Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

VỐN PHÁP ĐỊNH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.57 KB, 18 trang )

VỐN PHÁP ĐỊNH
I. Tổng quan về vốn pháp định
1. Vốn pháp định là gì?
2. Vai trò của vốn pháp định
3. Hạn chế của các Văn bản quy định về vốn pháp định qua các thời kỳ
II. Vốn pháp định trong NHTM
1. Khái niệm
2. Những thay đổi về vốn pháp định qua các thời kỳ
a. Văn bản quy định vốn pháp định đối với NHTM và mức thay đổi
qua các năm
b. Nguyên nhân sự thay đổi mức vốn pháp định qua các thời kì
III. Thực trạng quá trình tăng vốn pháp định của các NHTM
1. Những khó khăn của NH trong quá trình thay đổi vốn pháp định
2. Hệ quả của việc gia hạn tăng vốn pháp định
I. Tổng quan về vốn pháp định:
1. Vốn pháp định là gì?
Theo khoản 6 điều 4, luật Doanh nghiệp 2005, “Vốn pháp định là mức vốn tối
thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”. Điều này có
nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về vốn đối với một số ngành nghề cụ
thể và nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó từ bằng hoặc lớn hơn mức mà nhà nước
đặt ra thì mới được thành lập doanh nghiệp và hoạt động trong ngành nghề đó.
2. Vai trò của vốn pháp định
Luận bàn về vai trò của vốn pháp định, chúng ta thấy rằng ở một số nước, nhà
nước kiểm soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư, đặc biệt là năng lực
tài chính của họ dựa trên mức vốn tối thiểu nhà nước ấn định khi thành lập
doanh nghiệp (vốn pháp định). Đây được xem là biện pháp cần thiết để đánh giá
đúng thực lực và quy mô của nền kinh tế, hạn chế tình trạng nhà đầu tư ra
thương trường theo dạng “tay không ra trận”gây rủi ro cho nền kinh tế nói chung
và các đối tác của họ nói riêng. Vốn pháp định được xác định như là “ngưỡng”tài
chính tối thiểu mà nhà nước yêu cầu nhà đầu tư phải đáp ứng và chứng minh
bằng các phương thức khác nhau như mở tài khoản tại một tổ chức mà Nhà nước


quy định (thường là tại ngân hàng) để lấy giấy xác nhận của của tổ chức này hoặc
có kết quả kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập về hiện trạng tài sản của doanh
nghiệp, hoặc chứng thư định giá đối với tài sản bằng hiện vật của tổ chức định giá
hoạt động hợp pháp tại Việt Nam rồi mới được phép hoạt động kinh doanh.
3. Hạn chế của các Văn bản quy định về vốn pháp định qua các thời kỳ
Một là, nhìn vào danh mục các ngành nghề kinh doanh phải đáp ứng yêu cầu về
vốn pháp định có thể nhận thấy một điều đáng lo ngại là danh mục các ngành
nghề phải có vốn pháp định ngày càng có chiều hướng tăng cao, nhất là từ năm
2007 đến nay. Trước đây, trong giai đọan từ năm 1990 - 1999 một trong những
điều kiện cơ bản để thành lập doanh nghiệp lúc đó là phải có vốn pháp định, cho
nên Nghị định 221/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 23/07/1991 đã
công bố danh mục của gần 100 ngành nghề phải đáp ứng mức vốn pháp định với
ngưỡng vốn rất thấp, không phù hợp, mang tính đại trà, đã gây nên những phản
ứng gay gắt trong xã hội. Đến khi Luật Doanh nghiệp (1999) ra đời thì chỉ còn 4
ngành nghề là kinh doanh tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh
chứng khoán và kinh doanh vàng bạc là có quy định vốn pháp định (riêng ngành
kinh doanh vàng bạc thì từ năm 2005 đã chính thức bị bãi bỏ). Như vậy, trong giai
đoạn từ năm 2000 đến ngày 30/06/2006 thực chất chỉ tồn tại 3 - 4 ngành nghề kinh
doanh phải có vốn pháp định.
Tuy nhiên, từ ngày 01/07/2006 đến nay, khi vận hành Luật Doanh nghiệp (2005),
cùng với đó là nhiều đạo luật chuyên ngành khác cũng được ban hành như Luật
Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Điện ảnh… thì danh mục các
ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định lại được mở rộng. Bên cạnh ba
ngành nghề kinh doanh tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh
chứng khoán như đề cập trên thì các ngành nghề khác như dịch vụ đòi nợ thuê
(theo Nghị định 104/CP ngày 14/06/2007), dịch vụ bảo vệ (theo Nghị định 52/CP
ngày 24/04/2008), vận chuyển hàng không (theo Nghị định 76/CP ngày
09/05/2007), kinh doanh bất động sản (theo Nghị định 153/CP ngày 27/10/2007)
và kinh doanh sản xuất phim (theo Nghị định 96/CP ngày 06/06/2007) đã được
chính thức bổ sung phải có vốn pháp định cho những doanh nghiệp thành lập mới

và đã thành lập.
Điều này là không thực sự thuyết phục vì hàng loạt các ngành nghề mới vừa bổ
sung vốn pháp định trong thời gian ngắn ngủi vừa qua cũng chưa thực sự cần thiết.
Các ngành nghề đó nhà đầu tư đã kinh doanh, đã thành lập doanh nghiệp nhưng
không phát sinh các vấn đề lớn liên quan đến vốn của doanh nghiệp thì có cần thiết
phải đặt ra quy định mới về vốn pháp định không, khi mà điều này dễ gây nên
những xáo trộn lớn ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của hàng nghìn, hàng
chục nghìn doanh nghiệp. Đặc biệt các ngành nghề như dịch vụ bảo vệ, dịch vụ đòi
nợ thuê là những ngành nghề mà chi phí bỏ ra không lớn, dân gian thường quan
niệm “lấy công kiếm lời” thì có cần thiết phải quy định mức vốn 2 tỷ như trên
không? Quy định mức vốn pháp định như vậy là không phù hợp với yêu cầu phát
huy nội lực mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Thiết nghĩ, các cơ quan chức
năng cần phải có sự điều chỉnh vấn đề số lượng ngành nghề kinh doanh phải có
vốn pháp định trong thời gian tới, tránh tình trạng quay trở lại cơ chế cũ như Nghị
định 221/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 23/07/1991, quy định số lượng
ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định tràn lan không cần thiết, gây trở
ngại cho tự do kinh doanh của người dân.
Hai là, nhiều quy định về vốn pháp định không phù hợp, gây khó khăn rất lớn
cho doanh nghiệp trong thành lập và hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Nghị
định 104/CP ngày 14/06/2007 của Chính phủ quy định về mức vốn pháp định để
thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu hồi nợ thuê là 2 tỷ đồng nhưng kèm theo
điều kiện hết sức khắc nghiệt là doanh nghiệp chỉ được duy trì mức vốn tối thiểu 2
tỷ đồng này chỉ để kinh doanh một ngành nghề duy nhất là đòi nợ thuê, không
được phép kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào khác! Quy định này vô hình trung đã
khiến hàng trăm doanh nghiệp trong lĩnh vực đòi nợ thuê hết sức điêu đứng. Họ
cho rằng, nếu chỉ cho phép kinh doanh đòi nợ thuê mà vốn ít nhất là 2 tỷ đồng thì
khả năng sinh lợi của nguồn vốn đồ sộ đó từ ngành nghề này kém, không phù hợp.
Do đó, nhiều doanh nghiệp tạm thời từ bỏ ngành nghề kinh doanh đòi nợ thuê hấp
dẫn này và biến tướng qua hình thức thành lập các văn phòng luật sư cũng để kinh
doanh… đòi nợ thuê, nhưng không dưới dạng doanh nghiệp thì không chịu áp lực

về vốn pháp định theo Nghị định 104/CP (14/06/2007).
Hoặc trường hợp Nghị định 153/CP (27/10/2007) của Chính phủ quy định doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định tối thiểu 6 tỷ đồng. Sau đó,
Bộ Xây dựng lại ban hành Thông tư số 13/TT-BXD ngày 21/05/2008 thì lại giải
thích quy trình xác nhận vốn pháp định hết sức rối rắm, đó là “phải có xác nhận
của ngân hàng thương mại họat động tại Việt Nam về số tiền ký quỹ của các thành
viên sáng lập” (Mục 1.1.2 Thông tư 13/TT-BXD). Ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa
khái niệm vốn pháp định và tiền ký quỹ, hoặc đối với trường hợp góp vốn bằng tài
sản thì phải có chứng thư định giá hoặc nếu bổ sung ngành nghề kinh doanh bất
động sản thì phải có văn bản xác nhận của tổ chức kiểm toán. Những quy định này
đã làm cho vấn đề xác nhận vốn pháp định trở nên quá phức tạp, tốn kém không
cần thiết cho nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Trên thực tế, ở nước ta,
đã có khoảng 30.000 doanh nghiệp có chức năng kinh doanh doanh bất động sản
thì có bao nhiêu doanh nghiệp đáp ứng quy trình xác nhận vốn pháp định đó của
Bộ Xây dựng?
Ba là, quy định hàng loạt các ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định
như nêu trên nhưng vấn đề giám sát, quản lý doanh nghiệp duy trì mức vốn
trong những ngành nghề đó sau đăng ký kinh doanh vẫn còn nhiều điều phải
bàn về tính hiệu quả của nó. Cơ quan nào có chức năng giám sát mức vốn trên
của doanh nghiệp? Nếu nhà đầu tư gian dối lách luật bằng cách vay mượn tiền bỏ
vào ngân hàng, thành lập doanh nghiệp xong rút ra trả lại cho chủ nợ thì giải quyết
sao? Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/CP ngày 04/04/2007 quy
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đầu tư, đăng ký kinh doanh… tại Khoản
3 Điều 32 của Nghị định này quy định mức phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến
10.000.000 triệu đồng đối với hành vi không duy trì mức vốn pháp định đối với
doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề phải có vốn pháp định. Nhưng sau hơn một
năm thực thi Nghị định 53/CP, không có nhiều doanh nghiệp bị phát hiện và xử
phạt hành chính đối với hành vi vi phạm trên. Đến thời điểm này, hầu hết ở các địa
phương trực tiếp thực thi Luật Doanh nghiệp và các đạo luật chuyên ngành khác có
liên quan đến vốn pháp định đều hết sức lúng túng trong khâu quản lý, kiểm tra và

xử phạt đối với doanh nghiệp vi phạm mức vốn pháp định và cách thức quản lý
doanh nghiệp trong những ngành nghề này.
Kết luận
Với những tồn tại và hạn chế trên của quy định về vốn pháp định, thiết nghĩ trong
thời gian tới, khi cần quy định về vốn pháp định, Nhà nước cần phải tiếp thu ý
kiến phản biện của xã hội để đảm bảo những quy định về vốn pháp định thực
sự khoa học và phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Điều này sẽ khắc phục được
tình trạng quy định về vốn pháp định tràn lan không cần thiết. Mặt khác, doanh
nghiệp chỉ lo đối phó cho xong quy định đó, còn cơ quan chức năng lại lơ là trong
công tác hậu kiểm, làm giảm tính hiệu quả của pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến
phát huy nội lực trong nhân dân.
II. Vốn pháp định của NHTM
1. Khái niệm
Có thể nói vốn pháp định là nguồn vốn có vai trò tiên quyết đối với sự hình thành
và tồn tại của các ngân hàng thương mại.
Theo khoản 1, điều 20, Luật các tổ chức tín dụng, 1 trong những điều kiện để NH
được cấp giấy phép hoạt động là “Có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức
vốn pháp định”.
Cùng với đó, cũng theo Luật các tổ chức tín dụng, các yêu cầu về vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng được quản lý khá chặt chẽ.
“1. Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì giá trị thực của
vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định.
3. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể việc xử lý trường hợp khi giá trị thực của
vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài giảm thấp hơn mức vốn pháp định.”
2. Những thay đổi trong quy định về vốn pháp định đối với NHTM VN.
a. Văn bản quy định vốn pháp định đối với NHTM và mức thay đổi
qua các năm:

- Quyết định 67/QĐ-NH5 (27/3/1996) VỀ MỨC VỐN ĐIỀU LỆ TỐI
THIỂU ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG THÀNH LẬP TỪ
NĂM 1996
Theo khoản 1, điều 1, Quyết định 67/QĐ-NH5:
Điều 1. Quy định mức vốn điều lệ tối thiểu đối với các tổ chức tín dụng thành lập
từ năm 1996 như sau:
1. Ngân hàng Thương mại cổ phần:
1.1. - Đô thị
- Tại thành phố Hồ Chí Minh: 150 tỷ VNĐ
- Tại Hà Nội: 100 tỷ VNĐ
- Tại các tỉnh, thành phố khác: 50 tỷ VNĐ
1.2. - Nông thôn:
- Có Chi nhánh: 10 tỷ VNĐ
- Không có Chi nhánh: 3 tỷ VNĐ
2. Công ty Tài chính:
2.1. Cổ phần: 50 tỷ VNĐ
2.2. Trong Tổng công ty Nhà nước: 30 tỷ VNĐ
- Nghị định 82/1998/NĐ-CP VỀ BAN HÀNH DANH MỤC MỨC
VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
- DANH MỤC
MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
(Ban hành kèm theo Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm
1998 của Chính phủ)
TT Ngân hàng Mức vốn
pháp định
Đơn vị
I- Ngân hàng.
1. Ngân hàng thương mại.
a) Ngân hàng thương mại quốc doanh
- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Việt Nam 2.200 tỷ VND
- Các ngân hàng thương mại quốc doanh khác 1.100 tỷ VND
b) Ngân hàng thương mại cổ phần :
- Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị :
+ Tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh 70 tỷ VND
+ Tại các tỉnh, thành phố khác 50 tỷ VND
- Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn 5 tỷ VND
2. Ngân hàng Phát triển 1.000 tỷ VND
3. Ngân hàng Đầu tư 500 tỷ VND
4. Ngân hàng Chính sách 500 tỷ VND
5. Ngân hàng hợp tác
a) Ngân hàng hợp tác đô thị 5 tỷ VND
b) Ngân hàng hợp tác nông thôn 3 tỷ VND
6. Quỹ tín dụng nhân dân :
a) Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ VND
b) Quỹ tín dụng nhân dân khu vực 1 tỷ VND
c) Quỹ tín dụng nhân dân trung ương 100 tỷ VND
7. Hợp tác xã tín dụng 0,1 tỷ VND
8. Ngân hàng liên doanh 10.000.000 USD
9. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 15.000.000 USD
II- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt Nam 50 tỷ VND
2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh với nước
ngoài
5.000.000 USD
3. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước
ngoài
5.000.000 USD
- Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về ban hành Danh mục mức vốn pháp
định của các tổ chức tín dụng

DANH MỤC
MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
(Ban hành kèm theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính
phủ)
STT
Loại hình tổ chức tín
dụng
Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm
2008 2010
I Ngân hàng
1 Ngân hàng thương mại
a Ngân hàng thương mại Nhà
nước
3.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
b Ngân hàng thương mại cổ
phần
1.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
c Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
d Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài
1.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
đ Chi nhánh Ngân hàng nước

ngoài
15 triệu
USD
15 triệu USD
2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ
đồng
5.000 tỷ đồng
3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ
đồng
5.000 tỷ đồng
5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
6 Quỹ tín dụng nhân dân
a Quỹ tín dụng nhân dân TW 1.000 tỷ
đồng
3.000 tỷ đồng
b Quỹ tín dụng nhân dân cơ
sở
0,1 tỷ đồng 0,1 tỷ đồng
II Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng

1 Công ty tài chính 300 tỷ đồng 500 tỷ đồng
2 Công ty cho thuê tài chính 100 tỷ đồng
150 đồng
- Nghị định số 10/2011/NĐ-CP VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT

SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 141/2006/NĐ-CP NGÀY 22
THÁNG 11 NĂM 2006 VỀ BAN HÀNH DANH MỤC MỨC VỐN
PHÁP ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
DANH MỤC
MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG5
(Ban hành kèm theo Nghị định số 10/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 01 năm 2011 của Chính
phủ)
STT Loại hình tổ chức tín dụng
Mức vốn pháp định áp
dụng cho đến năm 2011
I Ngân hàng
1 Ngân hàng thương mại
a Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng
b Ngân hàng thương mại cổ phần 3.000 tỷ đồng
c Ngân hàng liên doanh 3.000 tỷ đồng
d Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 3.000 tỷ đồng
đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD
2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng
3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng
4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng
5 Ngân hàng hợp tác 3.000 tỷ đồng
6 Quỹ tín dụng nhân dân
a Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 3.000 tỷ đồng
b Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ đồng
II Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1 Công ty tài chính 500 tỷ đồng
2 Công ty cho thuê tài chính 150 tỷ đồng
- Nghị định 07/VBHN-NHNN VỀ BAN HÀNH DANH MỤC MỨC
VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG là văn bản hợp
nhất Nghị định số 141/2006/NĐ-CP và Nghị định số 10/2011/NĐ-

CP
Qua các văn bản trên ta có bảng tổng hợp về mức vốn pháp định đối với NHTM
VN (Đơn vị: tỷ VNĐ)
STT Loại hình NHTM Mức vốn pháp định áp dụng từ các năm
1996 1998 2008 2010 2011
I Ngân hàng thương mại nhà
nước
3000 3000 3000
1 Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam
2200
2 Các ngân hàng thương mại
quốc doanh khác
1100
II Ngân hàng thương mại cổ
phần
1000 3000 3000
1 Ngân hàng thương mại cổ phần
đô thị
1.1 Tại thành phố Hà Nội, thành
phố
Hồ Chí Minh
100-
150
70
1.2 Tại các tỉnh, thành phố khác 50 50
2 Ngân hàng thương mại cổ phần
nông thôn
3-10 5
III Ngân hàng liên doanh 1000 3000 3000

IV Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài
1000 3000 3000
V Chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài
15
triệu
USD
15
triệu
USD
15
triệu
USD
b. Nguyên nhân sự thay đổi mức vốn pháp định qua các thời kì:
Kể từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp, thị trường ngân hàng nước ta
đã chứng kiến không ít những biến động thăng trầm, nhất là sự phát triển quá
nhanh các NHTM cổ phần, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng trong khi NHNN
chưa đủ quyền lực và thực lực để quản lý và kiểm soát các tổ chức tín dụng
(TCTD) đã được hình thành trong những năm 1987, 1988, 1989. Vì vậy, đã có
hàng loạt các NHTM cổ phần, quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng bị đổvỡ, gây
không khí ảm đạm và sự trả giá quá đắt trong hoạt động ngân hàng những năm
1989- 1990.
Tính đến ngày 31/12/1995, Việt Nam đã có 73 ngân hàng (không kể 182 quỹ tín
dụng nhân dân) với khoảng 452.138 lao động, tổng tài sản có vào khoảng 46.912 tỷ
VND (khoảng 4.500 triệu USD).
Sau 3 năm gia nhập WTO, số lượng các TCTD không ngừng tăng về số lượng. So
với thời điểm 31/12/1997 khi Luật các TCTD đã được Quốc hội thông qua (sau
này gọi tắt là Luật các TCTD), đến 31/12/2008, hệ thống TCTD gồm có: 05
NHTM Nhà nước; 01 Ngân hàng Chính sách xã hội; 01 Ngân hàng Phát triển; 40

NHTM cổ phần (giảm 11 ngân hàng); 45 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (tăng 22
chi nhánh ngân hàng nước ngoài); 05 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 55 văn
phòng đại diện của các TCTD nước ngoài, 17 công ty tài chính (tăng 15 Công ty
tài chính); 13 công ty cho thuê tài chính (tăng 10 công ty); 01 Quỹ tín dụng TW và
1.019 quỹ tín dụng cơ sở (tăng 80 quỹ tín dụng cơ sở). Một điểm đáng lưu ý là từ
năm 2006 đến nay, một số ngân hàng đã chuyển từ mô hình NHTM cổ phần nông
thôn thành NHTM cổ phần đô thị, nhất là các NHTM vừa thay đổi tên và chuyển
đổi mô hình hoạt động như NHTM cổ phần nông thôn Đồng Tháp Mười thành
NHTM cổ phần Xăng Dầu Petrolimex; NHTM cổ phần nông thôn Ninh Bình thành
NHTM cổ phần Dầu Khí Toàn Cầu … Khi các NHTM cổ phần nông thôn chuyển
thành NHTM cổ phần đô thị sẽ được mở rộng phạm vi hoạt động. Do vậy, thị
trường ngân hàng Việt Nam vốn đã “chật hẹp” nay lại càng chật hẹp hơn.
Số lượng các TCTD nước ta hiện nay là quá nhiều so với quy mô dân số nước ta.
Trong khi đó, Hàn Quốc với dân số gần 50 triệu người chỉ có chưa đầy 20 ngân
hàng (tại thời điểm khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu Á năm 1997, Hàn Quốc
có 33 ngân hàng nhưng sau đó có 5 ngân hàng buộc phá sản, 10 ngân hàng khác
sáp nhập để đến nay tổng số ngân hàng chỉ còn là 18, trong đó có 13 NHTM và 5
ngân hàng chuyên biệt), Singapore chỉ có 4 ngân hàng nội địa, Thái Lan có khoảng
10 ngân hàng và Trung Quốc chỉ có một ngân hàng cổ phần.
Trước thời điểm khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á 1997, số lượng ngân hàng
ở các quốc gia này cũng rất nhiều, nhưng sau đó hàng loạt ngân hàng đã được sáp
nhập, hợp nhất, mua lại để tái cơ cấu, tránh đổ vỡ liên hoàn của hệ thống tài chính
quốc gia. Sự tồn tại nhiều chủ thể cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường ngân
hàng nước ta sẽ làm cho thị trường ngân hàng nước ta manh mún, khó tạo lập
được các NHTM có sức mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Do
hoạt động trong một thị trường chật hẹp, các NHTM buộc phải dùng mọi biện pháp
để giành, giữ thị trường. Thực trạng này nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ là
nguyên nhân của những bất ổn trên thị trường ngân hàng.Theo một cuộc điều tra
của tổ chức phát triển Liên hợp quốc UNDP nửa cuối năm 2005 cho thấy, 45%
khách hàng được hỏi, kể cả doanh nghiệp và cá nhân đều trả lời sẽ chuyển sang

vay vốn ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng trong nước. 50%
khách hàng được hỏi trả lời sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế,
50% số người còn lại được hỏi lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt
là ngoại tệ. Đã đến lúc NHNN cần có một cuộc “sàng lọc” để tìm kiếm các NHTM
đáp ứng được các đòi hỏi của pháp luật cũng như đủ sức cạnh tranh được với các
NHTM có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo cam kết khi gia nhập WTO, nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập sự hiện
diện thương mại tại nước ta dưới các hình thức lập văn phòng đại diện, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, tham gia ngân hàng liên doanh và thành lập
ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Về tham gia cổ phần: (i) Việt Nam
có thể hạn chế việc tham gia cổ phần của các TCTD nước ngoài tại các NHTM
quốc doanh của Việt Nam được cổ phần hoá như mức tham gia cổ phần của các
ngân hàng Việt Nam; (ii) Đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng
số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi
NHTM cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân
hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Với các cam kết về mở của thị trường cung
ứng dịch vụ ngân hàng trên, các ngân hàng đa quốc gia đang rất hoan hỉ với tương
lai và tiềm năng phát triển tại Việt Nam.
Việc tồn tại quá nhiều ngân hàng quy mô nhỏ sẽ làm cho cuộc chiến giành giật thị
trường càng trở nên quyết liệt hơn, rủi ro trên trong kinh doanh ngân hàng theo đó
sẽ tăng lên. Nhìn một các tổng thể, các NHTM trong nước cần có cái nhìn xa hơn
trong việc giành và giữ thị trường, nhất là các NHTM trong nước chủ động trong
việc phối hợp, liên kết lại với nhau để giữ lại số NHTM “vừa đủ” cạnh tranh với
các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy có thể thấy việc NHNN thay đổi quy định về vốn pháp định nhằm mục
đích thanh lọc các NHTM, thích hợp với sự phát triển của đất nước, làm vững
mạnh và trong sạch thị trường ngân hàng Việt Nam.
III. Thực trạng tăng vốn pháp định của các NHTM
3.1. Những khó khăn của ngân hàng trong quá trình nâng vốn pháp định

Ngay từ đầu năm 2010, NHNN đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo quyết liệt, yêu
cầu Chi nhánh NHNN các tỉnh, các tổ chức tín dụng (TCTD) phải thực hiện
nghiêm chỉnh quy định về tăng vốn pháp định của Chính phủ, như Công văn số
397/NHNN-TTGSNH ngày 14/01/2010 yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà
nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước
ngoài, TCTD phi ngân hàng không phải là TCTD phi ngân hàng cổ phần xây dựng
kế hoạch tăng vốn điều lệ năm tài chính 2010; Công văn số 398/NHNN-TTGSNH
yêu cầu Giám đốc chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố chỉ đạo các TCTD có trụ
sở chính trên địa bàn triển khai các công việc Báo cáo tình hình tăng vốn điều lệ
năm 2009 theo chấp thuận của NHNN; và Công văn số 9199/NHNN-TTGSNH của
NHNN gửi Giám đốc NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố chỉ đạo về việc thực
hiện Nghị định số 141 về việc tăng vốn pháp định của các TCTD và yêu cầu các
Chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố phải báo cáo về tiến độ thực hiện tăng vốn
của các ngân hàng tại địa bàn chậm nhất vào ngày 20/12/2010…
Tuy nhiên, diễn biến nền kinh tế nước ta trong 2010 đã cản trở không nhỏ đến việc
tăng vốn pháp định của các NHTM như “lạm phát so với cùng kỳ năm trước lên tới
11,75%, lãi suất cho vay tăng vọt lên 15-18%, chênh lệch tỷ giá trong và ngoài
ngân hàng lên tới trên 10%, nhập siêu (không kể vàng) xấp xỉ 15 tỉ đô la, dự trữ
ngoại hối đã giảm xuống mức thấp, thâm hụt ngân sách vẫn nằm ngoài ngưỡng an
toàn… Nguyên nhân chính là do việc quá ham chạy theo tăng trưởng ngắn hạn
trong một nền kinh tế kém hiệu quả, đặc biệt là ở khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Không những thế, chính sách tiền tệ và tài khóa thiếu phối hợp, thậm chí mâu
thuẫn nhau, khiến cho môi trường vĩ mô vốn đã bất ổn càng trở nên bất định và ẩn
chứa nhiều bất trắc. Trong môi trường này, phản ứng phổ biến của doanh nghiệp là
phòng thủ hay đánh quả, phản ứng phổ biến của người dân có tiền là tích trữ vàng,
đô la, hay bất động sản - các hành vi không những không tạo ra giá trị gia tăng mà
còn làm tăng thêm sự bất ổn của thị trường và của môi trường vĩ mô”1.
Trước tình hình khó khăn như vậy, các NHTM vẫn quyết tâm thực hiện yêu cầu
tăng vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Theo Ủy ban chứng khoán Nhà
nước, dù hầu hết các ngân hàng đã được NHNN chấp thuận và được Ủy ban

Chứng khoán cấp phép chào bán cổ phần, nhưng khó có thể hoàn thành đúng hạn,
đặc biệt là những ngân hàng mới được chấp thuận phương án tăng vốn và chào bán
chứng khoán cuối tháng 11 năm 2010.
=> Sau 4 năm kể từ ngày Nghị định số 141 có hiệu lực, mới chỉ có 17 NHTM đáp
ứng mức yêu cầu về vốn pháp định, còn tới 23 NHTM chưa đáp ứng yêu cầu.
3.2. Hệ quả của việc gia hạn tăng vốn pháp định
Để ổn định thị trường, tránh xáo động và những hậu quả khác từ việc “xử lý tư
cách pháp lý” của các NHTM nếu không đáp ứng đủ yêu cầu về vốn pháp định,
ngày 14/12/2010, NHNN đã có kiến nghị đề nghị Chính phủ cho phép gia hạn tăng
vốn đối với các NHTM và đã “được chấp thuận”. Trên cơ sở đề nghị của NHNN,
Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo giao NHNN phối hợp cùng các cơ quan liên
quan trình Chính phủ trước ngày 15/12/2010 việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 141.
Dưới góc độ quản lý nhà nước việc NHNN đề nghị gia hạn là phù hợp với thẩm
quyền và tình hình kinh tế nước ta trong năm 2010. Mặc dù vậy, cách giải quyết
của NHNN khi đề nghị gia hạn thời gian tăng vốn cho các NHTM vẫn là một can
thiệp thiếu kiên quyết và không kịp thời trước diễn biến của thị trường, sẽ dẫn đến
những hệ quả xấu trong quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cụ thể
là:
Thứ nhất, làm giảm hiệu lực của quy định pháp luật trong thực tiễn. Khi ban hành
văn bản pháp luật, Nhà nước mong muốn quy định đó được thực hiện một cách
nghiêm minh, bất kỳ tổ chức, cá nhân nào không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ sẽ phải chịu những biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Nhìn vào quá trình tăng vốn của các NHTM Việt Nam trong năm qua, số lượng
NHTM đáp ứng đủ vốn 3.000 tỷ còn khá khiêm tốn. Trong số các NHTM tăng
vốn, có rất ít ngân hàng đáp ứng đủ, thậm chí có những ngân hàng mới chỉ đạt mức
vốn pháp định 2.000 tỷ đồng. Chẳng hạn, “kết thúc đợt chào bán trong tháng 11,
ngân hàng Nam Việt đã chào bán thành công 82 triệu cổ phần, tăng vốn lên 1.820
tỷ đồng; ngân hàng Gia Định tăng vốn lên 2.000 tỷ đồng vào ngày 11/11/2010;
ngân hàng Kiên Long cũng tăng vốn lên 2.000 tỷ đồng Một số ngân hàng khác
như Bắc Á, Đệ Nhất, Việt Nam Thương Tín (Vietbank) đã được NHNN chấp

thuận tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng, nhưng việc chào bán hiện nay chưa có kế hoạch
cụ thể. Trong khi nhu cầu tăng vốn đang lớn thì không ít ngân hàng lại đối mặt với
tình trạng các cổ đông xin thoái lui hoặc không mặn mà với cổ phiếu mới, như một
số cổ đông hiện hữu của BaoVietBank đến hết hạn nộp tiền vẫn không thực hiện
quyền mua cổ phiếu tăng vốn của mình. Cổ đông lớn của Navibank là Tập đoàn
Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã quyết định thoái vốn khỏi ngân hàng này. Trước
đó, Vinatex với tỷ lệ cổ phần nắm giữ 11% đã quyết định thoái vốn khỏi
GiaDinhBank. Còn tại PGBank, một cổ đông lớn là Công ty CP Xây lắp III
Petrolimex (Penjico) đã “từ chối” quyền mua cổ phần phát hành thêm và chuyển
quyền mua cổ phần PGBank cho cổ đông của mình. Các ngân hàng đã tìm đủ mọi
cách để tăng đủ vốn, song xem ra “lực bất tòng tâm”. Một số ngân hàng cứ có kế
hoạch trình bày với cơ quan nhà nước đã, còn việc thực chất tăng có đủ và có kịp
không thì không quan trọng, và sẽ “giải trình sau”2.
Việc gia hạn tăng vốn cũng đồng nghĩa với việc, các NHTM không tăng đủ vốn
theo lộ trình cũng sẽ “không bị sao cả”, nghĩa là vẫn tồn tại, vẫn hoạt động, không
hề bị ảnh hưởng gì. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, những khó khăn trong
quá trình tăng vốn hoàn toàn có thể tiên liệu được, NHNN hoàn toàn có thể đệ
trình phương án gia hạn tăng vốn sớm hơn để chuẩn bị đầy đủ cơ sở pháp lý cho
việc gia hạn này. Tuy nhiên, việc ban hành Nghị định về sửa đổi, bổ sung Nghị
định 141 chỉ được NHNN phối với các cơ quan hữu quan xây dựng khi phương án
gia hạn tăng vốn được Chính phủ chấp thuận. Và như vậy, quy định của Nghị định
141 cũng chỉ là một “vật trang sức” quý giá trên thị trường ngân hàng mà thôi! Và
như thế, hiệu lực và hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ, mục tiêu bảo
đảm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống
các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc
gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của NHNN liệu có đạt được?
Thứ hai, cách giải quyết của NHNN mang tính đối phó, không có kế hoạch và
mang tính “vụ việc”. Như đã phân tích ở trên, kinh tế Việt Nam năm 2010 gặp
nhiều khó khăn, việc huy động vốn của các NHTM thông qua thị trường chứng
khoán còn gặp nhiều khó khăn hơn. Bởi lẽ, thị trường chứng khoán trong suốt một

thời gian dài hoạt động cầm chừng, trong khi nhiều ngân hàng cùng tăng vốn một
lúc, làm cho cổ phiếu ngân hàng không còn hấp dẫn nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà đầu tư tổ chức cũng gặp
khó khăn trong việc mở rộng đầu tư ra các quốc gia khác. Vì thế, hầu hết các
nguồn tăng vốn điều lệ chủ yếu của tổ chức tín dụng như phát hành cổ phiếu cho
các cổ đông hiện hữu, phát hành ra công chúng hay phát hành cho các nhà đầu tư
nước ngoài đều không thuận lợi. Bên cạnh đó, chủ trương của Chính phủ trong
việc hạn chế các Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước góp vốn ra ngoài lĩnh vực
chính và yêu cầu các doanh nghiệp này thoái vốn tại các tổ chức tín dụng để tập
trung vào hoạt động kinh doanh chủ yếu cũng là một khó khăn lớn cho các TCTD
cổ phần có cổ đông hiện hữu là các Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước này khi
thực hiện tăng vốn điều lệ. Một số TCTD cổ phần đã niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán cũng gặp phải một số quy định về thời gian khi phát hành cổ
phiếu ra công chúng mà không thể hoàn tất việc tăng vốn điều lệ đúng thời hạn quy
định3. Đáng lẽ, trước những khó khăn của các NHTM trong việc tăng vốn pháp
định, thay vì những chỉ đạo “kiên quyết” như đã nêu trên, NHNN phải có “kế
hoạch dự phòng”, trong trường hợp các NHTM không tăng đủ vốn theo quy định
thì sẽ xử lý như thế nào?
Nhìn vào cách chỉ đạo “kiên quyết” của NHNN ở đầu năm, nhiều nhà nghiên cứu
khi đó đã “dự đoán” sẽ có một xu hướng hợp nhất, sáp nhập, mua tại NHTM ở
Việt Nam hoặc sẽ có NHTM phải giải thể. Do vậy, khi việc gia hạn tăng vốn điều
lệ cho các NHTM được chấp thuận, đã có quan điểm cho rằng, thực chất việc gia
hạn tăng vốn điều lệ là “nhằm giải cứu các NHTM khỏi những hệ lụy xấu từ việc
phải sáp nhập, giải thể hoặc bán cổ phần”4. Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ nhìn nhận
việc “gia hạn” tăng vốn pháp định như vậy là khó thuyết phục. Bởi lẽ, hợp nhất,
sáp nhập, mua lại doanh nghiệp nói chung, hợp nhất, sáp nhập, mua lại NHTM nói
riêng là quyền của các doanh nghiệp. Hành vi hợp nhất, sáp nhập, mua lại doanh
nghiệp bị cấm khi vi phạm luật cạnh tranh. Do vậy, thực chất của hợp nhất, sáp
nhập, mua lại doanh nghiệp là hệ quả của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường, là những hình thức tập trung kinh tế được pháp luật thừa nhận.

Tập trung kinh tế là sự tập hợp các nguồn lực kinh tế bằng hành vi sáp nhập, hợp
nhất, mua lại hoặc liên doanh mà không phải là quá trình tích tụ tư bản thông
thường. Nếu như giải thể và phá sản doanh nghiệp được coi như những phương
thức giải quyết số phận của các doanh nghiệp gặp khó khăn và kinh doanh kém
hiệu quả, thì hợp nhất, sáp nhập, mua lại NHTM sẽ góp phần cơ cấu lại các NHTM
kinh doanh kém hiệu quả, song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị trường.
Nói khác đi, hợp nhất, sáp nhập, mua lại NHTM không làm giá trị đầu tư chung
trên thị trường liên quan giảm đi, mà trái lại, sáp nhập, mua lại, hợp nhất NHTM
đóng vai trò của quá trình điều phối các nguồn lực kinh tế từ những người sử dụng
kém hiệu quả để tập trung vào doanh nghiệp có khả năng sử dụng tốt hơn. Khi đó,
số lượng NHTM có thể giảm đi song giá trị đầu tư của thị trường không giảm sút5.
Có thể khẳng định rằng, phương án hợp nhất, sáp nhập, mua lại NHTM trong điều
kiện hiện nay cần được nhìn nhận là giải pháp tối ưu để tái cấu trúc thị trường ngân
hàng Việt Nam, là giải pháp hữu hiệu nhất để đáp ứng nhu cầu vốn pháp định của
các NHTM quy mô nhỏ. Đối với các TCTD, khung pháp luật về hợp nhất, sáp
nhập, mua lại TCTD đã được quy định tại Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày
11/02/2010 quy định về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD, nhưng trong điều
kiện thị trường mua bán doanh nghiệp ở nước ta chưa thực sự hình thành, việc thực
hiện những giao dịch hợp nhất, sáp nhập, mua lại NHTM vẫn còn là viễn cảnh.
Thứ ba, ảnh hưởng đến lộ trình tăng vốn của các NHTM trong tương lai. Mục đích
của việc ban hành danh mục vốn pháp định của các TCTD của Chính phủ là nhằm
từng bước nâng cao năng lực tài chính cho các TCTD đủ sức cạnh tranh với các
TCTD nước ngoài. Nội dung quy định của Nghị định 141 xác định lộ trình tăng
vốn cho các TCTD chậm nhất vào ngày 31/12/2008 và ngày 31/12/2010. Điều đó
có nghĩa là, trên cơ sở lộ trình tăng vốn được xác định trước, các NHTM được chủ
động kế hoạch tăng vốn điều lệ của mình, chủ động điều chỉnh tăng quy mô vốn
phù hợp với quy mô hoạt động và năng lực quản trị điều hành, có cơ sở đảm bảo
việc tăng vốn điều lệ góp phần tăng năng lực tài chính, đồng thời duy trì TCTD
hoạt động an toàn, hiệu quả.
Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam khi ban hành Nghị định 141, việc xác định lộ trình

tăng vốn là phù hợp. Thống đốc NHNN đã có lý khi khẳng định: “Nếu không tăng
vốn được theo quy định thì phải xử lý thôi, vì đã là pháp luật thì phải chấp hành.
NHNN sẽ có nhiều biện pháp xử lý theo pháp luật hiện hành và không “nuông
chiều” những trường hợp này. Không phải khi giá cổ phiếu gấp 10 lần thì hăng hái
nhảy vào lập ngân hàng, còn khi thị trường chững lại thì lại kêu khó”6. Và như
vậy, việc gia hạn tăng vốn cũng đồng nhất với việc “không thể xử lý được” các
NHTM không đáp ứng được mức vốn pháp định, sẽ tạo “tiền lệ xấu” cho lần tăng
vốn lần sau.
Thứ tư, sự suy giảm lòng tin của công chúng đối với quyết sách của Chính phủ.
Việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng cho các NHTM thêm một
năm là một diễn biến quen thuộc, không gây quá nhiều bất ngờ nếu theo dõi
thường xuyên những động thái chính sách của NHNN 7 và sẽ tác động đến thị
trường tài chính cả ở hiện tại và tương lai. Trước mắt, quyết định này sẽ hóa giải
bài toán sức ép tăng vốn trong khi việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán
còn gặp khó khăn do niềm tin của nhà đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng. “Các
ngân hàng quy mô nhỏ có thể quẳng gánh lo tăng vốn điều lệ trong ngắn hạn để tập
trung khả năng và nguồn lực để giải quyết những vấn đề nội tại như đảm bảo các
điều kiện an toàn theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, đảm bảo thanh khoản cho
thời điểm cuối năm và giáp Tết, hoàn thành các chỉ tiêu tín dụng và lợi nhuận và
củng cố khả năng cạnh tranh trong bối cảnh lãi suất gia tăng. Một phần nguồn tiền
của các cổ đông hiện hữu, bên cạnh đầu tư vào thị trường chứng khoán, cũng có
thể tìm đến hệ thống ngân hàng như những khoản đầu tư tiết kiệm, và theo đó, sức
ép thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn cuối năm của hệ thống sẽ được giảm nhẹ,
cuộc đua lãi suất có thể vì thế mà bớt đi căng thẳng”8.
Tuy nhiên, những hiện tượng như cuộc đua lãi suất bắt nguồn từ những ngân hàng
nhỏ do tình trạng khát vốn, cho vay lãi suất cao trong khi khả năng quản trị điều
hành kém, vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay dài hạn và đẩy
lãi suất liên ngân hàng tăng cao vẫn là chiếc “vòng luẩn quẩn” gây tác hại cho
việc thực hiện chính sách tiền tệ và sự ổn định của thị trường tài chính, gây ra
những quan ngại “kinh niên” về tính nhất quán và hiệu lực của các quy định hay

chính sách của NHNN, các quan ngại này sẽ tiếp tục ám ảnh thị trường, ám ảnh
niềm tin của nhà đầu tư, bất chấp sự can thiệp từ phía cơ quan quản lý.
Một quyết định đúng đắn, kịp thời của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ giải
quyết được tình trạng khó khăn của doanh nghiệp trong thực tiễn kinh doanh. Một
quyết định chỉ thật sự phù hợp nếu nó phản ảnh được hầu hết lợi ích cần được bảo
vệ. Cách làm bị động, chậm chạp của NHNN trong việc thực thi pháp luật về tăng
vốn pháp định của NHNN vừa qua cần phải được nghiêm túc nhìn nhận lại, cùng
với bài học về vai trò của “Nhà nước” và vai trò của “thị trường”.

×