MỤC LỤC
Tóm tắt ......................................................................................................................................1
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................trang
.....................................................................................................................................................1
Chương I - Giới thiệu nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................3
1. Hoàn cảnh nghiên cứu...................................................................................................3
2. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................4
5. Tiêu chí đánh giá............................................................................................................4
Chương II - Tổng quan về quản lý tổng hợp tài nguyên nước...........................................5
1. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước.................................................................................5
2. Các nghiên cứu về quản lý tổng hợp tài nguyên nước................................................11
3. Việt Nam tiệm cận với quản lý tổng hợp tài nguyên nước..........................................12
4. Tổng quan về tài nguyên nước ở Việt Nam.................................................................14
Chương III - Đánh giá các chủ trương, chính sách và pháp luật.....................................23
1. Các chủ trương, chính sách và định hướng chung.....................................................23
2. Các văn bản pháp luật .................................................................................................30
Chương IV - Đánh giá thể chế và tổ chức hoạt động.........................................................43
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................43
1. Cơ cấu tổ chức.............................................................................................................43
2. Thể chế tài chính..........................................................................................................50
3. Cơ chế phối hợp liên ngành.........................................................................................51
4. Thể chế thanh tra..........................................................................................................51
5. Xây dựng thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước..........................................................52
Chương V - Đề xuất kiến nghị và giải pháp.........................................................................53
1. Đối với hệ thống chính sách.........................................................................................53
2. Thể chế và tổ chức hoạt động......................................................................................53
3. Đề xuất lộ trình thực hiện.............................................................................................57
Kết luận....................................................................................................................................59
Tài liệu tham khảo...................................................................................................................60
Danh sách các chuyên gia cung cấp thông tin...................................................................62
Danh sách các chuyên gia đã gửi bản câu hỏi và đã nhận được trả lời.........................65
Phụ lục.....................................................................................................................................69
2
TÓM TẮT
Đánh giá liên ngành các chính sách quản lý tổng hợp tài nguyên nước là một trong
các nội dung cơ bản của dự án quốc gia bảo tồn và sử dụng hữu ích các vùng đất ngập
nước (ĐNN). Cho đến nay, hệ thống luật, nghị định hướng dẫn của Chính phủ, các quyết
định của Chính phủ, quyết định của các Bộ chuyên ngành, thông tư liên Bộ liên quan đến tài
nguyên nước là tương đối nhiều, tuy nhiên chưa có sự liên kết một cách “tổng hợp”.
Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu là lấy ý kiến của các chuyên gia thuộc lĩnh vực quản
lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước trong các ngành kinh tế - xã hội và chỉ giới hạn ở
nguồn tài nguyên nước lục địa (bao gồm cả nước mặt, nước dưới đất) và nước biển ven bờ.
Tiêu chí của đánh giá liên ngành các chính sách, thể chế, cơ cấu tổ chức là tính hệ thống,
tính thực tiến (hay tính khả thi) và tính hiệu quả.
Chương 2 trình bày các khái niệm cơ bản về quản lý tổng hợp tài nguyên nước (8 khái
niệm), giới thiệu một số nghiên cứu về quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên thế giới và sự
tiệm cận của Việt Nam, tóm lược hiện trạng tài nguyên nước ngọt và nước biển ven bờ trên
toàn quốc. Một đặc điểm nổi bật của nguồn tài nguyên nước Việt Nam là khá phong phú
nhưng phân bố không đều theo không gian (giữa các vùng) và thời gian (giữa các mùa), hai
phần ba tổng lưu lượng nước các sông được bắt nguồn từ ngoài lãnh thổ.
Chương 3 đánh giá các chủ trương, chính sách và pháp luật thông qua các chiến
lược, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Các chủ
trương chính sách được tóm lược trong 6 vấn đề chính và được cụ thể hóa bằng các văn
bản pháp luật mà trong đó Luật Tài nguyên nước là cơ sở pháp lý cho các văn bản khác.
Tác động tích cực của các văn bản này là: có tính hệ thống cao, hệ thống văn bản khá hoàn
chỉnh mang tính kế thừa và nâng cao, các văn bản đã có đều nhằm tạo ra một hành lang
pháp lý cho mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên nước; tính thực tiễn: tạo ra một sự phối
hợp liên ngành, thống nhất và đã đi vào hoạt động thực tế; hiệu quả của các văn bản này đã
được thể hiện trong xây dựng cơ cấu tổ chức, và các kết quả phát triển kinh tế. Các tồn tại
của hệ thống chính sách thông qua các văn bản pháp luật được tóm tắt trong 5 vấn đề: sự
chồng chéo, sự song hành, chưa đầy đủ, sự liên quan giữa quản lý tài nguyên nước và
ĐNN, sự thiếu cập nhật.
Chương 4 trình bày đánh giá thể chế, tổ chức hoạt động quản lý tổng hợp tài nguyên
nước hiện nay ở Việt Nam. Ngoài cơ quan quản lý nhà nước về Tài nguyên nước là Cục Tài
nguyên nước (cấp trung ương), Phòng Tài nguyên nước (cấp tỉnh), cơ cấu tổ chức quản lý
nước theo lưu vực đã được thành lập thí điểm cho ba lưu vực chính đã đi vào hoạt động từ
ba năm nay. Các ưu việt của cơ cấu tổ chức này đem lại nhiều giá trị tích cực như: quản lý
cấp nước, chất lượng nước, kiểm soát lũ lụt, kiểm soát bồi lắng, giao thông thủy, phát triển
thủy điện – thủy lợi…Lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn, Nhuệ - Đáy được đưa ra phân tích.
Tồn tại chính trong cơ cấu tổ chức là sự thiếu nhất quán trong chuyển giao trách nhiệm giữa
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và Bộ Tài nguyên Môi trường (TN&MT)
1
trong quản lý nước và lưu vực sông; thể chế tài chính cho ngành nước chưa được xem xét
nghiêm túc.
Báo cáo cũng đã đề xuất một số kiến nghị và giải pháp để tháo gỡ các tồn tại này theo
một lộ trình nhất định.
2
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Hoàn cảnh nghiên cứu
Tài nguyên nước đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững. Trên trái đất của chúng ta
có ba phần tư là nước, song lượng nước sạch phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người là
rất hạn chế. Vậy mà, tình trạng sử dụng nước trên thế giới là rất lãng phí và nhiều hành
động gây tổn hại cho nguồn nước. Một nguyên nhân là việc quản lý nguồn tài nguyên tái tạo
yếu này còn phân tán, chưa được quản lý trong một quan hệ tổng thể và chưa được coi là
một loại hàng hóa đặc biệt. Tuy rằng được đánh giá là quốc gia tương đối giàu tài nguyên
nước, Việt Nam là một trong nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt trong “cuộc
chiến” vì sự phát triển kinh tế và xã hội ngày càng có nhiều liên quan đến nguồn nước. Đó
là: sự phân phối không đều trong năm (lượng nước trong mùa khô chỉ chiếm 20%); không
đều theo vị trí địa lý (vùng Tuyên Quang, Móng Cái tới 80 l/s trong khi vùng Hàm Tân chỉ 10
l/s); chất lượng nước ở các vùng là rất khác nhau (đồng bằng sông Cửu Long nước chua,
phèn, mặn…). Thiếu nước, suy thoái chất lượng nước và sự tác động đến lương thực là
những vấn đề cần có sự quan tâm và hành động cụ thể.
Mục tiêu của việc Quản lý tổng hợp tài nguyên nước (QLTHTNN) là một quá trình hỗ
trợ các quốc gia đang nỗ lực giải quyết các vấn đề về nước với phương pháp có hiệu quả
đồng vốn và vững bền. Đặc biệt, Việt Nam là một quốc gia có những vùng ĐNN đáng kể bao
gồm vùng ĐNN thuộc hệ thống sông Mê Kông, sông Hồng, đầm lầy, hồ, vùng ĐNN ven biển,
bãi triều. Các vùng ĐNN này cung cấp một giá trị hàng hóa to lớn và thực phẩm cho cuộc
sống. Mặt khác, Việt Nam đã tham gia vào hội nghị Ramsar năm 1989 và phổ biến một số tài
liệu hợp pháp về duy trì và bảo vệ các vùng ĐNN. Luật Tài nguyên nước được thông qua
năm 1998 và sau đó là các nghị định hướng dẫn việc thực hiện luật này đã đưa ra một bước
chủ yếu hướng tới quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Tuy nhiên, các chính sách về ĐNN và
việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước còn khá yếu, chồng chập, thiếu sự sắp xếp và chức
năng rõ ràng.
Do đó chúng ta cần phải có sự xem xét đa ngành về các chính sách quản lý tổng hợp
tài nguyên nước ở Việt Nam làm cơ sở cho việc sử dụng và quản lý một cách có hiệu quả
các vùng ĐNN. Các nghiên cứu này cũng sẽ góp phần hoàn thiện các chính sách, pháp luật
và thể chế quản lý ĐNN và quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề về chính sách, thể chế QLTHTNN rất rộng về không gian, xuyên suốt về thời
gian và là một vấn đề phức tạp liên quan đến hầu hết các ngành kinh tế - xã hội. Các kết quả
đánh giá trong báo cáo này nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách về
quản lý và sử dụng tài nguyên ĐNN, vì vậy nội dung đánh giá được trình bày trong báo cáo
này chỉ giới hạn xem xét các vấn đề liên quan đến nước lục địa (nước mặt, nước ngầm) và
3
các vùng nước biển ven bờ, tức là các vùng tài nguyên nước có ít nhiều liên quan đến các
vùng ĐNN.
3. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá các mặt mạnh và yếu của hệ thống chính sách, luật ở Việt
Nam về ĐNN và QLTHTNN.
- Báo cáo sẽ xem xét các ưu điểm và nhược điểm của hệ thống thể chế ở Việt
Nam và sự tác động của hệ thống chính sách, luật lệ hiện hành.
- Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện các chính sách, quy tắc, luật lệ hiện
hành về QLTHTNN.
Từ sự tổng hợp này, báo cáo sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
chính sách, luật pháp và thể chế về quản lý ĐNN và QLTHTNN. Các kết quả này sẽ hỗ trợ
cho việc sử dụng và tạo nguồn thông tin cho các ngành, liên ngành, các địa phương một
cách hiệu quả.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Thành lập nhóm chuyên gia nghiên cứu: bao gồm các nhà nghiên cứu chuyên
ngành nước, các nhà quản lý đang làm việc trong các Bộ/ngành.
- Nghiên cứu, sàng lọc, tổng hợp, đánh giá các dữ liệu: các bộ luật, nghị định,
quyết định, thông tư của Chính phủ, Bộ, ngành liên quan đến quản lý tài
nguyên nước.
- Hội thảo, lấy ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn
5. Tiêu chí đánh giá
Để có thể đánh giá được thực trạng của hệ thống quản lý tài nguyên nước, cần phải
đề ra các tiêu chí đánh giá để thấy được những mặt đã hoặc chưa làm được, khả thi hay
kém khả thi, hiệu lực của hệ thống luật pháp, quy định, thể chế chính sách đã được ban
hành trong những năm qua ở nước ta. Một tiêu chí chung nhất cho sự đánh giá liên ngành là
sự phát triển kinh tế - xã hội ổn định và bền vững, tức là khai thác hiệu quả tài nguyên nước
mà không hoặc ít làm tổn hại đến chất lượng, tiềm năng tài nguyên nước cũng như các
nguồn tài nguyên khác có liên quan. Các tiêu chí cụ thể được đề nghị như sau:
- Tính hệ thống của các chính sách: đây là điểm quan trọng trong hệ thống quản
lý của một quốc gia
- Tính thực tiễn của hệ thống chính sách: biểu thị cho khả năng áp dụng vào
thực tế cuộc sống của từng thành viên trong xã hội, của từng địa phương.
- Tính hiệu quả của các chính sách quản lý tổng hợp tài nguyên nước: kết quả
của hệ thống chính sách, luật lệ đã ban hành. Trong tiêu chí này, sự thành
công hay những nội dung còn bất cập trong các luật lệ đã ban hành sẽ được
bàn luận.
4
Chương II
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC
1. QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC (QLTHTNN)
4 nguyên tắc của Dublin là:
- Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương và cần thiết cho sự
sống, phát triển và môi trường.
- Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận với sự tham gia của
các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch, người lập
chính sách, ở mọi cấp độ.
- Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý và đảm bảo an
toàn về nước.
- Nước có giá tri kinh tế ở nhu cầu cạnh tranh sử dụng và phải được xem như
hàng hóa có giá trị kinh tế.
Định nghĩa về QLTHTNN
Thực tiễn QLTHTNN tùy thuộc vào từng tình huống. Ở mức độ vận hành thì thách
thức là chuyển nguyên tắc đã được thỏa thuận thành hành động cụ thể. Để đáp ứng yêu cầu
này thường phải dựa vào QLTHTNN với “Quản lý” bao hàm cả phát triển và quản lý. Tuy
nhiên khái niệm của định nghĩa QLTHTNN có nghĩa rộng hơn, rõ ràng hơn. Khi đó các tổ
chức vùng hay quốc gia phải triển khai thực tiễn QLTHTNN và sử dụng khuôn khổ hợp tác
toàn cầu và vùng.
Quản lý sử dụng hiệu quả nguồn nước là hoạt động nằm trong chiến lược QLTHTNN.
Khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng để thống nhất chung, khái niệm
này dựa theo định nghĩa của tổ chức “Cộng tác vì nước toàn cầu“ (GWP) như sau:
“QLTHTNN là một quá trình đẩy mạnh phối hợp phát triển và quản lý tài nguyên nước, đất
đai và các tài nguyên khác có liên quan, sao cho tối đa hóa các lợi ích kinh tế và phúc lợi xã
hội một cách công bằng mà không phương hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái thiết
yếu”.
Tổng hợp là cần thiết nhưng chưa đủ. Theo từ điển của Webster, sự cần thiết phải
tổng hợp nổi lên khi có liên quan tới tình hình “quan hệ tương hỗ thường xuyên của các
nhóm phụ thuộc lẫn nhau của các hạng mục hình thành nên một tổng thể thống nhất.
Tổng hợp khi đó là “ nghệ thuật và khoa học” của sự hài hòa tỷ lệ các thành phần
trong một thể thống nhất. Tuy nhiên những vấn đề này trong quản lý tài nguyên nước được
biết là tổng hợp, tự nó không thể đảm bảo phát triển chiến lược tối ưu, kế hoạch và sơ đồ
quản lý tối ưu.
5
1.1. Quan hệ tương hỗ giữa hệ thống tự nhiên và nhân tạo
Khái niệm QLTHTNN tương phản với “truyền thống”, quản lý tài nguyên nước theo
ngành (fragmented) ở mức nền tảng nhất có liên quan tới quản lý yêu cầu với cấp nước
(quản lý cung-cầu về nước). Như vậy tổng hợp có thể được xem dưới 2 hệ cơ bản:
- Hệ thống tự nhiên với tầm quan trọng cực kỳ của nó là có tài nguyên nước và
chất lượng của nó,
- Hệ thống nhân tạo (Human System) và được xác định một cách cơ bản là sử
dụng tài nguyên, tạo ra chất thải và gây ô nhiễm tài nguyên và hệ thống đó
cũng phải tạo dựng những ưu tiên phát triển.
Tổng hợp phải diễn ra ở cả hai hệ và giữa hai hệ và có tính tới sự biến động về thời
gian và không gian. Về mặt lịch sử, những người quản lý nước đã hướng tới tự xem xét
mình trong vai trò trung lập quản lý hệ thống tự nhiên để đảm bảo cung cấp thỏa mãn những
nhu cầu xác định của chính họ. Rõ ràng rằng, người tiêu thụ chỉ cụ thể “yêu cầu” sản phẩm
được cung cấp, nhưng nước có thể được cung cấp với các tính chất rất khác nhau, chẳng
hạn về chất lượng và lưu lượng lại nhỏ ở những giai đoạn yêu cầu cao điểm. Giá và xác
định đơn giá sẽ ảnh hưởng đến tiêu thụ nước cũng như sẽ đầu tư hạ tầng để chuyển tải
tiềm năng thành tiêu thụ hiệu quả.
1.2. Tổng hợp giữa quản lý nguồn nước ngọt với quản lý vùng biển ven bờ
Quản lý nguồn nước ngọt với quản lý vùng biển ven bờ sẽ phải được nhất thể hóa,
phản ảnh tính liên lục giữa nước ngọt và nước biển ven bờ. Hệ nước ngọt là vật thể rất quan
trọng xác định những điều kiện của vùng biển ven bờ và do đó người quản lý hệ nước ngọt
sẽ phải xem xét những yêu cầu của vùng biển ven bờ khi quản lý tài nguyên nước. Đây là
trường hợp đặc biệt của vấn đề quan hệ giữa thượng lưu và hạ lưu, mà vấn đề này càng
ngày càng được chú ý đối với tất cả các nước. Điều này có xuất xứ từ các tuyên bố của Liên
Hợp Quốc trên cơ sở các nguồn ô nhiễm từ lục địa, đòi hỏi phải xây dựng các chương trình
hành động toàn cầu (GPA) và đánh giá nước quốc tế toàn cầu (GIWA).
1.3. Tổng hợp giữa quản lý đất và quản lý nước
Cách tiếp cận tổng hợp giữa quản lý đất và nước là một sự khởi đầu của chu trình
thủy văn, tuần hoàn vận chuyển nước giữa các quyển hay thành phần: không khí, đất, cây
trồng và nguồn nước mặt, nước dưới đất. Kết quả phát triển sử dụng đất và lớp phủ trồng
trọt (bao gồm cả lựa chọn cây trồng) sẽ ảnh hưởng tới sự phân bố vật lý cũng như chất
lượng nước và điều này phải được xem xét cẩn thận trong quy hoạch tổng thể và quản lý
các nguồn tài nguyên nước. Một vấn đề khác, nước là yếu tố mấu chốt xác định đặc điểm và
sức khỏe của tất cả các hệ sinh thái (trên cạn cũng như dưới nước) và do đó những yêu cầu
về số lượng, chất lượng nước của các hệ sinh thái đó cần được xem xét toàn bộ trên các
khía cạnh về tiềm năng tài nguyên nước. Việc tăng cường quản lý lưu vực nói chung và lưu
vực sông cần được quan tâm và phải là các vấn đề quy hoạch khung logic để QLTHTNN
theo các hệ thống tự nhiên. Lưu vực và quản lý ở cấp lưu vực không chỉ quan trọng ở nghĩa
6
tổng hợp các vấn đề sử dụng đất và nước, mà còn rất bức thiết trong quản lý các mối quan
hệ giữa lượng và chất, giữa các quyền lợi ở thượng lưu và hạ lưu.
1.4. Tổng hợp về quản lý nước mặt và nước dưới đất
Chu trình thủy văn cũng kêu gọi tổng hợp giữa quản lý nước mặt với nước dưới đất.
Sự suy giảm nước được giữ lại trên bề mặt một lưu vực có thể xuất hiện nghịch đảo (xoay
chiều) giữa nước mặt và nước dưới đất theo cách từ hạ lưu đến toàn lưu vực. Phần tỷ lệ lớn
của dân số thế giới phụ thuộc vào nước dưới đất để được cung cấp nước. Việc sử dụng
rộng rãi hóa chất trong nông nghiệp và sự ô nhiễm từ các nguồn không điểm (theo diện) đã
tạo ra một sự đe dọa lớn đối với chất lượng nước dưới đất và người quản lý phải xem xét
các mối quan hệ giữa nước mặt và nước dưới đất. Ô nhiễm nước dưới đất rất không đồng
đều trên toàn lưu vực và phải tính tới các chi phí giảm thiểu ô nhiễm nước dưới đất.
1.5. Tổng hợp giữa quản lý số lượng và chất lượng tài nguyên nước
Quản lý tài nguyên nước bao hàm sự phát triển số lượng nước phù hợp với chất
lượng an toàn. Như vậy quản lý chất lượng nước là hợp phần cần thiết của QLTHTNN. Sự
xuống cấp, suy thoái chất lượng nước làm gỉam tính sử dụng tài nguyên đối với các bên liên
quan ở vùng hạ lưu. Rõ ràng rằng, các tổ chức, thể chế có khả năng tổng hợp, nhất thể hóa
các khía cạnh về số lượng và chất lượng phải được đẩy mạnh. Hệ thống nhân tạo vận hành
sẽ sản sinh ra ô nhiễm, gây nhiều tác động đối với môi trường-tài nguyên nước. Do đó phải
phấn đấu để giảm thiểu các sản phẩm phế thải.
1.6. Tổng hợp giữa các quyền lợi liên quan đến thượng lưu và hạ lưu
Việc tiếp cận tổng hợp quản lý tài nguyên nước hàm ý nhận dạng các xung đột về
quyền lợi giữa các bên có liên quan ở vùng thượng lưu và hạ lưu. Những “tổn thất” về tiêu
thụ (nhu cầu) ở thượng lưu sẽ làm giảm lưu lượng nước sông. Các thải lượng ô nhiễm xả
ra ở thượng lưu sẽ làm suy thoái chất lượng nước sông.Việc sử dụng đất làm thay đổi ở
vùng thượng lưu cũng sẽ làm thay đổi việc bổ cập nước dưới đất và lưu lượng theo mùa
của nước sông. Các giải pháp kiểm soát lũ ở vùng thượng lưu có thể đe dọa về lũ đối với
các bên liên quan ở vùng hạ lưu. Những xung đột về quyền lợi cần được xem xét trong
QLTHTNN với toàn bộ sự hiểu biết về hàng loạt mối quan hệ vật lý-tự nhiên và xã hội,
những quan hệ đó tồn tại trong một hệ thống tổ hợp. Sự am hiểu về tính tổn thương gây ra
bởi những hoạt động ở vùng thượng lưu đối với những bên có liên quan ở vùng hạ lưu là rất
cần thiết. Nhấn mạnh lại một lần nữa, quản lý sẽ tham gia vào cả hai hệ thống tự nhiên và
nhân tạo.
1.7. Tổng hợp trong hệ thống nhân tạo
1 .7.1. Xác định dòng chính của tài nguyên nước
Khi phải phân tích các hoạt động của con người hay hệ thống dịch vụ, rõ ràng là tất cả
các vấn đề-khía cạnh của tổng hợp sẽ phải được tham gia cùng với sự hiểu biết về hệ sinh
thái tự nhiên, năng lực, tính dễ bị tổn thương và những giới hạn của nó. Sự tổng hợp dó là
nhiệm vụ tổng hợp, sự tổng hợp hoàn toàn là chưa rõ ràng và chưa hiện thực. Điều đó bao
gồm:
7
- Đảm bảo chắc chắn rằng các chính sách của chính quyền, tính ưu tiên tài chính và
quy hoạch (vật chất, kinh tế, xã hội) sẽ phải tính tới những trong các nội dung của
phát triển tài nguyên nước, nước có liên quan tới rủi ro và sử dụng nước.
- Ảnh hưởng của các ngành, các lĩnh vực: Khi quyết định lựa chọn công nghệ sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm phải dựa trên cơ sở các giá trị thực của nước và nhu
cầu giữ cho tài nguyên thiên nhiên tồn tại mãi mãi theo thời gian.
- Cung cấp, tạo dựng nền- phông, cơ chế, để đảm bảo rằng, tất cả các bên có liên
quan đều có thể tham gia vào các quyết định về lĩnh vực tài nguyên nước, giải
quyết các xung đột và lựa chọn giải pháp cuối cùng.
Các giải pháp tổng hợp là cần thiết ở mọi cấp từ hộ gia đình đến quốc gia, rồi đến thị
trường quốc tế.
1 .7.2.Tổng hợp liên ngành trong phát triển chính sách quốc gia
Tiếp cận QLTHTNN ám chỉ rằng, những phát triển liên quan đến nước, với tất cả các
ngành kinh tế, xã hội, sẽ phải được tính đến trong quản lý tổng thể tài nguyên nước. Như
vậy chính sách tài nguyên nước sẽ phải tổng hợp/ nhất thể hóa với chính sách kinh tế quốc
gia cũng như các chính sách của các Bộ, ngành. Ngược lại, các chính sách kinh tế xã hội
(của các Bộ/ ngành) cần phải tính tới các nhiệm vụ của tài nguyên nước, chẳng hạn, các
chính sách năng lượng quốc gia, chính sách thực phẩm quốc gia cũng có thể tác động sâu
sắc tới tài nguyên nước và ngược lại. Khi đó các phát triển phải được đánh giá đối với các
tác động có thể có đối với tài nguyên nước và các đánh giá đó phải được xem xét khi thiết
kế và xác định các dự án phát triển ưu tiên. Sự phát triển và quản lý tài nguyên nước có tác
động đối với kinh tế-xã hội thông qua nhiều con đường khác nhau, như di dân, gia tăng định
cư hay những thay đổi trong thành phần cơ cấu công nghiệp. Hậu quả là, hệ thống quản lý
tài nguyên nước phải bao gồm sự trao đổi thông tin liên ngành và quy trình hợp tác cũng
như kỹ thuật để đánh giá các dự án riêng biệt với mong đợi là bao hàm nội dung đối với tài
nguyên nước trong những trường hợp đặc biệt nói riêng và trong xã hội nói chung.
1. 7.3. Các tác động kinh tế vĩ mô của sự phát triển nước
Ở những tình huống khi mà một lượng lớn vốn được dồn cho việc đầu tư ngành nước
thì các tác động kinh tế vĩ mô thường rất lớn và rất tai hại đối với toàn bộ sự phát triển kinh
tế. Yêu cầu ngày càng gia tăng đối với hàng hóa và dịch vụ ở các ngành không cần nước là
do dòng vồn đầu vào làm tăng giá hàng hóa và dịch vụ sẽ dẫn đến sự lạm phát. Như vậy
thường kéo theo những tác động kinh tế vĩ mô dài hạn và là những điều không mong muốn.
1. 7.4. Những nguyên tắc cơ bản để xây dựng chính sách tổng hợp
Việc xây dựng chính sách liên ngành và tổng hợp là rất nặng nề và khó khăn để có thể
đạt được trong thực tế. Tuy nhiên có những nguyên tắc chung là:
- Những nhà lập kế hoạch kinh tế phải rất thận trọng đánh giá lạm phát, sự cân bằng
chi trả và tác động kinh tế vĩ mô trước khi bắt đầu một chương trình đầu tư vốn
trên quy mô lớn trong ngành nước.
8
- Người lập chính sách sử dụng đất phải được cung cấp các thông tin về những hậu
quả về nước ở vùng hạ lưu và chi phí ngoại biên những lợi ích đối với hệ thống
nước tự nhiên (nghĩa là việc phá rừng hay đô thị hóa có thể làm thay đổi chế độ về
dòng chảy nước và gây nguy cơ lũ lụt). Điều này không có nghĩa là những chi phí
ngoại biên bị thiệt hại, mà những điều đó sẽ giúp người lập chính sách phải cân
nhắc giữa những chi phí với những lợi ích thu được từ những chính sách và kế
hoạch do họ lập ra.
- Những chính sách gây tác động làm tăng nhu cầu tiêu thụ nước bao gồm cả việc
loại bỏ các sản phẩm lãng phí sẽ được phát triển với sự hiểu biết về chi phí gia
tăng tổng thể.
- Những chính sách phân phối nước hiệu quả giữa các nhu cầu sử dụng khác nhau
phải tính tới các giá trị tương đối trong sử dụng và được đo lường bằng các điều
khoản kinh tế xã hội.
- Những người hoạch định chính sách cần biết cân bằng giữa những lợi ích ngắn
hạn/ trước mắt và chi phí lâu dài tại các tình huống áp dụng những nguyên tắc
phòng ngừa có thể giảm chi phí trong suốt thời gian dài.
- Những người hoạch định chính sách phải biết rằng bao cấp trong quản lý tài
nguyên nước là tất yếu, sao cho những nhiệm vụ khác nhau được thực hiện ở
mức phù hợp và thấp nhất.
1. 7.5. Ảnh hưởng các quyết định của các ngành kinh tế
Những quyết định của những nhà phát triển kinh tế (từ quy mô xuyên quốc gia hay
các công ty sở hữu nhà nước đến những trang trại hay hộ riêng biệt) trong đa số các nước
sẽ có tác động lớn đối với nhu cầu về nước, những nguy cơ liên quan đến nước và khả
năng có nguồn nước với chất lượng nước đảm bảo. Những quyết định này sẽ không gây tổn
thương đối với tài nguyên nước nếu có thông tin rõ ràng, minh bạch về tổng chi phí của các
hành động, khuyến khích lớn đối với các chi phí bên ngoài của các quyết định cần biết.
1. 7.6. Tổng hợp tất cả các bên có liên quan trong quá trình lập kế hoạch và ra quyết
định
Việc tham gia của các bên có liên quan trong việc quản lý và lập kế hoạch về tài
nguyên nước được biết là đa năng, tổng hợp như một yếu tố cốt lõi để đạt tới sự sử dụng
nước một cách cân bằng và bền vững. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp các bên có liên
quan thường có quyền lợi xung đột và mục tiêu của họ liên quan đến quản lý tài nguyên
nước có thể tức thì tách riêng. Để giải quyết vấn đề này, QLTHTNN phải phát triển các công
cụ vận hành để quản lý xung đột và giải quyết, dung hòa những xung đột và dính líu giữa
những mục tiêu, kế hoạch và hành động. Vấn đề quan trọng ở đây là cần nhận dạng và thiết
kế các chức năng quản lý tài nguyên nước theo mức độ thực hiện phù hợp ở cấp thấp nhất;
ở từng cấp độ thực hiện, những bên có liên quan cần được nhân dạng và động viên.
9
1. 7.7. Tổng hợp giữa quản lý nước và nước thải
Nước là tài nguyên tái tạo và có thể tái sử dụng. Ở những nơi mà không có nhu cầu
và nước được quay vòng sau khi sử dụng, cần phải có cơ chế để đảm bảo rằng dòng nước
thải được xả vào nguồn nước phục vụ cấp nước thì sẽ rất có lợi. Nếu không quản lý điều
phối, thì dòng thải sẽ làm giảm hiệu quả cung cấp nước do sự suy giảm chất lượng nước và
tăng chi phí về cấp nước sau đó. Những khuyến khích để tái sử dụng có thể được tạo dựng
đối với những người sử dụng riêng biệt, nhưng để có cơ hội sử dụng hiệu quả, phải thiết kế
lồng ghép các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và hành chính.
Tổng hợp liên ngành giữa các tiểu ngành sử dụng nước và vai trò của QLTHTNN
trong liên kết giữa các tiểu ngành được thể hiện như sau:
Những tiêu chí quan trọng nhất
Để tiếp tục QLTHTNN, cần phải biết một số tiêu chí quan trọng nhất cần phải tính tới
trong các điều kiện xã hội, kinh tế và tự nhiên:
Hiệu suất kinh tế trong sử dụng nước: Vì sự khan hiếm nước ngày càng trầm trọng
và thiếu nguồn tài chính, bản chất xác định và dễ bị tổn thương của nước, như một
tài nguyên và nhu cầu về nước ngày càng tăng. Vì vậy nước cần được sử dụng có
hiệu quả cao nhất.
Bình đẳng: Quyền lợi cơ bản đối với mọi người là có nước dủ về số lượng và an
toàn về chất lượng để duy trì sự sống của loài người. Điều đó cần được ghi nhớ.
Tính bền vững về môi trường và sinh thái: Việc sử dụng tài nguyên hiện tại phải
được quản lý theo cách không làm suy yếu hệ thống hỗ trợ duy trì sự sống, bằng
cách dung hòa sử dụng chính nguồn tài nguyên đó cho hôm nay và cho cả thế hệ
mai sau.
Các yếu tố quan trọng
Khung QLTHTNN và tiếp cận hiểu biết rằng các yếu tố bổ sung cho hệ thống quản lý
hiệu quả tài nguyên nước cần được triển khai và tăng cường cạnh tranh:
- Tạo dựng môi trường: Khung tổng quát của các chính sách quốc gia, luật lệ, quy
định, các thông tin đối với các bên có liên quan về quản lý tài nguyên nước;
Tổng hợp liên ngành
Tạo môi
trường
Vai trò thể chế
Công cụ quản
lý
Nước cho
sinh hoạt
dân cư
Nước cho
thực phẩm
Nước cho thiên
nhiên
Nước cho
công nghiệp
và những
nhu cầu
khác
10
- Vai trò thể chế và các chức năng của các cấp hành chính khác nhau và những bên
có liên quan khác nhau;
- Những công cụ quản lý, bao gồm công cụ vận hành đối với các quy định có hiệu
quả, quan trắc và tăng cường, tạo khả năng cho những người ra quyết định được
thông tin lựa chọn phương án hợp lý giữa những phương án hành động Những
lựa chọn này cần phải dựa trên cơ sở các chính sách đồng thuận, các nguồn tài
nguyên có thể có, các tác động môi trường và những hậu quả kinh tế, xã hội.
Hình 1. Tính bền vững sinh thái
2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC
Tổ chức cộng tác vì nước toàn cầu (GWP) được thành lập từ năm 1996, là một mạng
lưới mở cho mọi tổ chức có liên quan đến quản lý tài nguyên nước như: các cơ quan của
chính phủ ở các nước phát triển và đang phát triển, các cơ quan thuộc Liên hợp quốc, các
ngân hàng phát triển song phương và đa phương, các hội nghề nghiệp, viện nghiên cứu, tổ
chức phi chính phủ và tổ chức cá nhân. Tổ chức này nhằm thúc đẩy quản lý tổng hợp tài
nguyên nước với mục tiêu đảm bảo liên kết phát triển và quản lý nước, đất và những tài
nguyên liên quan bằng cách tăng tối đa lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội mà không làm ảnh
hưởng xấu đến tính bền vững của những hệ thống thiết yếu.
Ủy ban tư vấn kỹ thuật của GWP đã đưa ra những tiền đề cho QLTHTNN như sau:
- Tài nguyên nước ngọt thế giới đang chịu một sức ép ngày càng tăng, tăng trưởng
dân số, tăng các hoạt động kinh tế, mức sống cải thiện dẫ tới sự cạnh tranh và
mâu thuẫn về nguồn nước ngọt. Việc thiếu những biện pháp chống ô nhiễm cũng
làm cho tài nguyên nước suy thoái trầm trọng hơn.
- Dân số dưới sức ép về nước: trong thế kỷ 20, dân số thế giới tăng khoảng ba lần
trong khi lượng nước khai thác để sử dụng tăng khoảng bảy lần. Theo tính toán
hiện nay có khoảng một phần ba dân số thế giới đang chịu sức ép mức trung bình
và mức cao về nước. Theo ước tính tỷ lệ này còn có thể tăng đến hai phần ba vào
năm 2025.
11
- Tác động của ô nhiễm nước có liên quan chặt chẽ đến các hoạt động của con
người. Ngoài các chức năng phục vụ những nhu cầu cơ bản của đời sống và các
quy trình công nghiệp, nước còn có vai trò như một tác nhân truyền tải chất thải
sinh họat, nông nghiệp và công nghiệp gây ô nhiễm. Nguồn nước suy thoái do ô
nhiễm ảnh hưởng đến khả năng sử dụng nguồn nước ở hạ lưu đe dọa sức khỏe
con người và chức năng của hệ sinh thái nước.
- Sự khủng hoảng trong quản lý Nhà nước về tài nguyên nước: cách tiếp cận quản
lý tài nguyên nước theo ngành đã và đang có vái trò lấn át. Điều này dẫn đến việc
phân mảng và thiếu phối hợp trong phát triển và quản lý nguồn tài nguyên nước.
Thêm vào đó, việc thực hiện công tác quản lý thường được thực hiện theo hướng
từ các cơ quan cấp trên xuống, mà tính hiệu quả của phương pháp này vẫn còn là
vấn đề cần phải xem xét.
- Đảm bảo nước cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất lương thực: những tác động này
trước hết ảnh hưởng đến những thành phần nghèo đói nhất của dân số các nước
đang phát triển về nhu cầu nước sạch và vệ sinh. Theo số liệu phát triển dân số.
Trong khoảng thời gian 25 năm, cần có lương thực cấp thêm cho 2-3 tỷ người.
Nước được xem là một trở ngại chính đối với sản xuất lương thực (nông nghiệp
sử dụng 70% lượng nước khai thác)
Trên cơ sở những vấn đề được nêu ở trên, khái niệm QLTHTNN khác với khái niệm
Quản lý tài nguyên nước trước kia ở điểm phải xem xét Tài nguyên nước trong mối quan hệ
tương quan giữa con người và nguồn tài nguyên tức là phải xem xét hai cấp độ: hệ tự nhiên
được coi là tầm quan trọng sống còn đối với khả năng và chất lượng tài nguyên; hệ con
người/ nhân tạo/ là cơ bản xác định việc sử dụng tài nguyên, phát thải và làm ô nhiễm tài
nguyên, đồng thời là nguồn động lực cho những ưu tiên phát triển. Trước kia, các nhà quản
lý nước có xu hướng coi mình có vai trò trung lập đáp ứng các nhu cầu từ phía bên ngoài
tức là thiếu sự tương quan qua lại. Sự phát triển mới của khái niệm đòi hỏi phải có những
nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề QLTHTNN nhằm một cơ chế phát triển kinh tế - xã hội bền
vững không chỉ ở nước ta mà còn là nhiệm vụ của các tổ chức có liên quan đến lĩnh vực này
trên toàn cầu.
3. VIỆT NAM TIỆM CẬN VỚI QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC
Việt Nam đã tham gia là thành viên của Mạng lưới Cộng tác vì Nước toàn cầu và
mạng lưới cộng tác vì nước khu vực Đông Nam Á (SEATAC – nay là SEARWP) từ những
năm 1997-1998.
Mạng lưới nước Cộng tác vì Nước của Việt Nam (VNWP) đã được thành lập từ năm
2000 và từ đó đến nay đã có nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế được tổ chức (Hội thảo
Quản lý điều hành hiệu quả ngành nước-6/2002, hội thảo QLTHTNN với dịch vụ
nước-12/2003, hội nghị thành viên lần thứ II mạng lưới cộng tác vì nước của Việt
Nam-4/2004…) Các tham luận tại hội thảo tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây
dựng các chính sách của từng ngành hoặc liên ngành cho việc QLTHTNN. Sự tăng trưởng
12
bền vững của các ngành kinh tế có sự đóng góp quan trọng của việc cân bằng giữa nhu cầu
khai thác, sử dụng và khả năng chịu tải, sự phân bố hợp lý của nguồn tài nguyên nước dồi
dào nhưng không phải là vô tận. Các nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách quốc
gia về QLTHTNN không chỉ cần cho một quốc gia đơn lẻ mà còn mang ý nghĩa toàn cầu,
phù hợp với những thông lệ quốc tế.
Ngày 20 tháng 5 năm 1998 Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua luật Tài
Nguyên Nước để quy định việc quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng TNN, phòng chống và
khắc phục hậu quả tai hại do nước gây ra.
Khoản 2 điều 63 quy định" Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước gồm Chủ tịch Hội
đồng là một Phó Thủ tướng, uỷ viên thường trực là Bộ trưởng Bộ NN&PTNT"
Ngày 15 tháng 6 năm 2000 Thủ tướng Chíng Phủ đã quyết định thành lập Hội đồng
Quốc gia tài nguyên nước và ngày 28 tháng 6 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành
quy chế hoạt động của Hội đồng Quốc gia về TNN và có văn phòng tại Bộ NNvà PTNT. Hội
Đồng Quốc Gia về TNN đã họp được 3 lần bàn các vấn đề lớn về TNN theo chức năng của
hội đồng. Năm 2003 Hội đồng cũng đã họp để bàn về việc xây dựng kế hoạch phát triển và
quản lý TNN.
Khác với đất đai, khoáng sản, những tài nguyên được định vị trong một địa bàn nhất
định, tài nguyên nước có đặc tính là vận động theo lưu vực mang tính hệ thống. Việc quản lý
tài nguyên nước và công trình thủy lợi là một khối thống nhất, rất khó có thể chia sẻ trong
việc quản lý. Tính hệ thống và sự vận động của nước theo lưu vực thể hiện ở các điểm sau:
- Mối quan hệ mật thiết qua lại giữa thượng nguồn và hạ nguồn tức là mọi biến
động ở thượng nguồn như lấy nước, thải nước, ngăn giữ nước, cải tạo dòng
chảy, biến động chất lượng nước đều liên quan đến sự thay đổi tích cực hoặc
tiêu cực ở hạ lưu.
- Mối quan hệ giữa bề mặt lưu vực và nguồn nước: mỗi tác động bề mặt lưu
vực như việc chặt phá rừng, việc mở rộng canh tác trên sườn dốc, việc đô thị
hóa, việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp… đều làm thay đổi chế độ dòng
chảy và chất lượng nước trong phạm vi lưu vực.
- Mối quan hệ giữa nước mặt và nước dưới đất: nước mặt và nước dưới đất
trong phạm vi lưu vực quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Mùa lũ
nước mặt cung cấp thêm trữ lượng cho nước dưới đất, còn mùa khô nước
dưới đất bổ sung lại cho nguồn nước mùa nước kiệt. Vì vậy, các biện pháp
trồng rừng, làm hồ chứa là biện pháp tích cực điều hòa lượng nước cho cả hai
cấu thành.
Tính hệ thống của nước đòi hỏi phải có những chính sách, qui định, thể chế mang tính
liên ngành trong QLTHTNN.
13
4. TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở VIỆT NAM
4.1. Tài nguyên nước mặt
Trên lãnh thổ Việt Nam có 2360 sông dài trên 10 km có dòng chảy thường xuyên. 9 hệ
thống sông có diện tích lưu vực trên 1000 km
2
đó là: Mê Kông, Hồng, cả , Mã, Đồng Nai, Ba,
Bằng Giang, Kỳ Cùng và Vũ Gia-Thu Bồn. Sông ngòi Việt Nam có thể chia làm 3 nhóm.
Bảng 1. Trữ lượng nước mặt ở các sông
Nhóm sông Diện tích lưu vực (km
2
) Tổng lượng nước (km
3
/năm)
Toàn bộ Trong
nước
Ngoài
nước
Toàn bộ Trong
nước
Ngoài
nước
Nhóm 1. Thượng nguồn nằm
trong lãnh thổ
45.705 43.725 1.980 38,75 37,17 1,68
Nhóm 2. Trung và hạ lưu nằm
trong lãnh thổ
1.060.400 199.230 861.170 761,90 189,62 524,28
Nhóm 3. Các sông nằm trong
lãnh thổ
55.602 55.602 66,50 66,50
Tổng cộng 298.557 822,15 293,29 535,96
Cả nước 330.000 853,80 317,90 535,96
Sơ lược các nguồn tài nguyên nước các vùng
8 vùng kinh tế ở nước ta phần lớn đều nằm trong các lưu vực sông chính. Tuy nhiên,
trữ lượng và chất lượng tài nguyên nước, tính đa dạng sinh học và khả năng có nước và
tính dễ bị tổn thương của mỗi vùng có khác nhau. Các vùng đồng bằng sông Hồng, đồng
bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ có hệ thống sông ngòi dày đặc và nguồn tài nguyên
nước mặt dồi dào. Ở các vùng này, gia tăng dân số, đô thị hoá và công nghiệp hoá một cách
nhanh chóng, thâm canh nông nghiệp và vận tải đường thuỷ làm cho chất lượng nước xấu
đi và giảm mực nước dưới đất. Trong khi các vùng ven biển với mật độ dân số ngày càng
tăng, càng dễ bị tổn thương trước do sự biến đổi khí hậu toàn cầu và nạn phá rừng diễn ra
ở các vùng thượng lưu, thì ở các vùng núi cao (Tây Bắc và Tây Nguyên) hạn hán và lũ quét
lại xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Tính đa dạng sinh học trên đất liền và thuỷ sản nước
ngọt giảm ở hầu hết các vùng. Các nguồn tài nguyên biển và ven biển từng mang lại các lợi
ích cho các vùng ven biển và nền kinh tế nước nhà, nhưng khai thác quá mức là một nguy
cơ rõ nhất.
4.2. Tài nguyên nước dưới đất
Tổng hợp trữ lượng nước dưới đất đã được đánh giá và xét duyệt trên toàn lãnh thổ
đến cuối năm 1998 và các năm 2002, 2004 được thể hiện trong bảng 2.
14
Bảng 2. Trữ lượng nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam (m
3
/ngày)
TT Nguồn nước 1998 2002 2004
1 Nước mặt 2,27 tỷ 2,27 tỷ
2 Nước dưới đất 14.457.446 130.017.000 130.017.000
Nguồn: Báo cáo Hiện trạng môi trường Bộ NN&PTNT
Nguồn nước ngầm được phân bố theo lãnh thổ như sau:
* Hà nội – Hải phòng – Quảng Ninh: 5.058.915 m
3
/ngày
* Huế - Đà Nẵng: 944.834 m
3
/ngày
* TP Hồ Chí Minh – Đồng Nai – Vũng tầu 1.591.182 m
3
/ngày
* Các vùng khác 6.979.515 m
3
/ngày
4.3. Tài nguyên nước ven bờ
Việt Nam có bờ biển dài khoảng 3260 km và hơn 3500 đảo lớn và nhỏ. Vùng bờ biển
và vùng nước ven bờ biển Việt Nam có thể chia thành 9 vùng với các đặc trưng địa mạo
sau:
- Vùng bờ từ Móng Cái đến Đồ Sơn: đây là vùng bờ động lực sông và thủy triều
chiếm ưu thế. Hình thái đường bờ khúc khuỷu và phân cách mạnh có nhiều
vũng, vịnh và đảo ven bờ cùng với rừng ngập mặn.
- Vùng bờ từ Nam Đồ Sơn đến Nga Sơn (Thanh hóa): đây là vùng bờ biển phát
triển trên nền lục địa kế thừa vùng trũng sông Hồng bao gồm các cửa sông
chính của hệ thống sông Hồng. Đặc trưng hình thái đường bờ là lồi ra biển,
trước các cửa sông đều có các cồn cát.
- Vùng bờ từ Nga Sơn (Thanh Hóa) đến Đèo Ngang (Quảng Bình): vùng này có
cấu tạo đất đá theo nền của đới tạo núi Việt – Lào.
- Vùng bờ từ Đèo Ngang (Quảng Bình) đến đèo Hải Vân (Đà Nẵng): thuộc vùng
Bắc Trường Sơn bao gồm phức nếp lõm sông Cả và lồi Trường sơn. Đặc
điểm bờ biển là đồng bằng hẹp tích tụ mài mòn ven biển có nhiều cồn, đụn cát
nằm dọc phía ngoài, phía trong là đầm phá.
- Vùng bờ từ bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đến Sa Huỳnh (Quảng Ngãi): vùng
phát triển trên nền uốn nếp Việt – Lào, dải đồng bằng ven biển và vùng bờ
biển hiện đại đều tương đối rộng. Trong vùng này có Cù Lao Chàm.
- Vùng ven bờ từ Cà Ná đến Vũng Tàu: vùng này thuộc đới cấu trúc Đà Lạt. Địa
hình bờ biển tương đối bằng phẳng, vùng đáy sát bờ có nhiều bùn cát và đá
ngầm.
15
- Vùng bờ từ Vũng Tàu đến Rạch Giá: thuộc châu thổ sông Cửu Long có nhiều
cửa sông lớn, bờ biển thoai thoải, hệ thống kênh rạch dày đặc. Các cửa sông
thường rất rộng với các bãi triều ngầm và cồn cát.
Việt Nam có 28/64 tỉnh thành phố có biển. Nhìn chung, dân số thành thị của các tỉnh
ven biển đều tăng trong 3 năm gần đây (2,5% năm 2002 và 3,2% năm 2003). Năm 2003,
các tỉnh ven biển có 308 quận, huyện với dân số khoảng 41,7 triệu người trong đó có 126
quận, huyện với trên 17,7 triệu người sinh sống.
Hơn hai thập niên qua, một số lượng lớn tầu, thuyền mới đóng đã tham gia khai thác.
Số tàu thuyền này chủ yếu hoạt động ở vùng biển có đậu sâu trên dưới 50 m, gây áp lực lớn
cho việc khai thác hải sản ở vùng nước ven bờ. So sánh với kết quả nghiên cứu những năm
90, trữ lượng cá biển đến nay (2004) đã giảm sút khá rõ rệt (3,1/4,1 triệu tấn).
4.4. Đặc điểm khí hậu thủy văn
Hệ thống dòng chảy với một mạng lưới tiêu nước ra biển khá dày. Tổng số các con
sông lớn nhỏ ở Việt Nam lên tới 2.500, trong đó có 2360 con sông dài từ 10km trở lên. Việt
Nam có chín hệ thống sông lớn nhất là Cửu Long, Hồng, Thái Bình, Kỳ Cùng - Bằng, Mã,
Cả, Thu Bồn, Ba và Đồng Nai. Theo số liệu tính toán cho thấy hệ thống sông Cửu Long có
nguồn nước chảy vào Việt Nam là lớn nhất, chiếm 61,4% tổng lượng dòng chảy sông ngòi
của cả nước. Các dòng sông chảy ra biển đã tạo thành hệ thống cửa sông là một trong
những loại hình ĐNN quan trọng của Việt Nam. Hiện nay, cả nước có trên 3.500 hồ chứa
nước nhỏ và 650 hồ chứa nước vừa và lớn, các hồ chứa nước lớn như hồ Thác Bà có diện
tích mặt nước 23.400 ha, hồ Hòa Bình 218 km
2
, hồ Dầu Tiếng 35.000 ha, hồ Trị An 27.000
ha (Nguyễn Viết Phổ, Vũ Văn Tuấn, Trần Thanh Xuân, 2003).
Khí hậu nước ta thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm
khá cao (hơn 20
0
C/năm), độ ẩm tương đối lớn (hơn 80%/năm), lượng mưa dồi dào
(1500mm/năm). Sự khác nhau về chế độ khí hậu giữa các vùng, đặc biệt là chế độ nhiệt -
ẩm có ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của từng vùng như thời gian ngập nước, độ sâu
ngập nước, chế độ nhiệt của nước, dẫn đến sự khác nhau giữa các loại hình ĐNN.
4.5. Tình hình khai thác và sử dụng nước ở Việt Nam
Dân số tăng nhanh và lượng nước sử dụng nhiều lên sẽ làm cho lượng nước bình
quân đầu người ngày càng giảm. Theo số liệu thống kê hàng năm ở Việt Nam, tổng lượng
nước được tạo ra trung bình hàng năm là khoảng 835 tỷ m
3
, lượng nước sản sinh trên lãnh
thổ khoảng 325 tỷ m
3
. Lượng nước bình quân đầu người hàng năm từ 4.000 m
3
/năm cho
vùng thiếu nước đến 10.720 m
3
/năm cho các vùng có trữ lượng lớn.
Sử dụng nước có tiêu hao
- Sử dụng nước cho nông nghiệp: kết quả tính đến năm 1998 đã có 75 hệ thống
thủy lợi vừa và lớn với nhiều hệ thống thủy lợi nhỏ gồm 3.500 hồ chứa vừa và
lớn (dung tích trên 1 triệu m3 chiều cao đập trên 10 m); 1017 đập dâng và
hàng ngàn hồ chứa nhỏ, hơn 5.000 công tưới/tiêu lớn; trên 10.000 trạm bơm
điện lớn và vừa với tổng công suất 24,8 triệu m3/h và hàng vạn công trình thủy
lợi vừa và nhỏ. Các hệ thống thủy lợi có tổng năng lực tưới trực tiếp 3,45 triệu
16
ha, tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,87
triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha đất canh tác nông nghiệp. Khoảng
trên 8000 km bờ bao ngăn lũ vụ hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long với hàng
vạn km kênh mương và công trình trên kênh. Tổng tài sản cố định phần nhà
nước đầu tư khoảng trên 60.000 tỷ đồng (giá năm 1998) chưa kể tài sản cố
định cho đê điều, công trình thủy điện… Lượng nước cung cấp hàng năm cho
nông nghiệp rất lớn và tăng lên hàng năm: 1985 sử dụng 40,65 tỷ m
3
chiếm
89,8% tổng lượng nước tiêu thụ, 1990 là 51 tỷ m
3
chiếm 91% tổng lượng nước
tiêu thụ, năm 2000 là 76,6 tỷ m
3
, chiếm 84% tổng nhu cầu về nước. Từ năm
1998, diện tích được tưới tăng trung bình mỗi năm khoảng 3,4%, nhưng các
hệ thống tưới chỉ có thể đáp ứng cho 7,4 triệu ha (hay 80% tổng diện tích đất
trồng trọt). Chính phủ mong muốn đến năm 2010 thì nhu cầu tưới sẽ tăng đến
88,8 tỷ m
3
(ứng với diện tích được tưới là 12 triệu ha).
- Sử dụng nước cho công nghiệp: 1980 là 1,50 tỷ m3 (chiếm 4,0%); 1985 là
1,86 tỷ m3 (chiếm 6,3%); năm 1990 là 5,33 (chiếm 9,8%); năm 2002 là 14 tỷ
(chiếm 18,5%).
- Sử dụng cho sinh hoạt: tổng lượng nước cấp cho các đô thị 2,6 triệu m3/ngày
(năm 1998); 2,7 triệu m3/ngày (năm 2002), khoảng 3 triệu m3/ngày (vào tháng
12-2005) và dự kiến 3,3 triệu m3/ngày năm 2010.
Hiện nay chỉ khoảng 70% dân số Việt Nam được cung cấp nước sạch dùng cho
sinh hoạt. Theo chiến lược của Chính phủ, đến năm 2010 sẽ tăng tỷ lệ này 95%
dân cư đô thị. Ngư nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp và các ngành dịch vụ
cũng làm tăng nhu cầu sử dụng các nguồn tài nguyên nước của đất nước.
- Ngoài mục đích tưới tiêu cho nông nghiệp, hệ thống thuỷ lợi còn phục vụ cấp
nước cho sinh hoạt và tiêu nước cho các vùng dân cư. Một số hệ thống còn
được kết hợp khai thác sử dụng nước cho giao thông, du lịch, thủy sản
- Sử dụng nước cho thủy điện: Các hồ chứa thủy điện là nguồn dự trữ nước
quan trọng để điều hòa, phân phối, cấp nước cho các mục đích khác. Tổng
dung tích trữ nước của 11 hồ chứa nước thủy điện lớn đã và đang xây dựng
(dung tích mỗi hồ trên 1 tỷ m3) và hơn 35 hồ chứa dung tích trên 100 triệu m3/
hồ là trên 25 tỷ m3. Theo kế hoạch đến 2010 sẽ đưa vào hoạt động 21 hồ
chứa thủy điện vừa và lớn. Đến hết năm 2020 sẽ xây dựng thêm nhiều hồ
chứa với tổng công suất điện là 11.137 MW.
Đánh giá chung
a. Về chất lượng:
Chất lượng nước ở thượng lưu các con sông còn khá tốt, nhưng ở vùng hạ lưu nước
ở phần lớn các con sông đã bị ô nhiễm, có nơi ở mức nghiêm trọng. Nguyên nhân do nước
thải của các cơ sở sản xuất kinh doanh, nước thải sinh hoạt không được xử lý hoặc xử lý
chưa đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép thải trực tiếp vào các dòng sông. Chất lượng
nước suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như BOD, COD, NH
4
, tổng N, tổng P và vi sinh có hàm
lượng cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, gây ảnh hưởng tới sức khoẻ và đời sống
17
nhân dân, nhất là ở những nơi người dân sử dụng nước sông làm nguồn nước phục vụ sinh
hoạt. Nước ở vùng ven biển cũng đã có dấu hiệu bị ô nhiễm. Hàm lượng các chất hữu cơ,
kim loại nặng, hoá chất bảo vệ thực vật ở một số nơi vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Hàm
lượng dầu trong nước biển có xu hướng tăng nhanh do xảy ra nhiều sự cố tràn dầu. Hàng
năm ước tính nước ta có khoảng trên 1 tỷ m
3
nước thải mà hầu hết chưa được xử lý hoặc
xử lý chưa đạt yêu cầu đổ ra môi trường đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng một số
nguồn nước. Tỷ lệ số người được sử dụng nước hợp vệ sinh còn thấp (khoảng 85% ở thành
phố và khoảng 45% ở vùng nông thôn).
b. Khả năng bảo đảm về nước:
Sẽ gặp khó khăn, đặc biệt là trong mùa khô. Theo báo cáo của Viện Quy hoạch thuỷ
lợi, trữ lượng nước ngầm ở nước ta có khoảng 50 - 60 tỷ m
3
, trong đó trữ lượng khai thác
khoảng 10 - 12 tỷ m
3
/năm. Hàng năm chúng ta khai thác khoảng 20% trữ lượng nước ngầm
phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Nước ngầm ở một số vùng, đặc biệt là
các khu công nghiệp, đô thị có nguy cơ cạn kiệt vào mùa khô và có dấu hiệu ô nhiễm ở một
số nơi. Nguyên nhân do khai thác bừa bãi và không đúng quy trình kỹ thuật.
c. Quan trắc môi trường nước:
Nhằm phục vụ công tác đánh giá diễn biến chất lượng môi trường, định kỳ xây dựng
Báo cáo hiện trạng môi trường, hệ thống quan trắc và phân tích môi trường quốc gia đã
được xây dựng, từng bước bổ sung và hoàn thiện. Tính đến nay, trên phạm vi cả nước có
20 trạm quan trắc và phân tích môi trường thực hiện quan trắc thường xuyên các thành
phần môi trường nước, không khí, đất, mưa axít, phóng xạ và môi trường lao động với hơn
250 điểm quan trắc, phân bố trên địa bàn của 45 tỉnh, thành phố với tần suất quan trắc là 4
lần trong năm. Bên cạnh đó, hệ thống quan trắc và phân tích môi trường quốc gia cũng phối
hợp chặt chẽ với hệ thống quan trắc môi trường không khí của Trung tâm Khí tượng thuỷ
văn quốc gia và hệ thống quan trắc nước lục địa của Cục quản lý tài nguyên nước.
d. Đáp ứng các vấn đề về tài nguyên nước của Việt Nam:
Chính phủ Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả rất ấn tượng trong việc giải
quyết những vấn đề về quản lý tài nguyên nước của đất nước. Những kết quả này là do
tăng đầu tư của Nhà nước cho ngành nước từ 5.682 tỷ đồng trong năm 1996 lên đến 8.621
tỷ đồng trong năm 2001, mới có thể đạt được.
Cùng với việc tăng đầu tư và tăng cường năng lực, Chính phủ Việt Nam cũng đã xây
dựng và thực thi nhiều chính sách, chương trình đặc biệt chú trọng vào giải quyết các vấn
đề liên quan đến quản lý tài nguyên nước, bao gồm tăng tỷ lệ được sử dụng nước sạch và
vệ sinh, hạn chế ô nhiễm, bảo tồn tính đa dạng sinh học và bảo vệ các hệ sinh thái, nâng
cao tính bền vững của ngành thuỷ sản, giải quyết tính dễ bị tổn thương trước các thiên tai có
liên quan đến nước và tăng cường quản lý các lưu vực sông.
e. Các vấn đề về môi trường nước:
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước:
18
Ô nhiễm nguồn nước là một trong các thách thức thực tế phải đối mặt trong giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đôi lúc sự tăng trưởng kinh tế phiến diện đã dẫn đến
những hậu quả môi trường không kiểm soát được. Các nghiên cứu về các lưu vực sông đã
cho những kết quả đáng báo động. Sự ô nhiễm do nước thải từ các khu đô thị và các khu
công nghiệp trên hầu hết các lưu vực từ bắc đến nam đều có biểu hiện rõ rệt.
Đa dạng sinh học:
Đa dạng sinh học biển và nước ngọt của Việt Nam tương đối cao, nhưng đang bị đe
doạ bởi tình trạng ô nhiễm nước công nghiệp và sinh hoạt, các hoạt động xây dựng đường
sá và đập, nạo vét, đánh bắt quá mức và các kỹ thuật đánh bắt có tính huỷ diệt cũng như
nuôi trồng thuỷ sản đại trà.
Các vùng nước ngọt của Việt Nam giàu tính đa dạng sinh học về thực vật và động vật,
bao gồm 544 loài cá, 52 loài tôm, cua, 782 loài động vật không xương sống (ốc, vẹm, động
vật lưỡng cư, côn trùng) và các loài thực vật (20 loài rong và 1402 loài tảo). Các vùng biển
Việt Nam là nơi cư trú của hơn 2000 loài cá, trong đó có 130 loài có giá trị kinh tế cao. Ngoài
ra, còn có hơn 1.600 loài giáp xác và 2.500 loài thân mềm. Trong số này, có 101 loài nước
ngọt và 131 loài biển được xem là quý hiếm và đang bị đe doạ và đã được đưa vào sách đỏ
năm 2002. Các hệ sinh thái của Việt Nam cũng rất phong phú như các vùng ĐNN, rừng
ngập mặn, rạn san hô và các bãi cỏ biển.
Chất lượng nước :
Tình trạng ô nhiễm nước mặt, ngầm và các vùng nước ven bờ ở Việt Nam ngày càng
trở nên rõ rệt hơn. Mặc dù chất lượng nước ở các vùng thượng lưu còn khá tốt, nhưng các
đoạn sông hạ lưu của các con sông chính thì chất lượng nước lại kém và hầu hết các hồ,
ao, kênh mương trong các khu đô thị đang nhanh chóng trở thành các bể chứa nước thải.
Nước dưới đất cũng đã có hiện tượng ô nhiễm và nhiễm mặn ở một số nơi. Đô thị hoá và
công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng ở các vùng ven biển, các hoạt động xây dựng cảng và
phát triển hàng hải, phát triển du lịch ven biển và sự gia tăng các sự cố tràn dầu đã góp
phần làm suy giảm chất lượng nước ven biển.
Tính dễ bị tổn thương :
Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước thiên tai do các điều kiện về địa lý và địa hình của
đất nước. Các vùng bị ô nhiễm nặng như Hà nội thuộc đồng bằng sông Hồng, thành phố Hồ
Chí Minh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, các vùng ven biển miền Trung là những vùng rất
dễ bị thiên tai. Hàng năm, thiên tai như bão nhiệt đới, mưa dông, lũ lụt hay hạn hán đã gây
ảnh hưởng rất lớn đến người dân, sinh kế, đất nông nghiệp, chăn nuôi và cơ sở hạ tầng của
họ.
Tốn kém về kinh tế :
Trong các năm qua, Việt Nam đã có khoảng 6 triệu trường hợp bị nhiễm 6 loại bệnh
lây lan theo đường nước và đã phải chi ít nhất là 400 tỷ đồng để trực tiếp chữa chạy các
bệnh tả, thương hàn, lỵ và sốt rét. Ngoài chi phí về y tế, các khoản chi có liên quan đến xử lý
các nguồn tài nguyên nước và các hoạt động làm sạch sau các sự cố dầu tràn cũng rất lớn.
19
Tổng thiệt hại về mặt tài chính do một vụ dầu tràn lớn gây ra trong năm 2001 ước tính
khoảng 250 tỷ đồng (17 triệu đô la Mỹ) trong khi đó thì chi phí cho việc làm sạch nước và
các vùng bãi biển bị ô nhiễm lên tới 60 tỷ đồng (4 triệu đô la Mỹ). Chi phí thiệt hại do thiên tai
như lũ lụt trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2002 gây ra ước tính 18.700 tỷ đồng (hay
1,25 tỷ đô la Mỹ).
Ô nhiễm môi trường lưu vực do nước thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp
Nước thải từ 44 KCN, KCX của các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM và Bà Rịa- Vũng
Tàu thải ra hệ thống sông Sài Gòn- Đồng Nai mỗi ngày lờn đến 111.605m
3
nước thải, trong đó có
khoảng 15 tấn TSS, 76,93 tấn COD, 19,68 tấn BOD5, 1,6 tấn Nitơ và 542 kg P tổng làm cho nguồn
nước vượt TCCP nhiều lần. Tuy nhiên, tính đến đầu năm 2005, mới chỉ có 16 KCN là có nhà máy
xử lý nước thải tập trung.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết nhiệm vụ "Điều tra, thống kê và lập danh sách các nguồn thải gây ô nhiễm
đối với lưu vực hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai", Viện Môi trường và tài nguyên)
Ô nhiễm môi trường lưu vực do nước thải sinh hoạt từ các khu đô thị
Mức độ ô nhiễm từ sinh hoạt cũng không kém từ hoạt động sản xuất công nghiệp, trên LVS
Sài Gòn- Đồng Nai hiện nay có đến 116 khu đô thị mỗi ngày thải vào sông khoảng gần 1 triệu m
3
nước có chứa 375 tấn TSS, 244 tấn BOD5, 456 tấn COD, 46 tấn dầu mỡ động thực vật. cùng
nhiều vi khuẩn và vi trùng gây bệnh.
Ngoài ra, lưu vực sông Sài Gòn- Đồng Nai có đến 75 khu bãi rác thải, hàng ngàn khu chăn
nuôi. Hầu hết rác thải ở các tỉnh chưa có hệ thống xử lý và chủ yếu chôn lấp là chính, sự chôn lấp
không bảo đảm kỹ thuật làm cho các chất độc hại ngấm vào nước ngầm, hay hòa lẫn cùng nước
mưa chảy ra sông suối hòa cùng các chất hóa học từ thuốc trừ sâu, phân bón từ sản xuất nông
nghiệp mà cây trồng hấp thu chưa hết đổ ra sông chảy về xuôi...
(Nguồn: Báo cáo tổng kết nhiệm vụ "Điều tra, thống kê và lập danh sách các nguồn thải gây ô nhiễm đối với
lưu vực hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai", Viện Môi trường và Tài nguyên)
20
Ví dụ về sự ô nhiễm trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy
Hiện nay, về mùa khô sau khi tiếp nhận nước sông Tô Lịch, lưu lượng nước sông
Nhuệ tăng lên, nồng độ các chất ô nhiễm nước sông tăng vọt, sau đó giảm dần do khả năng
tự làm sạch của sông nhưng không đáng kể. Nồng độ các chất ô nhiễm ở khoảng cách 20
km về phía hạ lưu vẫn cao hơn giá trị ban đầu trong sông Nhuệ (trước điểm nhập lưu ở Đập
Thanh Liệt) đến 1,2-1,5 lần theo BOD
5
, 2-2,5 lần theo NH
3
, NO
3
và NO
2
. Fecal Coliform cao
hơn ban đầu 1,2-1,5 lần.
Ô nhiễm độ đục, DO, COD và BOD
5
tại các điểm đo ở hạ lưu cao hơn ở thượng lưu.
Độ đục ở thượng nguồn sông Đáy nhìn chung đạt tiêu chuẩn cho phép đối với nước
mặt loại A, chỉ có một vài điểm đo có giá trị vượt quá tiêu chuẩn A từ 1,2-1,5 lần. Đoạn từ
Phủ Lý đến hạ lưu sông Đáy có độ đục khá cao. Tại điểm đo ở Đò Mười, độ đục đạt 178,91
mg/l, vượt quá tiêu chuẩn A tới 9 lần, vượt quá tiêu chuẩn B tới 2,5 lần.
Hàm lượng DO đoạn đầu từ Liên Mạc đến Cầu Diễn là trên 6,5 mg/l, từ Cầu Diễn về
hạ lưu hàm lượng DO giảm dần, về đến Tó thì lượng DO lại càng giảm mạnh, chỉ khoảng
4,5 mg/l. Đặc biệt tại khu vực gần cửa xả sông Tô Lịch DO có giá trị nhỏ hơn 1 mg/l.
Đoạn đầu của sông Nhuệ, hàm lượng BOD
5
và COD đều nằm trong tiêu chuẩn cho
phép loại A (lớn hơn và bằng 4 mg/l). Nhưng đoạn từ Cầu Diễn trở về hạ lưu, các chỉ tiêu
này đều vượt quá tiêu chuẩn nguồn nước loại A. Đặc biệt là tại Cầu Tó sau điểm xả nước
Ô nhiễm nước mặt tại đoạn sông Cầu qua thành phố Thái Nguyên
Đoạn sông Cầu qua Tp Thái Nguyên có COD trung bình từ 20÷200mg/l vượt TCCP từ 2÷10
lần đối với nguồn loại A (<10mg/l) vượt đế́n gầ̀n 6 lầ̀n đối với nguồn loại B (<35mg/l). Tại khu vực
này, tại nhiề̀u vị trí hàm lượng COD đạt đế́n mức độ ô nhiễm rấ́t cao từ 550÷1.576mg/l vượt TCCP
đối với nguồn loại B tới 16÷45 lầ̀n. Hàm lượng BOD
5
trung bình từ 6÷200mg/l, vượt TCCP từ 1,5÷
50 lần đối với nguồn loại A (<4mg/l) và đến 8 lầ̀n khi so sánh ở mức B (25mg/l). Tại khu vực này, ô
nhiễ̃m hữu cơ có thể̉ đạt đế́n mức cao với BOD
5
từ 310÷490mg/l, vượt TCCP đối với nguồn loại B
tới 12÷20 lầ̀n.
Tại các điểm thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ; khu gang thép Thái Nguyên có mức
độ ô nhiễm cao. Các hợp chất hữu cơ: COD, BOD
5
, hàm lượng quỏ cao vượt quá tiêu chuẩn A
trung bình từ 2-5 lần (Cam Giá, cống thải Hoàng Văn Thụ, Cầu Loàng, Hương Canh..). Hàm lượng
NO
2
đó bị ô nhiễm với diện khá rộng và nồng độ cao, trung bình vượt quá tiêu chuẩn A từ 20 - 40
lần, vượt quá tiêu chuẩn B từ 10 - 20 lần, rất nhiều nơi vượt quá tiêu chuẩn A từ 200 - 250 lần,
thậm chớ tới 300 lần và vượt quá tiêu chuẩn B tới 50 lần. Dầu cũng là một trong những yếu tố ô
nhiễm cao, hầu như không đạt tiêu chuẩn A, rất nhiều nơi không đạt tiêu chuẩn B, thậm chí ở một
số nơi vượt qua tiêu chuẩn B tới vài chục lần.
21
thải từ sông Tô Lịch, nồng dộ BOD
5
và COD vượt quá từ 5 đến 7 lần so với tiêu chuẩn
nguồn nước loại A và cao hơn tiêu chuẩn nguồn nước loại B.
Hàm lượng cặn lơ lửng khá cao, có sự biến động mạnh giữa các vùng và các tầng.
Tại các điểm lấy mẫu trên sông Nhuệ, hàm lượng cặn lơ lửng đều đạt từ 40-60 mg/l,
vượt quá tiêu chuẩn A từ 2-3 lần mặc dù tại thời điểm khảo sát, cống Liên Mạc liên tục mở
nên nồng độ các yếu tố trên sông Nhuệ đã được pha loãng.
Tại các vị trí đo trên sông Đáy, hàm lượng cặn trung bình đạt từ 30-40 mg/l, vượt quá
tiêu chuẩn A từ 1,5-2 lần. Hàm lượng cặn lơ lửng lớn nhất tại các điểm đo ở cầu, bến đò,
cửa sông đạt từ 44-70 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn A từ 2-3,5 lần, có nơi như Đò Mười - Trực
Ninh cao gấp 9 lần tiêu chuẩn cho phép.
Ở các sông nội thành Hà Nội, độ cặn lơ lửng rất cao, trung bình từ 50-100 mg/l, vượt
quá tiêu chuẩn A nhiều lần và vượt quá tiêu chuẩn B từ 2,5 - 5 lần.
Ô nhiễm amoni (NH
4
+
) diễn ra trên diện khá rộng trong lưu vực.
Tại các vị trí lấy mẫu trên sông Nhuệ, hàm lượng NH
4
+
trung bình đạt từ 1,2-1,7 mg/l,
vượt tiêu chuẩn A từ 25-33 lần và vượt quá tiêu chuẩn B từ 1,2-1,7 lần.
Trên sông Đáy, hàm lượng NH
4
+
tại các vị trí đo đạt từ 0,06-1,5 mg/l, vượt quá tiêu
chuẩn A từ 1,2-30 lần, một số nơi vượt quá tiêu chuẩn B 1,5 lần.
Mức độ ô nhiễm NO
2
đã đến mức đáng báo động
Hầu hết các điểm đo trong lưu vực có giá trị vượt tiêu chuẩn A gấp 4-5 lần thậm chí có
nơi đến hàng chục, hàng trăm lần.
Tại các vị trí trên sông Nhuệ, hàm lượng NO
2
-
đạt từ 0,05-1,5 mg/l, cao hơn tiêu chuẩn
cho phép nhiều lần. Tại các vị trí trên sông Đáy, hàm lượng NO
2
-
tuy có thấp hơn so với
sông Nhuệ song vẫn không đạt tiêu chuẩn A và rất nhiều nơi không đạt tiêu chuẩn B.
4.6. Những tồn tại và thách thức
- Vấn đề đánh giá tài nguyên nước
- Sự xem xét mối quan hệ đất – nước – hệ sinh thái
- Chính sách và chiến lược nước
- Pháp chế và tiêu chuẩn nước
- Khung thể chế
- Sự tham gia vào kế hoạch quản lý
- Phân phối nước và giải quyết tranh chấp
22
Chương III
ĐÁNH GIÁ CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT
1. CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUNG
1.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội bền vững
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác vảo vệ
môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã đặt việc “Bảo vệ môi
trường là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân và toàn quân” lên vị trí hàng đầu, Nghị quyết số
41-NQ/TW (ngày 15/11/2004) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đánh giá tình hình môi trường, nêu lên các nguyên
nhân của thành công và yếu kém, đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, 3 mục tiêu, 5 nhiệm vụ chung,
2 nhiệm vụ cụ thể và 7 giải pháp bảo vệ môi trường. Một trong các nhiệm vụ được đề cập
đến trong nghị quyết này là “điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có kế
hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học”. Các quan điểm về phương hướng
chiến lược nêu trong nghị quyết này nhằm mục đích điều chỉnh các hoạt động của xã hội
trong giai đoạn quá độ tiến tới một nền sản xuất công nghiệp và xa hơn nữa là kinh tế tri
thức. Đây là giai đoạn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất cân bằng giữa phát triển kinh tế và duy trì
bảo vệ nguồn tài nguyên nói chung, tài nguyên nước nối riêng. Cho nên, xét một cách toàn
diện thì đây là một dạng văn bản định hướng, chiến lược, không phải là một văn bản hướng
dẫn nên không đưa ra các hoạt động cụ thể cần thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra.
Mục II/phần 4 của Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đã đề ra 4 hoạt động ưu tiên
đối với tài nguyên nước ở Việt Nam: hoàn thiện chính sách và pháp luật; hoạt động về kinh
tế; hoạt động kỹ thuật; nâng cao nhận thức.
Theo tiêu chí thực tiễn, bất cứ một chính sách nào cũng phải dựa trên sự đòi hỏi
khách quan trong quá trình phát triển của xã hội, định hướng phát triển bền vững không nằm
ngoài quy luật đó. Sự phát triển và quản lý tài nguyên nước được gắn liền với mỗi mục tiêu
và chiến lược quốc gia trong từng thời kỳ. Thành công của chủ trương phát triển bền vững
sẽ đóng góp quan trọng vào việc nâng cao đời sống nhân dân và mỗi ngành kinh tế - xã hội.
Điều này đã được khẳng định bằng các kết quả được ghi nhận qua việc cung cấp nước, tích
cực trong hoạt động thủy lợi, phòng chống lũ, lụt tạo thuận lợi để:
- Đạt được những thành quả chiến lược trong tăng trưởng lương thực một cách ổn
định. Khẳng định các sản phẩm lương thực không chỉ bảo đảm dự trữ quốc gia mà
còn tăng nhanh giá trị xuất khẩu (5,2 triệu tấn gạo/năm 2005). Sản lượng gạo qua
các năm được trình bày trên bảng 3.
23