Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

quản trị kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.21 KB, 7 trang )

/>ay_tieu_thu_san_pham_cua_doanh_nghiep_Viet_Nam_hien_nay.html
/>1. Khái niệm công nghệ. Phân tích các nội dung của quản trị công nghệ. Lấy ví dụ ở
việt nam />trang-va-giai-phap-45658/
2. Nêu các nội dung của quản trị cung ứng nguyên vật liệu. phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đế quản trị cung ứng nvl
Số lượng nhà cung cấp trên thị trường.
Một trong những nhân tố ảnh hưởng rất thường tới các quá trình quản trị nguyên vật liệu
đó là các nhà cung cấp. Số lượng đông đảo các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau là thể hiện sự phát triển của thị trường các yếu tốt đầu vào nguyên vật liệu.
Thị trường này càng phát triển bao nhiêu càng tạo ta khả năng lớn hơn cho sự lựa chọn
nguồn nguyên vật liệu tối ưu bấy nhiêu.
Mặt khác, sức ép của nhà cung cấp có thể tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn
cho quản trị nguyên vật liệu. Sức ép này gia tăng trong những trường hợp sau:
- Một số công ty độc quyền cung cấp.
- Không có sản phẩm thay thế.
- Nguồn cung ứng trở nên khó khăn.
- Các nhà cung cấp đảm bảo các nguồn nguyên vật liệu quan trọng nhất cho doanh
nghiệp.
Giá cả của nguồn nguyên vật liệu trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường giá cả là thường xuyên thay đổi. Vì vậy việc hội nhập và thích
nghi với sự biến đổi đó là rất khó khăn do việc cập nhật các thông tin là hạn chế. Do vậy
nó ảnh hưởng tới việc định giá nguyên vật liệu, quản lý nguyên vật liệu trong doanh
nghiệp. Việc thay đổi giá cả thường xuyên là do:
- Tỷ giá hối đoái thay đổi làm cho các nguyên vật liệu nhập khẩu với giá cũng khác nhau.
- Do các chính sách của chính phủ (quata, hạn ngạch )
- Do độc quyền cung cấp của một số hãng mạnh.
Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp ở nước ta hiện nay do việc xem nhẹ các hoạt động quản lý liên quan
tới nguồn đầu vào của doanh nghiệp cho nên ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh.
Một trong những yếu tố của việc xem nhẹ này là việc đánh giá không đúng tầm quan
trọng của yếu tố đầu vào (đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước) do trình độ của cán bộ quản


lý còn hạn chế, số lượng đào tạo chính quy rất ít, phần lớn làm theo kinh nghiệm và
thói quen. Mặt khác là do những yếu kém của cơ chế cũ để lại làm cho một số doanh
nghiệp hoạt động không năng động còn trông, chờ, ỷ lại
Hệ thống giao thông vận tải.
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới công tác quản trị nguyên vật liệu là hệ thống giao
thông vận tải của một nơi, một khu vực, một quốc gia, những nhân tố này thuận lợi sẽ
giúp cho quá trình giao nhận nguyên vật liệu thuận tiện, đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp, làm cho mọi hoạt động không bị ngừng trệ mà trở nên đồng đều, tạo ra mức dự
trữ giảm, kết quả là ta sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Thực tế đối với mỗi doanh nghiệp nguồn nhập nguyên vật liệu không chỉ trong nước mà
còn cả các nước khác trên thế giới. Như vậy hệ thống giao thông vận tải có ảnh hưởng
lớn tới công tác quản trị nguyên vật liệu của một doanh nghiệp. Nó sẽ tạo điều kiện thuận
lợi hoặc kìm hãm một doanh nghiệp phát triển, đồng nghĩa với nó là việc hoạt động có
hiệu quả hay không của một doanh nghiệp.
3. Phân biệt khái niệm bán hàng và tiêu thụ. Nêu nội dung của quản trị tiêu thụ, đánh
giá đặc trung tiêu thụ sản phẩm hiện nay ở việt nam
Bán hàng: Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp thương mại, là quá trình người bán chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho người
mua để nhận quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền đòi tiền ở người mua.
Như vậy, thông qua nghiệp vụ bán hàng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực
hiện; vốn của doanh nghiệp thương mại được chuyển từ hình thái hiện vật (hàng hoá)
sang hình thái giá trị (tiền tệ), doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, bù đắp được chi phí
và có nguồn tích luỹ để mở rộng kinh doanh.
Và cũng như đối với hoạt động mua hàng, hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp
thương mại cũng bao gồm: bán hàng trong nước (hay bán hàng nội địa) và bán hàng xuất
khẩu (bán hàng cho các quốc gia khác).
Tiêu thụ: Để quá trình tái sản suất diễn ra một cách liên tục, các doanh nghiệp cần phải
thực
hiện hoạt động tiêu thụ sản phẩm mà mình sản xuất ra, đây là một khâu quan trọng trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện quan trọng, sống còn của

các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng đầy biến động hiện nay.Vậy tiêu thụ sản phẩm là
gì ? Theo quan điểm hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình thực hiện tổng thể các
hoạt động có mối quan hệ lô gíc và chặt chẽ bởi một tập hợp các cá nhân, doanh nghiệp
phụ thuộc lẫn nhau nhằm thực hiện quá trình chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất tới nơi tiêu
dùng. Tiêu thụ thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng nó là khâu lu thông hàng
hoá
là cầu nối trung gian một bên là sản xuất một bên là tiêu dùng .
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thi trờng quan niệm về tiêu thụ sản phẩm cũng dần
đợc thay đổi cho phù hợp với sự xuất hiện của các nhân tố mới. Quản trị truyền thống
quan niệm tiêu thụ sản phẩm là hoạt động đi sau hoạt động sản xuất và chỉ đợc thực hiện
khi quá trình sản xuất xản phẩm đã đợc hoàn thành có nghĩa là hoạt động tiêu thụ là hoạt
động thụ động phụ thuộc vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Ngày nay với sự phát
triển của niền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp không thể bán cái mà mình có nh trớc
đây nữa mà chỉ có thể bán cái mà thị trờng cần. Do vậy quan niệm về tiêu thụ sản phẩm
cũng thay đổi, quan điểm ngày nay cho rằng tiêu thụ sản phẩm là hoạt động đi trớc hoạt
động sản xuất, nó thực hiện công tác điều tra nghiên cứu thị trờng ( khả năng tiêu thụ )
làm
cơ sở cho việc hoạch định các chiến lợc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lợc
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi hay không đều phụ thuộc vào tính đúng
đắn, chính xác của việc điều tra nghiên cứu thị trờng, đây là điều kiện quan trọng để
doanh
nghiệp có thể thực hiện tái sản xuất sản phẩm, nh vậy theo quan điểm hiện đại thì tiêu thụ
sản phẩm là hoạt động cực kỳ quan trọng quyết định hoạt động sản xuất trong thực tế
chúng ta hay nhầm lẫn giữa tiêu thụ sản phẩm và bán hàng đây là hai hoạt động riêng biệt
nhau xét về bản chất là giống nhau bởi đều là hoạt động nhằm chuyển hàng hoá tới tay
ngời tiêu dùng tuy nhiên hoạt động tiêu thụ rộng hơn hoạt động bán hàng. Bán hàng chỉ

một khâu, một bộ phận của hoạt động tiêu thụ sản phẩm điều này sẽ đợc làm sáng tỏ ở
phần nội dung của hoạt động tiêu thụ .

Đối với nớc ta trong niền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm
của doanh nghiệp là: sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai? sản xuất nh thế nào? đều do nhà
nớc quyết định thì việc tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản
xuất ra theo kế hoạch và giá đã đợc nhà nớc ấn định từ trớc còn trong niền kinh tế thị
tròng
hiện nay các doanh nghiệp phải tự mình quyết định ba vấn đề trọng tâm đó cho nên việc
tiêu thụ là hoạt động đi sau hoạt động sản suất chỉ đợc thực hiện khi sản suất đợc sản
phẩm.
Ngày nay tiêu thụ sản phẩm là điều kiện tiền đề, là cái phía trớc gắn với phía cầu và
quyết
định hoạt động sản xuất. Một doanh nghiệp hiện đại trớc khi quyết định ba vấn đề cơ bản
sản xuất cái gì ? sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai ? Do đó cần phải thực hiện việc nghiên
cứu thị trờng cụ thể là việc nghiên cứu cầu của thị trờng khả năng thanh toán và quy mô
của thị trờng trong hiện tại và cũng nh trong tơng lai. Kết quả của hoạt động nghiên cứu
thị trờng sẽ là cơ sở để, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất tối u, khi doanh nghiệp
thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh thì nhịp độ của tiêu thụ sản phẩm sẽ quyết đến
nhịp độ sản xuất sự quay vòng vốn của doanh nghiệp là nhanh hay chậm đều thuộc vào
thời gian tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Vậy, trong nền kinh tế thị trờng tiêu thụ
sản
phẩm là cực kỳ quan trọng, quyết định hoạt động sản xuất.
b. đặc trưng
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CỦA VIỆT NAM
Thực hiện Chiên lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010), Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm,
thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Tuy nhiên, chất lượng, năng
suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế còn dựa
nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiểu rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiểu
sâu. Đặc biệt, tiêu hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài
nguyên chưa hợp lý và tiết kiệm, môi trường sinh thái nhiều nơi bị ô nhiễm nặng. Thực
trạng này cho thấy, hoạt động sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam chưa mang lại hiệu quả

như định hướng Chiên lược đã xác định.
Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai một sổ hoạt động liên quan đến
SX&TTB V như ký kết Tuyên ngôn quốc tế vế Sản xuất sạch hơn vào năm 1999, ban
hành Kế hoạch hành động quốc gia Sản xuất sạch hơn (SXSH) năm 2002, ban hành các
chiến lược, quy định vê SXSH trong công nghiệp, các văn bản pháp luật liên quan đến
bảo vệ quyến lợi người tiêu dùng; Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả Các
hoạt động SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ cũng được triển khai tại Việt Nam hơn lo năm
qua. Đến nay đã có trên 1.200 cơ sở sản xuất ở nhiều ngành và nhiều địa phương của Việt
Nam đang thực hiện SXSH. Việc áp dụng phương thức SXSH vào thực tiễn là cách tốt
nhất để tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm và tránh phát thải các
chất ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sức khỏe cho con người và thúc
đẩy sản xuất bẽn vững.
Bên cạnh đó, các hoạt động như: Xây dựng mô hình sản xuất bền vững trong công
nghiệp, thiết kê sản phẩm bền vững bước đẩu cũng được thực hiện, tuy nhiên, trên thực
tế, còn ở phạm vi hẹp, đa phẩn nhờ sự hỗ trợ của các dự án quốc tế như UNEP, ƯNIDO,
DANIDA, EU
Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như Chương trình cấp Nhãn sinh
thái (Bộ TN&MT; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công thương); Nhãn sinh thái cho
ngành du lịch cũng được triển khai.
Thực tế nước ta hiện nay, TTBV còn chưa được quan tâm, các hoạt động triển khai
còn hạn chê. Trong khi thói quen tiêu dùng bị chi phối bởi phong tục, tập quán và khả
năng kinh tế. Với đà phát triển kinh tê mạnh mẽ trong hơn lo năm qua, nhiêu thói quen
tiêu dùng, nhất là ở thế hệ trẻ, đã trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp hoặc
gián tiếp khiến cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và môi trường bị ô nhiễm, gây mất
cân bằng sinh thái và phát triển không bến vũng. Các hoạt động đã triển khai mới dừng ở
nâng cao nhận thức cộng đồng trong sử dụng các sản phẩm sinh thái, túi nilông sinh thái,
3R và là những hoạt động đơn lẻ, chưa kết nối với nhau, phạm vi tác động chỉ trong
khuôn khổ của một nhóm đối tượng hưởng thụ trực tiếp, vì vậy chưa có tính phổ biến và
tính bến vững.
THUẬN LỢI

VÀ THÁCH THỨC
Thuận lợi
Việc thay đổi mẫu hình sản xuất và tiêu dùng là một hành động đảm bảo sự phát
triển lâu dài và bền vững và là xu hướng tất yếu của tương lai. Việt Nam vé cơ bản đã có
những tiền đề thuận lợi để phát triển mạnh hoạt động SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ trong
thời gian tới.
Vế tiếm năng, có thể khẳng định, TTBV ở Việt Nam hầu như chưa được quan tâm,
các sản phẩm sinh thái chưa có chỗ đứng trên thị trường, thói quen tiêu dùng bền Vững
hầu như chưa được định hướng trong toàn xã hội. Sản xuất bền vững bước đầu được quan
tâm thực hiện, nhưng còn hạn chế. Công nghệ sản xuất và trình độ, kỹ năng quản lý sản
xuất còn chưa cao, do vậy, còn lãng phí, thất thoát trong sử dụng nguyên, nhiên vật liệu.
Theo sỗ liệu của Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam, tiếm năng tiết kiệm nguyên,
nhiên vật liệu, năng lượng trong các ngành công nghiệp của Việt Nam còn rất lớn, đây là
tiềm năng cho việc áp dụng các giải pháp SXSH.
Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi nhất định, việc triển khai hoạt động SẢN XUẤT VÀ
TIÊU THỤ ở Việt Nam hiện nay cũng còn nhiều thách thức.
Về mặt cơ sở pháp lý, tuy đã có các quy định khung, nhưng một chính sách cụ thể
cho SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ vẫn cần được xây dựng và ban hành với các mục tiêu,
chỉ tiêu và hành động cụ thể. Bộ tiêu chí đánh giá mức độ bền vững trong sản xuất và tiêu
thụ là cơ sở để xác định những hoạt động cụ thể cẩn triển khai. Các quy định về SẢN
XUẤT VÀ TIÊU THỤ trong các văn bản còn chung chung, tản mát trong nhiêu văn bản
khác nhau, chưa tạo được cơ sở pháp lý đủ mạnh, thể hiện quyết tâm chung của toàn xã
hội đối với hoạt động này.
Tài nguyên chưa được lượng giá đúng mức nên cũng chưa tạo được động lực cho
tiết kiệm tài nguyên.
Các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật đã triển khai còn chưa đáp ứng yêu cẩu thực tế, chưa
đủ nguồn lực để hỗ trợ phát triển hoạt động này.
Về nhận thức, tuy đã có chuyển biến, nhưng nhìn chung, nhận thức của xã hội đối với
hoạt động SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ còn hạn chế. Do vậy, chưa có sự chủ động trong

tiếp cận với các giải pháp SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ. Nhận thức của các cấp có thẩm
quyền đã có, nhưng chưa được thể hiện cụ thể vào các chính sách. Ngoài ra, mức độ nhận
thức và sự quan tâm của cộng đổng đối với các sản phẩm thân thiện môi trường cho thấy
chưa có sự quan tâm đáng kể đối với việc tiêu dùng và sản xuất các sản phẩm này. Do
vậy, chưa tạo được động lực cho việc phát triển các sản phẩm xanh. Chương trình cấp
Nhãn sinh thái cho các sản phẩm xanh đã triển khai được 3 năm, đến nay chỉ có 2 sản
phẩm được cấp Nhãn xanh.
4. Quản trị sự thay đổi là gì, lấy ví dụ trong đó phân tích các lực lượng thúc đẩy và
cản trở sự thay đổi. trong ví dụ đó lực lượng nào đóng vai trò quyết định
5. Nêu quan điểm của em về hiệu quả kinh doanh. 1 doanh nghiệp đạt lợi nhuận tối
đa với các chi phí tối thiểu được gọi là hiệu quả hay không vì sao.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×