnh có số lượng nhiều nhất với 211 cơ sở (chiếm 11,5%). Các tỉnh có số
lượng cơ sở khám chữa bệnh cao Tiền Giang (193 cơ sở), Bến Tre (185 cơ sở), Đồng

Tháp (169 cơ sở), An Giang (182 cơ sở), Kiên Giang (158 cơ sở). Số liệu cụ thể được
trình bày ở Hình 1. Số liệu cho thấy số lượng cơ sở khám chữa bệnh ở các tỉnh chênh
lệch khá lớn (138 cơ sở). Ở một số tỉnh, việc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của
người dân gặp nhiều khó khăn do hạn chế về số cơ sở khám chữa bệnh hiện có.

Hình 1. Tổng số cơ sở khám chữa bệnh ở các tỉnh ĐBSCL năm 2012
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
4

2.1.2. Giường bệnh
Năm 2012, thống kê dân số của ĐBSCL là 17390,5 nghìn người. Với 30.785 giường
bệnh, tỷ lệ giường bệnh trên 1000 dân là 1,77 (tức là với mỗi 1000 dân thì chỉ có thể
cung ứng 1,77 giường bệnh phục vụ). Có thể thấy, với nhu cầu ngày càng cao về chất
lượng dịch vụ y tế cũng như diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh thời gian qua,
số lượng giường bệnh như trên là rất hạn chế và không đủ để đáp ứng. Số liệu cụ thể
cho từng địa phương ở khu vực ĐBSCL được trình bày ở Hình 2. Theo đó, các tỉnh có
tỷ lệ giường bệnh trên 1000 dân cao như Bến Tre, Đồng Tháp, Hậu Giang (khoảng 03
giường bệnh/1000 dân). Các tỉnh còn lại nhìn chung đạt tỷ lệ trên 02 giường
bệnh/1000 dân, ngoài trừ Tiền Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ. Mật độ dân số cao là
một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu giường bệnh phục vụ như hiện
nay.

Hình 2. Số giường bệnh phục vụ/1000 dân ở các tỉnh ĐBSCL năm 2012
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
Hình 3 thể hiện tỷ lệ giường bệnh phục vụ ở từng cơ sở của các tỉnh ĐBSCL. Theo đó,
bệnh viện là nơi chiếm tỷ lệ cao nhất (74,93%), cung ứng ¾ số giường bệnh phục vụ,
đối với các bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng thì tỷ lệ này chỉ là 0,56%.
Còn lại, 20,54% giường bệnh phục vụ thuộc các trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí
nghiệp, và 3,97% giường thuộc các phòng khám khu vực. Có thể thấy, hầu hết các ca
bệnh điều trị nội trú đều ở bệnh viện, trong khi đó ở bệnh viện điều dưỡng và phục hồi

chức năng lại quá ít dẫn đến tình trạng quá tải thường xuyên diễn ra.
5


Hình 3. Tỷ lệ giường bệnh phục vụ ở từng cơ sở
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
2.1.3. Nguồn nhân lực y tế
2.1.3.1. Mạng lưới đào tạo cán bộ y tế
Mạng lưới các trường đào tạo nhân lực y tế đã được mở rộng. Hiện nay, 60/63 tỉnh
thành có cơ sở đào tạo từ bậc Trung học y tế trở lên, cụ thể: 17 cơ sở đạo tạo tiến sĩ
ngành Y dược (10 trường, 07 Viện), 14 trường Đại học Y Dược (chiếm 8% số trường
đại học trong cả nước), 33 trường Cao đẳng y tế (chiếm 14% các trường cao đẳng
trong cả nước). Bậc đào tạo trung cấp y tế có 42 trường.
Nhìn chung, chất lượng nhân lực y tế đã tăng lên. Nhiều cán bộ y tế đã được đào tạo
nâng cao trình độ ở bậc sau đại học như Bác sỹ nội trú, chuyên khoa 1, chuyên khoa 2,
thạc sỹ và tiến sỹ. Đội ngũ khoa học kỹ thuật được tăng cường, thực hiện được nhiều
kỹ thuật hiện đại… Ngành y tế phối hợp với với ngành giáo dục và đào tạo đã cải tiến
chương trình đào tạo, mở thêm nhiều mã ngành mới, ở cả trình độ đại học, cao đẳng và
trung cấp; tăng cường đào tạo sau đại học.
Tuy nhiên vấn đề nguồn nhân lực y tế cũng gặp phải những khó khăn và hạn chế sau:
 Có sự mất cân đối về cơ cấu và phân bổ nhân lực y tế, thiếu nhân lực y tế ở một
số chuyên ngành (như y tế dự phòng, giải phẫu bệnh, tâm thần, lao…) và vùng
nông thôn, vùng khó khăn. Nhân lực y tế có trình độ cao chủ yếu tập trung ở
khu vực thành thị và các trung tâm lớn. Tình trạng dịch chuyển nhân lực y tế từ
tuyến dưới lên tuyến trên, về các thành phố lớn, các bệnh viện tuyến trên là báo
6

động, ảnh hưởng đến việc đảm bảo số lượng nhân lực y tế cần thiết ở nông thôn
và cơ sở.
 Nhu cầu nhân lực y tế hiện nay chưa đáp ứng đủ về số lượng cũng như về chất

lượng. Việc phân bổ nhân lực không đồng đều giữa các tỉnh. Những vùng kinh
tế kém phát triển hơn, những vùng nông thôn thường thiếu cán bộ y tế hơn các
vùng khác, chất lượng nhân lực ở các tỉnh này cũng không bằng các tỉnh kinh tế
phát triển hơn, trong khi nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở đây cao hơn.
 Tình trạng thiếu nhân lực làm việc ở các chuyên ngành y học dự phòng, cận
lâm sàng, nhi, lao, phong, tâm thần là hiện hữu và có nguy cơ gia tăng, nếu
không có chính sách thích hợp trong đào tạo, tuyển dụng và đãi ngộ.
2.1.3.2. Số lượng cán bộ y tế
Theo thống kê y tế năm 2010, tổng số cán bộ y tế ở khu vực ĐBSCL là 344.876 người,
trong đó bác sỹ (kể cả Ths, TS.) là 62.555 người, dược sỹ (kể cả Ths, TS) là 7.876
người, số còn lại là y sỹ, dược sỹ trung cấp, y tá, dược tá, lương y, xét nghiệm viên, kỹ
thuật viên y, kỹ thuật viên dược. Các thành phố lớn, những nơi có điều kiện y tế được
quan tâm đầu tư sẽ thu hút được lực lượng lớn cán bộ phục vụ. Thành phố Cần Thơ là
ví dụ điển hình, nếu xét về số giường bệnh trên 1000 dân thì đây là địa phương có tỷ lệ
thấp nhất, nhưng nếu xét về số lượng cán bộ trên 1000 dân thì đây là nơi có tỷ lệ cao
nhất và khá cách biệt với các địa phương còn lại. Cụ thể, tỷ lệ này ở Cần Thơ là 5,0
(tức là 05 cán bộ phục vụ cho 1000 dân), Bến Tre là 4,4, Vĩnh Long là 4,3, khá chênh
lệch so với các địa phương như Tiền Giang, Sóc Trăng, Cà Mau chỉ với tỷ lệ là 2,3. Số
liệu từng tỉnh được trình bày cụ thể ở Hình 4.

Hình 4. Số cán bộ trên 1000 dân ở các tỉnh ĐBSCL
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
7

Sự chênh lệch cũng như xếp hạng các địa phương về tỷ lệ Y, Bác, Dược sĩ trên 10.000
dân cũng tương tự với tỷ lệ cán bộ trên 1000 dân. Về Y, Bác sĩ/10000 dân, 02 tỉnh có
tỷ lệ cao nhất là Bến Tre và Cần Thơ với số liệu lần lượt là 31,8 và 31,4, thấp nhất là
Sóc Trăng (19,8 Y, Bác sĩ/10000 dân) và Cà Mau (19,6 Y, Bác sĩ /10000 dân). Còn về
tỷ lệ Dược sĩ/10000 dân, Cần Thơ cũng là địa phương có tỷ lệ cao nhất với tỷ lệ là
18,4, Tiền Giang và Sóc Trăng là 02 tỉnh có tỷ lệ thấp (xem Hình 5).


Hình 5. Số cán bộ ngành Y, Bác, Dược sĩ trên 10000 dân ở các tỉnh ĐBSCL
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2013)
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có tỷ lệ cán bộ y tế/10.000 dân khá thấp.
Việc phân bổ nhân viên y tế không đồng đều giữa các vùng miền; Khu vực đồng bằng
sông Cửu Long có số nhân viên y tế thấp nhất, với hơn 50.000 cán bộ y tế /17,5 triệu
dân (đạt tỷ lệ 23,1%). Vì vậy trong những năm tới cần ưu tiên tăng cường bổ sung
nhân viên y tế cho vùng đồng bằng Sông Cửu long.
2.1.4. Trang thiết bị kỹ thuật và quản lý
Trong những năm qua, hệ thống bệnh viện đã được củng cố, nâng cấp và đầu tư phát
triển tương đối đồng đều từ tuyến huyện, tuyến tỉnh đến Trung ương cả về cơ sở hạ
tầng và trang thiết bị kỹ thuật. Chính sách quốc gia về trang thiết bị y tế đến năm 2010
được xây dựng với sự tham gia và đóng góp của các Bộ, ngành và các đơn vị liên
quan, bao gồm các mục tiêu chủ yếu, những giải pháp tổng thể thuộc lĩnh vực quản lý,
sản xuất, kinh doanh, khai thác sử dụng, nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực chuyên ngành kỹ thuật thiết bị y tế.
Tại các bệnh viện, trang thiết bị thường do chính quyền trung ương mà đại diện là Bộ
y tế cung cấp theo các chương trình mục tiêu. Khi máy móc thiết bị hư hỏng thì bệnh
8

viện tự phải bỏ tiền để sửa chữa – nguồn kinh phí chủ yếu được ứng từ khoán chi cho
bệnh viện, và đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng
dịch vụ y tế công. Bởi lẽ, trang thiết bị y tế chi phí rất cao trong khi kinh phí phân cấp
lại quá eo hẹp. Tuy nhiên, tình hình này cũng đã được cải thiện hơn vì trong những
năm vừa qua, bệnh viện đã được trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị phục vụ chuyên
môn từ nguồn trái phiếu của Chính phủ.
Về xử lý chất thải y tế, trong những năm vừa qua các bệnh viện không những tăng về
số lượng mà còn được nâng cao cả về chất lượng phục vụ. Tuy nhiên, quá trình hoạt
động của hệ thống bệnh viện còn gặp nhiều bất cập, các bệnh viện tuyến tỉnh và Trung
ương luôn trong tình trạng quá tải, kinh phí đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng còn hạn hẹp,

hệ thống xử lý chất thải độc hại nguy hiểm chưa hoàn thiện, chưa đảm bảo theo yêu
cầu quy định của Luật môi trường nhất là hệ thống xử lý nước thải, lượng nước thải
được sinh ra ngày càng nhiều, tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số bệnh nhân, gây ra tình
trạng ô nhiễm ngày càng phức tạp.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực trang thiết bị y tế còn một số vấn đề đáng quan tâm đó là:
 Hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực trang thiết bị y tế còn hạn chế;
 Thiếu thông tin đầy đủ về trang thiết bị y tế hiện có và công suất sử dụng theo
tuyến làm cơ sở để quản lý nhà nước
 Hỗ trợ các cơ sở y tế đầu tư hiệu quả trong lĩnh vực này.
 Đánh giá công nghệ y tế nhằm lựa chọn công nghệ có chi phí thấp, hiệu quả
cao, phù hợp với nhu cầu vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
 Các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế và vật tư
tiêu hao trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới vẫn chưa đầy đủ
 Chưa có chiến lược phù hợp với năng lực và nhu cầu nội địa.
 Chất lượng của các trang thiết bị y tế sản xuất trong nước chưa ổn định độ
chính xác bền vững và tin cậy còn thấp.
2.1.5. Mạng lưới y tế cơ sở
Trong những năm qua, ngành y tế đã tập trung củng cố hệ thống y tế xã, phường và y
tế thôn bản. Đến 2010, 98,4% số xã có Trạm y tế hoạt động, 87,44% số thôn bản có
nhân viên y tế thôn bản hoạt động, có 67,8% số xã có bác sĩ, 96,2% số xã có y sĩ sản
nhi hoặc nữ hộ sinh. Số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế chiếm tỷ lệ 73,8% (xem Bảng 3).
9

Bảng 3. Một số chỉ tiêu về mạng lưới y tế cơ sở đạt được trong năm 2010
Tiêu chí
Đạt (%)
Xã có hoạt động của Trạm y tế
98,4
Nhân viên y tế thôn bản hoạt động
87,44

Số xã có bác sĩ
67,8
Số xã đạt chuẩn quốc gia y tế xã
73,8
Số xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh
96,2
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011)
Thực hiện chủ trương 100% trạm y tế xã có bác sĩ, trong những năm qua, các địa
phương tập trung đào tạo và đưa bác sĩ về tuyến xã. Tính đến 2010, bổ sung 7.244 bác
sĩ về phục vụ tuyến xã, nâng tỷ lệ xã có bác sĩ lên 67,8%. Hiện nay, Bộ Y tế đã phân
tuyến kỹ thuật cho xã nhằm thúc đẩy hoạt động của trạm y tế xã.
2.1.6. Thuốc và vắc xin
Khả năng tiếp cận thuốc ở Việt Nam tương đối tốt do có mạng lưới phân phối thuốc
rộng khắp trên toàn quốc. Đến năm 2010, hệ thống phân phối thuốc Việt Nam bao
gồm các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc và cơ sở bán lẻ thuốc, tương ứng số
lượng là 2.318 doanh nghiệp và 44.084 cơ sở. Năm 2010, giá trị thuốc sản xuất trong
nước đạt khoảng 919,04 triệu USD, đáp ứng được 48,03% nhu cầu sử dụng thuốc
trong nước. Tiền thuốc bình quân đầu người trong năm đạt 22,25 USD. Công nghiệp
bào chế dược phát triển mạnh về số lượng doanh nghiệp và mặt hàng. Đến nay, sản
xuất trong nước đã đáp ứng khoảng 50% tổng nhu cầu sử dụng thuốc của nhân dân.
Các quy định về chất lượng thuốc được rà soát và sửa đổi để dần dần đạt các tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế (Bộ Y tế, 2012).
Sử dụng thuốc (đặc biệt kháng sinh) không hợp lý đang dẫn đến kháng thuốc trong
cộng đồng, tăng tác động có hại của thuốc, cũng như tăng chi phí thiết yếu cho mua
thuốc. Tình trạng tự mua thuốc không có đơn của bác sĩ rất phổ biến do quy chế bán
thuốc theo đơn chưa được thực hiện nghiêm túc. Phác đồ điều trị chuẩn chưa được xây
dựng và cập nhật nên thiếu tiêu chuẩn để kiểm soát đơn thuốc do bác sĩ chỉ định. Thiếu
dược sĩ đại học ở tuyến huyện để tư vấn dùng thuốc an toàn hợp lý. Bác sĩ chưa có cơ
sở thống kê về tình hình kháng thuốc để làm căn cứ khi kê đơn thuốc, do xét nghiệm vi
sinh vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.

Việt Nam đã sản xuất được nhiều loại vắc-xin: lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt,
viêm não Nhật Bản, viêm gan B, sởi, tả thương hàn Với tài trợ của GAVI, Việt Nam
đang áp dụng vắc-xin phối hợp 5 trong 1 (bạch hầu- ho gà- uốn ván- viêm gan B- Hib)
10

trong giai đoạn 2010- 2015. Năm 2010, Chính phủ đã đưa vắc-xin vào danh sách các
sản phẩm sẽ được hỗ trợ đặc biệt trong chương trình quốc gia nâng cao năng suất và
chất lượng. Chương trình tiêm chủng mở rộng các vắc-xin cơ bản đã thực hiện rất
thành công, vắc-xin trong nước về cơ bản đã cung ứng đủ cho Chương trình tiêm
chủng mở rộng, tuy nhiên do kinh phí hạn hẹp nên vẫn còn một số vắc-xin mới chưa
đưa vào tiêm chủng mở rộng (Bộ Y tế, 2013).
2.2. Những thành tựu đạt được và thuận lợi trong phát triển hệ thống y tế
2.2.1 Những thành tựu đạt được
Mạng lưới Y tế được củng cố và tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Tiếp tục ổn định tổ chức và hoạt động một cách hệ thống.
Chủ động trong công tác y tế dự phòng, thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh,
đặc biệt là tập trung cao trong phòng chống bệnh sốt xuất huyết, bệnh Tay chân miệng,
Cúm A(H5N1), Cúm A(H1N1), khống chế tốt các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa,
hạn chế được số mắc các bệnh truyền nhiễm lưu hành, không để phát triển thành dịch
lớn, không để các dịch bệnh mới phát sinh. Tổ chức thực hiện tốt các chương trình
mục tiêu quốc gia thuộc lĩnh vực y tế, tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng hoạt động
y tế cơ sở.
Đạt các chỉ tiêu cơ bản về khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe sinh sản, Dân số -
KHHGĐ. Mạng lưới Y học cổ truyền tiếp tục được củng cố đáp ứng được nhu cầu
chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thực hiện tốt hoạt động khám chữa bệnh cho người
nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tiếp tục thực hiện tốt chương
trình Đem lại ánh sáng cho người mù nghèo, chương trình hiến máu tình nguyện.
Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa y tế: duy trì tốt các mô hình xã hội hóa ở địa
phương, các cơ sở y tế công lập tiếp tục được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị, nâng cao năng lực, đảm bảo tốt vai trò chủ đạo trong hệ thống y tế và hỗ trợ

chuyên môn kỹ thuật cho các cơ sở y tế ngoài công lập, các cơ sở y tế ngoài công lập
ngày càng phát triển và từng bước phát triển quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động.
Việc huy động vốn của các cơ sở y tế công lập đã và đang từng bước thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư trang thiết bị, phát triển các dịch
vụ kỹ thuật. Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp ngành y tế
ổn định và đi vào nề nếp (Sở Y tế tỉnh An Giang, 2013).
Công tác thanh kiểm tra được tăng cường, phát hiện xử lý, uốn nắn kịp thời những sai
sót yếu kém trong các lĩnh vực hoạt động của Ngành và hoạt động hành nghề Y, Dược
tư nhân.
11

2.2.2 Những thuận lợi
Đảng, Quốc hội, Chính phủ ngày càng quan tâm đến ngành Y tế, xác định rõ vai trò
quan trọng của sức khỏe trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi
đầu tư cho sức khỏe là đầu tư trực tiếp cho phát triển bền vững. Hệ thống pháp luật
liên quan đến CSSK ngày càng được hoàn thiện; nhiều Luật,Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các Bộ đã được ban
hành, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho quá trình xây dựng và phát triển hệ
thống y tế (Bộ Y tế, 2012).
Tổ chức mạng lưới y tế sau một thời gian có thay đổi, nay đã dần ổn định, là điều kiện
để phát triển trong thời gian tới. Nhận thức và sự tham gia của người dân, các cấp ủy
đảng, chính quyền vào công tác CSSK ngày càng sâu rộng; sự phối hợp liên ngành
trong CSSK có những bước chuyển biến tích cực. Năng lực quản lý của đơn vị được
tăng cường; sự nhiệt tình công tác, tận tâm với người bệnh của cán bộ y tế ngày càng
nâng cao.
2.3. Những tồn tại và thách thức trong hệ thống y tế
Theo Bộ Y tế (2013) thì Ngành Y tế ở ĐBSCL vẫn còn nhiều bất cập như sau:
Các cơ sở y tế dự phòng: Mặc dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, thay đổi mô hình
bệnh tật, bảo vệ hàng chục triệu người khỏi các bệnh dịch nguy hiểm, công tác y tế dự
phòng ở nước ta vẫn còn có nhiều khó khăn:

Về nhận thức, hiện nay y tế dự phòng chưa được quan tâm thích đáng của xã hội, đôi
khi còn được coi là lĩnh vực của riêng ngành y tế. Tổ chức y tế dự phòng tuyến
tỉnh/thành phố bị chia tách nhiều đầu mối dẫn tới thiếu nhân lực, cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đầu tư dàn trải. Nhiều chính sách, quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội chưa
chú trọng, đề cập đầy đủ những vấn đề liên quan tới công tác y tế dự phòng. Đội ngũ
cán bộ y tế dự phòng còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, số cán bộ được đào
tạo chuyên ngành y tế dự phòng còn ít. Đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng còn thấp,
trong khi nhu cầu thực tế rất cần có sự ưu tiên kinh phí cho lĩnh vực này. Trong vòng
10 năm gần đây, ngân sách cho y tế dự phòng, năm thấp nhất là 11,3%, năm cao nhất
là 25,7%.
Tình hình dịch bệnh đang diễn biến hết sức phức tạp, nhiều bệnh truyền nhiễm gây
dịch có nguy cơ bùng phát trở lại. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm
trọng. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, hiện nay chưa thực sự đi vào nề
nếp, nhất là khâu thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu, còn để xảy ra các vụ
ngộ độc thực phẩm hàng loạt. Công tác kiểm định mỹ phẩm còn nhiều bất cập.
12

Các cơ sở khám chữa bệnh: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác bảo vệ
và chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém, các bệnh
viện phân bổ còn chưa đồng đều giữa các vùng, nhất là các bệnh viện chuyên khoa. Tỷ
lệ giường bệnh trên dân số nhìn chung còn thấp, hầu hết các bệnh viện đều có công
suất sử dụng giường bệnh cao.
Phân bố giường bệnh chưa cân đối giữa các tỉnh đặc biệt tỷ trọng giường tuyến cuối
thấp, bệnh nhân dồn về các bệnh viện lớn ở thành phố và các bệnh viện Trung ương,
dẫn đến hiện tượng quá tải ở các bệnh viện tuyến cuối. Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ
thuật của các bệnh viện đã và đang được cải thiện, nhưng còn nhiều bất cập, chưa đảm
bảo điều kiện vệ sinh môi trường, xử lý chất thải y tế. Cơ sở nhà cửa của nhiều bệnh
viện đã quá xuống cấp, hết thời hạn sử dụng nhiều năm. Về kỹ thuật, các bệnh viện đã
giải quyết cơ bản việc khám chữa bệnh và đã từng bước phát triển chuyên sâu, nhưng
còn chưa toàn diện, chưa đồng đều giữa các chuyên khoa, chuyên ngành, chưa cân đối

giữa các vùng, chưa có nhiều bệnh viện hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực.
Nhìn chung mạng lưới bệnh viện đang đứng trước thách thức về yêu cầu phục vụ ngày
càng tăng, đòi hỏi chất lượng ngày càng cao của người dân, nhưng điều kiện phục vụ
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhiều so với nhu cầu. Cơ chế tài chính và quản
lý bệnh viện còn những vấn đề đáng quan tâm.
Nhân lực y tế: Nguồn nhân lực ngành y tế còn thiếu, mất cân đối về cơ cấu, phân bổ
không đồng đều, một số tỉnh ĐBSCL thiếu cán bộ kỹ thuật chuyên môn giỏi. Nguồn
đào tạo bổ sung thay thế còn chưa đáp ứng nhu cầu. Tuy số cán bộ y tế tăng hàng năm
là khá rõ ràng, nhưng khi so với mức tăng dân số vẫn không theo kịp.
Chất lượng nhân lực y tế còn hạn chế, không tương xứng với nhu cầu nhân lực trình độ
cao để làm chủ các kỹ thuật mới. Năng lực thực hành của sinh viên sau khi ra trường
khá hạn chế do quá trình học không được thực hành nhiều như trước đây, cho dù thầy
giỏi hơn, máy móc thiết bị phục vụ học tập hiện đại hơn cùng với mức sống của sinh
viên khá hơn trước.
Thông tin y tế: Hệ thống thông tin y tế chưa được quan tâm đúng mức, số liệu thống
kê còn chậm chưa cập nhật thường xuyên, chất lượng thông tin chưa tốt, khả năng tổng
hợp, phân tích và sử dụng số liệu thống kê trong lập kế hoạch, phân tích chính sách,
theo dõi và đánh giá còn yếu. Một số chỉ số để theo dõi các mục tiêu thiên niên kỷ liên
quan đến y tế, giới, còn thiếu hoặc thiếu tính so sánh quốc tế. Đối với hệ thống y tế tư
nhân, y tế các Bộ, ngành chưa cặp nhật dẫn đến tình trạng thiếu số liệu phân tích đánh
giá.
13

Thuốc, vắc xin, sinh phẩm: Đội ngũ cán bộ dược vẫn còn rất thiếu và yếu cả trong
lĩnh vực quản lý cũng như hoạt động chuyên môn, đặc biệt ở các xã, huyện kém phát
triển. Hiện nay tính chung trên phạm vi cả nước không chỉ thiếu cán bộ dược trình độ
cao mà còn thiếu cả dược tá ở các trạm y tế. Trong khi đó vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực cho công tác dược còn gặp nhiều khó khăn, cơ chế điều động và sử dụng cán bộ
chưa phù hợp, chưa có chính sách thu hút cán bộ dược vào làm việc trong các cơ quan
nhà nước.

Trang thiết bị y tế: Đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên trách công tác bảo dưỡng và sửa
chữa trang thiết bị y tế còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Ngành sản xuất
trang thiết bị vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phụ tùng thay thế. Ngân sách nhà nước
hiện nay dành cho bảo dưỡng, sửa chữa còn thấp so với nhu cầu. Gánh nặng chi phí
bảo dưỡng sẽ tăng lên nhanh với việc thực hiện các đề án xây dựng và trang bị cho các
bệnh viện chuyên sâu, bệnh viện tỉnh và bệnh viện huyện trong những năm sắp tới.
Hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực trang thiết bị y tế còn hạn chế. Công suất sử dụng trang
thiết bị y tế chưa cao, một phần vì dân không có khả năng chi trả sử dụng dịch vụ, một
phần vì đầu tư vượt quá nhu cầu hoặc chưa đồng bộ, tổ chức sử dụng chưa hiệu quả và
một phần vì trang thiết bị hư hỏng, thiếu kinh phí và cán bộ kỹ thuật.
Tài chính y tế: Mặc dù tỷ lệ chi tiêu công cho y tế trong thời gian gần đây đã tăng lên,
nhưng vẫn thấp so với nhu cầu. Ngân sách nhà nước đầu tư cho y tế chưa đáp ứng
được các yêu cầu đầu tư phát triển ngành y tế. Tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình vẫn cao.
Chi từ quỹ bảo hiểm y tế cho y tế rất thấp, mới chiếm tỷ lệ 17,6% tổng chi y tế năm
2008. Cơ chế phân bổ Ngân sách nhà nước cho các cơ sở y tế chưa tạo động cơ dể tăng
tính hiệu quả. Chi đầu tư còn thấp, khó cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, ứng dụng
khoa học kỹ thuật, chất lượng dịch vụ tại các cơ sở y tế công lập. Ở các bệnh viện,
phương thức chi trả “phí theo dịch vụ” đang bộc lộ nhiều bất cập, tạo điều kiện cho xu
hướng lạm dụng xét nghiệm, thuốc từ phía cơ sở cung ứng dịch vụ. Bộ Y tế và Cơ
quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có nhiều nỗ lực thử nghiệm và xây dựng phương
thức chi trả mới, như thanh toán định suất, chi trả theo trường hợp bệnh.
Chính sách chế độ đối với cán bộ y tế: Tuy đã được Đảng, Nhà nước quan tâm trong
những năm gần đây, tuy nhiên vẫn chưa được cải thiện, nhiều chính sách, chế độ đối
với cán bộ, nhất là cán bộ y tế cơ sở chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nhiều địa
phương còn nợ đọng tiền trực, phụ cấp độc hại. Nhiều nơi chưa thực hiện việc trả phụ
cấp cho nhân viên y tế xã, địa phương nên các hoạt động y tế tại cộng đồng kém hiệu
quả. Chế độ lương còn bất hợp lý đối với cán bộ y tế.
14

CHƯƠNG 3

KẾT LUẬN

Từ năm 2009 đến 2012 đã có sự tăng lên về số cơ sở khám chữa bệnh như bệnh viện,
bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, trạm Y tế ở các xã phường, cơ quan, xí
nghiệp ở ĐBSCL; ngoại trừ các Phòng Khám Khu vực đang giảm xuống về số lượng.
Tuy có sự tăng lên nhưng các cơ sở khám chữa bệnh ở các tỉnh ĐBSCL không đồng
điều, những nơi tập trung nhu cầu cở người dân cao thì số lượng cơ sở khám chữa
bệnh lại rất thấp điển hình là Cần Thơ (102 cơ sở khám chữa bệnh) và Hậu Giang (92
cơ sở khám chữa bệnh). Gây ra hiện tượng quá tải ở các bệnh viện nơi đây.
Số lượng giường bệnh phục vụ trong năm 2012 ở các tỉnh ĐBSCL chênh lệch nhau
khá cao cao nhất là 5054 giường bênh, thấp nhất là 1934 giường bệnh. Một điểm đáng
nói là các tỉnh như Long An, Tiền Giang, Bến Tre, có số lượng cơ sở khám chữa
bệnh rất nhiều nhưng số giường bệnh phục vụ rất ít do người dân ở các tỉnh này
thường khám chữa bệnh ở TP. Hồ Chí Minh. Điều này gây ra việc thừa giường bệnh
không đáng có. Bênh cạnh đó việc bệnh viên nhận 74,9% số giường bệnh phục vụ,
bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng thì chỉ nhận 0,6% số giường bệnh để
phục vụ.
Mạng lưới đào tạo cán bộ y tế từng bước được mở rộng, chất lượng nguồn nhân lực
cũng được nâng cao nhờ có sự phối hợp giữa ngành y tế và ngành giáo dục trong đào
tạo. Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực y tế cũng gặp phải những khó khăn như: mất
cân đối về cơ cấu và phân bổ nhân lực, chưa đáp ứng đủ số lượng, chất lượng, thiếu
nhân lực ở ngành y dự phòng.
Tổng số cán bộ ngành y, dược năm 2012 của ĐBSCL là 53.896 so với các vùng miền
khác thì ĐBSCL có tỷ lệ cán bộ y tế/10.000 dân khá thấp. Có sự tăng trưởng về số
lượng cán bộ ngành Y và Dược từ năm 2009 đến năm 2012. Có sự chênh lệch rất lớn
trong phân bố cán bộ ngành Y, Dược ở các tỉnh ĐBSCL, Cần Thơ có 6.037 cán bộ,
thấp nhất là Hậu Giang với 2.513 cán bộ.
Trang thiết bị kỹ thuật ở bệnh viện những năm qua đã được cũng cố, nâng cấp và đầu
tư phát triển tương đối. Nhưng vẫn nhận thụ động từ phía bộ và nguồn trái phiếu chính
phủ. Hệ thống xử lý chất thải y tế ở các bệnh viện tuy phát triển về số lượng nhưng

vẫn chưa hoàn thiện và đảm bảo yêu cầu. Nhìn chung vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan
tâm và cần được đầu tư hơn nữa.
15

Mạng lưới y tế cơ sở đã bắt đầu tập trung vào cũng cố hệ thống y tế xã, phường và
điều đạt tiêu chí của Bộ ở mức khá cao. Đối với thuốc thì cả nước có mạng lưới phân
phối thuốc rộng khắp đáp ứng được nhu cầu thuốc ở các cơ sở khám chữa bệnh và
người dân. Nước ta đã sản xuất ra được nhiều loại Vắc – xin là một thành công nữa
trong lĩnh vực y tế giúp đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Tuy nhiên
việc sử dụng thuốc không hợp lý gây kháng thuốc trong cộng đồng vẫn diễn ra.
Hệ thống y tế ở ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu và có nhiều thuận lợi do nhận
được sự hỗ trợ quan tâm từ phía chính phủ và nhận thức của người dân ngày càng tăng
cao. Tuy nhiên, cũng có những tồn tại và khó khăn đối với: các cơ sở y tế dự phòng,
các cơ sở khám chữa bệnh, nguồn nhân lực y tế, thông tin y tế, thuốc, vắn xin, cinh
phẩm, trang thiết bị y tế, tài chính y tế và chính sách chế độ đối với cán bộ y tế.
16

CHƯƠNG 4
CC GIẢI PHP PHT TRIN DỊCH VỤ Y TẾ

4.1. Về tài chính và đầu tư
Đa dạng hoá nguồn lực để thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống y tế bao gồm:
Nguồn vốn đầu tư phát triển tập trung; nguồn vốn chi thường xuyên sự nghiệp y tế;
nguồn vốn ODA; nguồn trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương;
nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; quỹ phát triển sự nghiệp của
các đơn vị sự nghiệp y tế; các nguồn vốn hợp pháp khác.
Ngân sách nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư cho ngành y tế; nâng cấp bệnh viện. Huy
động và sử dụng nguồn vốn ODA để cho vay lại đối với các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có khả năng hoàn trả vốn đầu tư. Thực hiện ngân sách nhà nước cấp phát để đầu
tư xây mới, mua sắm trang thiết bị y tế. Đẩy mạnh triển khai thực hiện các chính sách

khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển dịch vụ y tế
dưới sự giám sát của nhà nước.
Các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị sự nghiệp y tế có trách nhiệm đảm bảo cân
đối, bố trí kinh phí duy trì hoạt động thường xuyên, kinh phí duy tu, bảo dưỡng cơ sở
hạ tầng, trang thiết bị cho các cơ sở y tế trực thuộc. Bảo đảm cho các đối tượng chính
sách xã hội và người nghèo được tiếp cận và hưởng các dịch vụ y tế cơ bản thiết yếu
với chất lượng cao hơn.
4.2. Đảm bảo nguồn nhân lực y tế
Phát triển nguồn nhân lực y tế với chất lượng ngày càng cao, ưu tiên nguồn nhân lực
cho hệ thống y tế dự phòng, đào tạo cán bộ chuyên khoa. Đầu tư nâng cấp các cơ sở
đào tạo, thực hành của các trường y dược, nâng cấp thư viện điện tử, ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác quản lý đào tạo giảng dạy. Huy động nguồn lực xã hội để
đa dạng hoá các loại hình đào tạo và mở rộng quy mô đào tạo nhân lực y tế. Nâng cao
năng lực chuyên môn, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh chuyên khoa cho nhân dân và
hỗ trợ giảm tải các bệnh viện của Trung ương.
Xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý để huy động cán bộ y tế làm việc ở các tuyến
huyện, xã và các vùng khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ y tế, từng
bước hiện đại hoá kỹ thuật y tế như chẩn đoán hình ảnh, chẩn đoán hoá sinh, lý sinh,
17

miễn dịch, di truyền, sinh học phân tử, công nghệ gen… Đào tạo ngắn hạn, trung hạn
về công tác quản lý cho cán bộ y tế, đặc biệt là quản lý bệnh viện và coi đây là một
tiêu chí để xem xét bố trí cán bộ quản lý trong ngành y tế.
4.3. Phát triển khoa học, công nghệ
Chú trọng phát triển nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới nhằm
giải quyết được hầu hết các bệnh, tật đòi hỏi phải có kỹ thuật cao trong chẩn đoán và
điều trị.
Xây dựng một số cơ sở kiểm chuẩn về trang thiết bị y tế tại một số vùng trọng điểm,
đồng thời tổ chức đánh giá công nghệ y tế để xác định các can thiệp y tế có hiệu lực,

hiệu quả, chi phí thấp.
Đầu tư, phát triển công nghệ sinh học, công nghệ nhân giống và nuôi cấy phục vụ cho
sản xuất thuốc, vắc xin, chế phẩm sinh học cho chẩn đoán và điều trị.
Tích cực và chủ động tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế trong khu vực và thế
giới để tiếp cận cơ sở pháp lý chung.
Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và trong hoạt động
lĩnh vực y dược.
4.4. Đảm bảo cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế
Tăng cường phát triển công nghiệp dược trong nước. Nâng cao năng lực sản xuất vắc-
xin, sinh phẩm y tế trong nước, ưu tiên các dạng bào chế công nghệ cao; phát triển các
vùng dược liệu, các cơ sở sản xuất nguyên liệu hóa dược để chủ động các nguồn
nguyên liệu sản xuất thuốc.
Triển khai các giải pháp quản lý chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý,
khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước.
Tăng cường công tác quản lý giá thuốc. Cải cách có hiệu quả mạng lưới ung ứng
thuốc; quy hoạch lại mạng lưới phân phối, bán buôn, bán lẻ trong cả nước.
Đẩy mạnh sản xuất trang thiết bị y tế trong nước, trước mắt là các trang thiết bị y tế
thông dụng, đồng thời từng bước tăng cường liên doanh, liên kết sản xuất trang thiết bị
y tế công nghệ cao.
Tăng cường công tác quản lý, khai thác sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng và sửa chữa
trang thiết bị y tế.
Đầu tư mở rộng, phát triển cơ sở hạ tầng y tế phù hợp với quy hoạch mạng lưới khám
chữa bệnh và các tiêu chuẩn xây dựng.
18

Kiện toàn mạng lưới sản xuất, lưu thông, phân phối và cung ứng thuốc, truyền máu.
4.5. Tăng cường hợp tác quốc tế
Tiếp tục tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nhà tài trợ, các đối tác
nước ngoài, các trung tâm khoa học quốc tế lớn nhằm tranh thủ tối đa các nguồn viện
trợ về vật chất và khoa học kỹ thuật.

Tăng cường công tác hội nhập quốc tế theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá thông
qua việc mở rộng các hợp tác đa phương;
Hoàn thiện các dự án xây dựng các Trung tâm y tế chuyên sâu, y tế vùng, y tế tỉnh và
huyện, kêu gọi các nhà đầu tư, hảo tâm, các tổ chức quốc tế và cá nhân.
4.6. Tăng cường năng lực quản lý y tế
Từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật y tế, hệ thống quy chuẩn, tiêu
chuẩn chuyên môn và danh mục tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các
lĩnh vực chuyên ngành y tế.
Cải thiện năng lực và chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch y tế các tuyến. Xây
dựng và triển khai thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân.
Thiết lập hệ thống chi tiêu và thường xuyên theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả
hoạt động lập và thực hiện kế hoạch.
Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước và pháp luật cho cán bộ trong
ngành y tế, thực hiện tốt quy chế dân chủ tại tất cả các cơ sở y tế.
Xây dựng và kiện toàn hệ thống Thanh tra y tế, đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng,
đủ năng lực để thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định.
4.7. Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ
Phát triển các mô hình truyền thông hiệu quả tại cộng đồng; mở rộng và đa dạng hóa
các hoạt động truyền thông.
Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức cho nhân dân về lối sống, hành vi ảnh
hưởng đến sức khỏe.
Xây dựng chương trình truyền thông có hiệu quả và phù hợp với nhóm đối tượng theo
vùng miền, địa phương, đáp ứng các yếu tố về văn hóa, giới, lứa tuổi và dân tộc.
19

TÀI LIU THAM KHẢO
Bộ Y tế, 2013. Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2012, nhiệm vụ và các giải pháp
thực hiện trong năm 2013.
Bộ Y tế, 2012. Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2012, nâng cao chất lượng

dịch vụ khám, chữa bệnh.
Sở Y tế tỉnh An Giang, 2013. Báo cáo tổng kết công tác Y tế năm 2012 tỉnh An Giang.
Sở Y tế tỉnh An Giang. Truy cập ngày 14/11/2013. Tại Website:

Sở Y tế Cần Thơ, 2013. Báo cáo tổng kết công tác Y tế năm 2012. Sở Y tế Cần Thơ.
Truy cập ngày 14/11/2013. Tại Website:
Tổng cục thống kê, 2013. Thông tin thống kê Giáo dục, Y tế, Văn hóa và đời sống.
Tổng cục thống kê Truy cập ngày 14/11/2013. Tại Website:

Tổng cục thống kê, 2011. Thông tin thống kê Giáo dục, Y tế, Văn hóa và đời sống.
Tổng cục thống kê Truy cập ngày 14/11/2013. Tại Website:


×