Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Phân loại các nhóm bệnh thường mắc của động vật trong chăn nuôi thú y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.66 KB, 25 trang )

Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Chương IV.
PHÂN LOẠI CÁC NHÓM BỆNH

Nội dung chính của chương 4:
Cơ thể động vật thường xuyên đối mặt với các tác nhân gây bệnh từ bên trong và bên
ngoài. Thông thường cơ thể không nhất thiết mắc một bệnh này hay một bệnh khác có tính
chất riêng biệt.
Trong thú y cũng như y học việc phân ra từng nhóm bệnh có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng, nhằm:
- Dễ dàng chẩn đoán bệnh
- Có phương pháp điều trị đúng
- Có biện pháp phòng trừ bệnh kịp thời và đúng phương pháp.
Thực tế trong thú y các bệnh của các đối tượng vật nuôi, được chia ra mấy nhóm chinh sau:
* Bệnh truyền lây
* Bệnh ký sinh trùng
* Bệnh không lây truyền, hay còn gọi là bệnh nội ngoại khoa
* Bệnh sản khoa
* Một số khái niệm chung, và một số bệnh trong nuôi trồng thủy sản

1. Bệnh truyền lây
1.1. Định nghĩa
Bệnh truyền lây là những bệnh do virut, hay vi khuẩn gây nên, nó có thể truyền lây từ con
này sang con khác, từ loài vật này sang loài vật khác. Tính chất lây lan mạnh gây nên những
ổ dịch lớn có tính chất địa phương, quốc gia, vùng khu vực, châu lục và mang tính toàn cầu.
Bệnh truyền lây là nhóm bệnh nguy hiễm và gây thiệt hại kinh tế lớn nhất, ảnh hưởng đến
sức khỏe cộng đồng.
Nhiệm vụ của khoa học nghiên cứu về bệnh truyền lây, là nghiên cứu những qui luật, thuộc
về đặc tính bệnh, đặc tính mầm bệnh, quan hệ mầm bệnh với động vật cảm nhiễm, tính
thôngá nhất giữa cơ thể với ngoại cảnh, các hiện tượng bệnh lý, điều kiện phát sinh, tiến triển
và ngừng tắt của dịch. Từ những nhận thức đó con người đề ra các biện pháp tích cực phòng


chống bệnh có hiệu quả nâng cao năng suất chăn nuôi, tạo ra sản phẩm thịt sạch không nhiễm
bệnh, góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
1.2. Tính chất của bệnh
-Nguyên nhân gây bệnh truyền lây- mầm bệnh
một mầm bệnh là một VSV đống vai trò quan trọng , và không thể thiếu được, và là nguyên
nhân trực tiếp gây ra bệnh truyền lây.
Bệnh truyền lây do:
* Vi khuẩn:
Vi khuẩn là nhóm vi sinh vật lớn nhất có đặc điểm chung là nhân nguyên thủy, tức là chưa có
màng nhân, cơ thể đơn bào phân chia bằng phương pháp trực phân.
Vi khuẩn là những vi sinh vật được cấu tạo hoàn chỉnh của một tế bào. Bao gồm màng tế
bào, nguyên sinh chất và nhân, một số vi khuẩn trong quá trình sống và tồn tại chúng hình
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
36
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
thành lớp vỏ bên ngoài để bảo vệ chúng trước các tác nhân kích thích bên ngoài tác động lên
chúng.
Vi khuẩn sống và tồn tại trong đất trong nước trong không khí, và ngay cả trong cơ thể động
vật. Có nhiều vi khuẩn tồn tại trong đất đến vài trăm năm, như vi khuẩn nhiệt thán (Bacilus
anthracis)
*Virut- Virus, về mặt lý hóa virut là nucleotit, có thể là một ADN, hoặc ARN, các vi
rút gây bệnh cho loài động vật chủ yếu là ARN, còn virut gây bệnh cho thực vật chủ yếu là
ADN. Do cấu tạo đơn giản nên vi rut chỉ và chỉ sống tồn tại trong tế bào đang sống. Một khi
ra môi trường bên ngoài khả năng tồn tại của virut không lâu.
* Nấm, là thực thể đa bào sinh sản bằng cách đâm chồi, có thể tồn tại trong cơ thể
động thực vật, và môi trường bên ngoài. Khả năng gây bệnh của nấm cũng khá nguy hiểm.
1.3. Điều kiện gây bệnh
VSV sống trong môi trường và trong cơ thể của động vật nhưng không phải lúc nào chúng
cũng gây bệnh, mà phải có một số điều kiện sau đây:
*Có động vật cảm nhiễm,

Mỗi một loài vi khuẩn hay vi rut thì gây bệnh cho một hay nhiều loài nào đó mà thôi.
Ví dụ, vi khuẩn Leptospira gây bệnh xoắn khuẩn, hay còn gọi là bệnh lợn nghệ ở lợn. Vi
khuẩn Brucella, gây bệnh sẩy thai truyền nhiễm chủ yếu là động vật nhai lại, như dê, cừu.
Virut LMLM chỉ gây bệnh lở mồm long móng cho loại động vật móng chẳn
* Con đường gây bệnh: Đa số bệnh truyền nhiễm lây lan chủ yếu thông qua con
đường thức ăn nước uống tiếp xúc, nhưng một số bệnh phải thông qua con đường gây bệnh
nhất định nào đó mà thôi. Vídụ: Bệnh uốn ván- Clostridium tetanus, con đường xâm nhầp
chủ yếu thông qua vết thương, bệnh dại do virut dại gây nên chủ yếu thông qua vết cắn từ
động vật mang trùng
* Số lượng và độc lực của vi khuẩn virut
* Sau khi mắc bệnh truyền lây, nếu khỏi bệnh thì cơ thể đó có khả năng miễn dịch với
bệnh đó. Ứng dụng vấn đề này trong thú y, cũng như y học, người ta tiêm phòng vác xin để
tạo miễn dịch cho con vật. Thú y, việc tiêm phòng vacxin cho các loài vật nuôi là việc làm vô
cùng cần thiết để phòng chống bệnh truyền nhiễm. Với y tế cộng đồng, việc tiêm chủng mỡ
rộng, tiến tới nước ta thanh toán 6 bệnh cho trẻ em (ho gà, uốn ván, bại liệt, đậu )là một
công việc đã và đang triển khai, yêu cầu bà mẹ mang thai, và trẻ em sơ sinh đến 6 tháng tuổi
tích cự hưởng ứng phong trào tiêm chủng.
* Sức đề kháng của cơ thể: Một khi đầy đủ các yếu tố gây bệnh trên đã có, nhưng khả
năng mắc bệnh phụ thuộc rất lớn vào sức đề kháng của cơ thể. Một cơ thể khỏe mạnh là cơ
thể đầy đủ hệ thống miễn dịch không bị tổn thương, sức khỏe cao để chống đỡ với bệnh tật.
Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe vật nuôi nâng cao sức đề kháng của vật nuôi là việc làm
không thể thiếu được đối với người làm công tác thú y.
1.4. Tác động của vi khuẩn vi rut lên cơ thể động vật
Quá trình truyền lây là một quá trình xâm nhập độc tố của vi khuẩn vào cơ thể động vật, cơ
thể nhiễm độc- intocxination. Độc tố của vi khuẩn có hai loại (tocxin):
-Loại độc tố do quá trình sống của vi khuẩn tiết ra ngoài,người ta gọi là ngoại độc tố
(Exotocxin). Ví dụ: độc tố uốn ván,độc tố của vi khuẩn Butulizm và một số độc tố của nhóm
vi khuẩn kị khí, các độc tố của bọn này tác động lên nhiều cơ quan tổ chức của cơ thể. Trả lời
lại kích thích của loại độc tố này cơ thể sản sinh ra kháng độc tố (Antitocxin)
Loại ngoại độc tố này không có khả năng chịu nhiệt, với nhiệt độ 60

0
C sau 20 phút thì độc tố
hoàn toàn bị phân hủy.
Đây là loại độc tố có bản chất protein, do vậy rất dễ bị phân hủy bởi các enzym.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
37
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Dưới tác dụng của Phormalin và nhiệt độc tố này chuyển hành kháng độc tố. Ứng dụng vấn
đề này người ta đã bào chế vacxin
-Loại độc tố mà liên quan chặt chẻ với tế bào vi khuẩn, một khi tế bào đó phân hủy
thì có xuất hiện độc tố độc tố này gọi là nội độc tố (intotocxin).
Loại độc tố này, tính độc lực thấp hơn, so với ngoại độc tố thì loại độc tố này có tác dụng lên
cơ thể yếu hơn.
Nội độc tố có khả năng chịu nhiệt. Với nhiệt độ 80-100
0
C có thể bảo tồn trong hàng giờ,
không chịu tác động của các enzym phân giải protein, bởi vậy đa số chúng thuộc nhóm
photpholipid, polychacarit-polypeptit. Trả lời lại tác động của độc tố này cơ thể sản sinh ra
các chất như: Bactelizin, agglutin, opxin.
Hiện nay,người ta xem độc tố vi khuẩn như là những " enzym độc", có khả năng ngăn cản
các quá trình trao đổi chất và quá trình sống của mô bào tổ chức cơ thể.
Còn độc lực của virut là những cơ chất bền với nhiệt, trung hòa với huyết thanh miễn dịch.
Chúng làm rối loạn quá trình trao đổi chất, làm thây đổi nồng độ của adrenalin và axit
ascobinic (vitaminC).
Độc lực của vi khuẩn là khả năng sinh ra độc tố, khả năng đó được gọi là khả năng tấn công
(aggresion).
Chất tấn công hay khả năng tấn công của mỗi loạivi khuẩn khác nhau thì khác nhau. Chất
Aggresion này hoàn toàn không độc hại với bản thân chúng. Môi trường hoạt động và thành
phần hóa học của aggresion cần tiếp tục được làm sáng tỏ.
Để chống lại sự tấn công của aggresion cơ thể sản sinh ra chất gọi là chất phản kháng (anti-

aggresion)
1.5. Một số nét khác biệt của bệnh lây truyền
Bệnh truyền lây có một số tính chất riêng khác biệt với các bệnh không lây truyền như sau:
-Bệnh gây nên do một laọi ví sinh vật được xác định rõ ràng
-Cơ thể mắc bệnh, cũng là nguồn bệnh, mầm bệnh từ được thải ra từ con vật mắc
bệnh tới con vật khỏe mạnh
-Cơ thể sau khi mắc bệnh thì có khả năng miễn dịch (khả năng không mắc lại) với
bệnh đó
-Bệnh truyền lây phát sinh có tính chất chu kỳ về thời gian nhất định- đó là thời kỳ ủ
bệnh.
Thời kỳ ủ bệnh là thời gian mà được tính từ khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể đến thời điểm
mà triệu chứng lâm sàng đầu tiên của bệnh xuất hiện. Mỗi một bệnh đều có thời kỳ ủ bệnh
khác nhau. Thời kỳ ủ bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như độc lực của vi khuẩn, sức đề
kháng của cơ thể
Ví dụ: thời kỳ ủ bệnh của bệnh lao là vài tháng, bệnh uốn ván 1-3 tuần
Trong thời gian ủ bệnh vi khuẩn trong cơ thể không ngừng được nhân lên và độc tố cũng
được sản sinh ra nhiều hơn.
-Trong thời gian vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, cơ thể có những phản ứng đặc hiệu
để chống lại sự xâm nhập đó, nên bệnh có thể không xẩy ra.
-Quá trình khỏi bệnh truyền lây không hoàn toàn là cơ thể vẩn mang trùng, có kả
năng gieo mầmbệnh ra môi trường bên ngoài, và có thể đén một lúc nào đó sức đề kháng của
cơ thể yếu bệnh lại tái xuất hiện.
1.6.Một số biện pháp phòng trừ bệnh truyền lây
1.6.1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống bệnh truyền lây
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
38
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Nguyên lý chung là vận dụng kiến thức về 3 yếu tố của bệnh truyền lây. Đó là:
-Nguồn bệnh
-Yếu tố trung gian

-Động vật cảm nhiễm.
Thiếu một trong ba khâu đó thì bệnh không xẩy ra. Công tác tiến hành đó là cắt đứt mối liên
hệ của 3 khâu đó thì bệnh không xẩy ra.
Đối với mầm bệnh, khi chưa có dịch xẩy ra các chủ chăn nuôi cần phải chấp hành đầy đủ chủ
trương chính sách của Đảng Nhà nước về luật thú y, các nghị định pháp lệnh thú y về phòng
chống bệnh truyền lây. Cá nhân tổ chức phải đăng ký xây dựng vùng an toàn dịch, chính phủ
có chủ trương thanh toán, khống chế một số bệnh nguy hiểm của động vật. Nhằm đảm bảo
hiệu quả khống chế đề phòng các bệnh từ động vật lây sang người. Đáp ứng yêu cầu xuất
khẩu.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang chuẩn bị gia nhập tổ chức WTO, thì việc
phòng chống bệnh truyền lây là một trong các tiêu chí quan trọng trong đàm phán với các
quốc gia trong khối và trong khu vực. Đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh về sản phẩm động
vật xuất nhập của nước ta.
Khi có dịch xẩy ra, thì cần thực hiện đầy đủ các biện pháp phồng chống dịch của quốc gia.
Các điều lệ phòng chống dịch đã được qui định trong điều lệ phòng chống dịch cho động vật
trước đây, cũng như pháp lệnh hiện nay.
1.6.2. Đối với nguồn bệnh
* Đối với vật mang trùng
-Phát hiện sớm chủ động tích cực
Phải có kế hoặch định kì kiểm tra chẩn đoán, để phát hiện các lòa động vật mang trùng,
nguồn trùng gây bệnh. Có thể tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán VSV, huyết thanh học,
PCR
-Cách ly triệt để những con vật mang trùng
Cần nuôi cách ly những con vật có phản ứng dương tính với một ssó bệnh như: bệnh lao,
bệnh sẩy tai truyền nhiễm, bệnh tỵ thư Nếu số lượng dộng vật mang trùngít thì có thể tiêu
hủy. Hiện nay trong thú y đối với bệnh LEPTO ở đực giống cần tiến hành xét nghiệm định
kỳ. Những con vật mang trùng không được khai thác, nuôi cáh ly điều trị theo qui trình và
giết thịt cấm tuyệt đối không được khai tác tinh. Đối với lợn nái cũng không được cho thụ
tinh.
Từng hộ gia đình và mọi người dan không đựoc mỗ giết thịt những động vật mang trùng

-Điều trị dự phòng con vật mang trùng
Nhất là đối với những động vật quí hiếm đắt tiền
1.6.3. Các biện pháp đối với ổ dịch
-Phát hiện sớm, khai báo kịp thời
-Cách ly kịp thời
-Điều trị triệt để
-Phải điều tra phát hiện những động vật nghi mang trùng
-Xử lý tình huống dịch bệnh động vật
-Công bố dịch, tùy theo tính chất và chức năng của từng cơ quan, người có trắch
nhiệm mà công bố dịch
-Các cấp chính quyền phối hợp với lực lượng thú y chỉ đạo công tác chống dịch triệt
để.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
39
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
-Trong từng vùng có nguy cơ dịch bệnh uy hiếp phải thực hiện hạn chế lưu thông
động vật. Các cơ quan tổ chức kiểm dịch triệt để nguồn động vật xuất xứ đi qua khu vực của
địa phương mình quản lý.
-Thực hiện tiêu độc triệt để bằng các hóa chất như: Vôi, xút, nước tro, axit, các hợp
chất tiệt trùng có chứa Clo, thủy ngân, crezol.
-Tiêu độc định kỳ các khu giết mổ
-Tiêu diệt các động vật trung gian truyền bệnh như muỗi, ruồi, ve bét vệ sinh môi
trường.
-Tăng cường sức đề kháng bệnh của các đối tượng vật nuôi, thức ăn chế độ nuôi
dưỡng qui trình nuôi khép kín
- Tăng cường công tác tiêm phòng
Đối với bệnh truyền lây luôn nhớ rằng công tác phòng là chủ yếu, hạn chế đến mức tối đa có
thể hạn chế được dịch xẩy ra. Việc điều trị bệnh lây truyền là một việc làm không hiệu quả.
Trong tình hình chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ như hiện nay của nước ta, công tác tuyên truyền
vận động phòng chống dịch bệnh truyền lây cần phải được tiến hành thường xuyên. Khi điều

trị bệnh trong các nộng hộ cần tiến hành triệt để không thể để mầm bệnh lây lan thiệt hại cho
các nông hộ khác.
Dịch cúm gia cầm ở nước ta hiện nay đã tạm ổn song không có nghĩa là dịch bệnh đã được
thanh toán, mà yêu cầu các tổ chức, mọi người dân phải ý thức đựoc nguy cơ dịch sẻ xẩy ra.
-Thực hiện đầy đủ pháp lện thú y được công bố ngày 12/5/2004 là :
+ Đảm bảo vệ sinh thú y đối với chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, nước sử
dụng trong chăn nuôi.
+Chăm sóc sức khỏe vật nuôi bằng các biện pháp như nâng cao sức khỏe,
tiêm phòng bắt buộc
+Xây dựng vùng và cơ sở an toàn dịch, chương trình khống chế và thanh toán
bệnh.
+Xử lý dịch bệnh động vật, khai báo dịch bệnh, chẩn đoán, xác định bệnh,áp
dụng một số biện pháp khống chế dịch
Nghị định 33/2005/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều pháp lệnh
thú y 2004 trong đó các Qui định phòng chống dịch bao gồm:
+ Điều kiện vệ sinh thú y với cơ sở chăn nuôi, hộ gia đình
+Qui định đối với thức ăn, nước dùng trong chăn nuôi, trong mua bán sử dụng
sản phẩm động vật.
+Xây dựng và quản lý vùng an toàn dịch bệnh
+ Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, và các cấp quản lý nhà nước về việc
phòng chống dịch bệnh.

2. Bệnh kí sinh trùng- Parasitos

2.1. Định nghĩa về bệnh kí sinh trùng:
KST là những sinh vật sống bám vào bên ngoài, hay bên trong cơ thể, để cướp chất dinh
dưỡng và tiết độc tố gây bệnh cho cơ thể kí chủ.
KST được phân ra hai nhóm, kst thực vật ( Phito-paraside), kst động vật (Zoo-paraside). Kí
sinh trùng là một loài sinh vật sống bám vào một loài vật khác.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế

40
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Bệnh do kst gây nên đối với vật nuôi ở nước ta là vô cùng phong phú và đa dạng. Vì nước ta
là một nước nhiệt đới nống ẩm, có điều kiện khí hậu vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của
bọn kst.
2.2. Những thiệt hại do bệnh kst
Hàng năm nghành chăn nuôi bị thiệt hại rất lớn do kst gây ra, những thiệt hại không những
cho chăn nuôi mà ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe cộng đồng. Những thiệt hại đó có thể tổng
kết thành những mặt chính sau:
-Thiệt hại gây ra do bệnh kst lan truyền cấp tính làm chết hàng loạt vật nuôi
Thể bệnh này thường thấy nhóm bệnh do nguyên sinh động vật gây nên, như bệnh huyết bào
tử trùng, tiêm mao trùng, bệnh cầu trùng có thể lây lan làm chết hàng loạt như: dịch huyết
bào tử trùng năm 1959, 1960, 1962 ở nông trường Bavì.
Ngoài ra, các bệnh giun sán như giun đũa ở gia súc non, sán là gan ở dê cừu, cũng có thể mắc
hàng loạt và tỷ lệ chết cao.
-Thiệt hại gây nên ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của vật nuôi.
Bệnh KST thường xẩy ra ở thể mạn tính, kéo dài triệu chứng bệnh, bệnh tích không rõ ràng,
nhưng ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng của vật nuôi.
Đa số kst gây rối loạn quá trình tiêu hóa, cản trở quá trình hấp thu, làm giảm số lượng hồng
cầu, do đó dẫn tới vật nuôi còi cọc chậm lớn.
Về thiệt hại vấn đề này, tại hội nghị thế giới về kST nhà khoa học Yasin nói " Thường những
bệnh do vi rut, vi khuẩn gây ra có tính chất ồ ạt và cũng mất đi nhanh chóng, còn những bệnh
do KST gây nên thì kéo dài rất lâu gây nên những tổn hại cũng vô cùng to lớn"
-Thiệt hại do kst làm giảm sản phẩm của gia súc, thịt lông da
Ngoài việc ảnh hưởn đến sinh trưởng và phát triển của vật nuôi làm cho sản phẩm của chúng
thịt, long, sữa đều bị hạn chế.
Ví dụ: Do nhiều laọi KST mà thịt sau khi mổ phải hủy bỏ như bệnh gạo lợn, gạo bò. Bệnh
sán là gan gây nên thiệt hại tới hàng tăm nghìn tấn gan. Gà bị mắc bệnh sán lá sản lượng
trứng giảm và hay đẻ non. Cừu dê bị bệnh ghẻ giảm sản lượng long da
-Thiệt hại do bệnh kst ghép với các bệnh khác, bệnh kst mỡ cữa sớm cho các bệnh

truyền nhiễm.
Skryabin nói: " Bệnh kst mỡ cữa sớm cho bệnh truyền nhiễm".
Thực vậy người ta thấy rằng gà bị mắc bệnh giun tròn thường mắc thêm một sô bệnh truyền
nhiễm khác. Đa số bệnh do giun sán gây nên làm tổn hại cơ quan tiêu hóa, dẫn tới chức năng
hoạt động của bộ máy suy giảm từ đó vật nuôi rất dễ cảm nhiễm với một số bệnh truyền
nhiễm khác.
Các bệnh KST làm cho sức đề kháng của vật nuôi giảm, do vậy khi mắc bệnh truyền nhiễm
thì nặng nề hơn, tỷ lệ chết cao.
Người ta phân chia thành 2 nhóm kst người và kst gia súc, nhưng thực tế 2 cái đó đều không
có ranh giới rõ ràng mà gắn liền liên quan chặt chẻ với nhau.
Theo Trịnh văn Thịnh, đã tổng kết có hơn 31 loại bệnh giun sán 10 bệnh nguyên trùng, 2
bệnh nấm 4 loại bệnh do tiết túc có thể lây sang cho con người.
2.3. Điều kiện phát sinh bệnh kst
- Điều kiện tự nhiên, kst phân bố mạnh ở ngoài tự nhiên và khắp nơi động vật có thể
bị xâm nhiễm của kst. Muốn gây bệnh cho vật nuôi phải có các điều kiện nhất định: Có kst
tồn tại, có ký chủ dể cảm nhiễm với căn bệnh, có điều kiện ngoại cảnh thích hợp.
Điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng rất lớn đén sự phát sinh của bệnh kst. Điều kiện ngoại cảnh
bao gồm:
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
41
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
+ Khí hậu: nhiệt độ qua scao làm cho trứng giun sán không nở được, ở nhiệt độ trên
50
0
C hầu hết các trứng giun sán bị chết. Nhiệt độ thấp ức chế quá trình phát triển của trứng
cũng như ấu trùng.
+Đất nước: Ở độ cao thấp so với mặt nước biển tỷ lệ mắc bệnh ký sinh trùng cũng
khác nhau. Bệnh kí sinh trùng mắc theo vùng, ví dụ, bệnh sán lá gan trâu bò tỷ lệ nhiễm vùng
chiêm trủng cao hơn đồng bằng, đồng bằng cao hơn trung du, trung du cao hơn miền núi.
+ Khu hệ động thực vật: Khu hệ động thực vật đống vai trò quan trọng trong việc

phân bố bệnh kí sinh trùng. Thực vật liên quan đến phân bố của KST và còn ảnh hưởng tới
đời sống của chúng.
Ví dụ nơi nào phân bố nhiều cỏ tranh thì nơi đó có điều kiện phát triển bệnh bào tử trùng, ốc
nước ngọt là kí chủ trung gian của sán lá, nơi nào lòa ốc đó phát triển thì có điều kiện để
mầm bệnh tồn tại và lây lan.
Với điều kiện khí hậu, điều kiện phân bố động thực vật, trình độ chăn nuôi, và cả tập tục ăn
uống sinh hoạt của người dân nước ta thì bệnh kí sinh trùng vô cùng thuận lợi và phát triển.
Trong những năm lại đây trình độ dân trí được nâng cao, trình độ chăn nuôi đã cải thiện do
vậy, hạn chế rất nhiều bệnh kí sinh trùng gây ra.
-Điều kiện kinh tế xã hội
Ngoài nhân tố của điều kiện ngoại cảnh thì sự phân bố của kst phụ thuộc, liên quan chặt chẻ
với hoạt động của con người, cụ thể là điều kiện kinh tế xã hội.
Ví dụ bệnh gạo lợn gạo bò phụ thuộc rất lớn vào sự bảo quản phân người, bệnh giun bao phụ
thuộc vào tập quán ăn sống tái ở một số địa phương.
Bệnh sán dây phụ thuộc vào nếp sống văn hóa của vùng địa phương, nếu đời sống thấp điều
kiện xây nhà vệ sinh không đảm bảo hợp vệ sinh tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển.
Tập quán và trình độ chăn nuôi. Ví dụ tập quán nuôi lợn thả rong ở nông thôn và đồng bào
miền núi, lợn dể mắc bệnh giun phổi giun đũa
2.4. Con đường truyền bệnh của kst
Nguồn lây lan chính của bệnh là do số lượng rất lớn trứng và ấu trùng của kst bài tiết ra bên
ngoài. Nó vào cơ thể kí chủ bằng nhiều con đường khác nhau:
- Đường tiêu hóa, là con đường truyền bệnh của đại đa số kst, vì phần lớn trứng của
chúng được đào thải ra ngoài theo phân. Và trứng lẩn vào thức ăn nước uống vào miệng vào
đường tiêu hóa của kí chủ.
Ví dụ: Trứng đã có ấu trùng giun đũa có trong thức ăn nước uống trong đất, vật nuôi ăn uống
phải thức ăn nước uống có trứng đó và gây bệnh qua con đường tiêu hóa. Ấu trùng của giun
xoăn có khả năng bò lên cây cỏ trâu bò ăn phải cỏ đó sẻ bị mắc bệnh, hoặc nang ấu của sán lá
ruột Faciolopsis buski, bám trên mặt rong bèo, cây cỏ ở nước gia súc ăn phải cũng sẻ mắc
bệnh.
-Truyền qua da, gia súc có thể nhiễm cảm nhiễm kst qua da bằng hai phương thức

sau: Tự chui qua da lành của vật chủ ( ví dụ ấu trùng giun móc, của sán máng có thể tự động
chui qua da lành của kí chủ), thông qua kí chủ trung gian. (các loại côn trùng hút máu lợi
dụng vòi để truyền bệnh cho kí chủ, ví dụ như ve hút máu truyền bệnh huyết bào tử trùng,
muỗi hút máu truyền bệnh sốt rét).
-Truyền bệnh bằng tiếp xúc,Bệnh kst có thể lây lan giữa con ốm và con khỏe với
nhau, ví dụ bệnh Trypanasoma equiverdum truyền giữa con ngựa lành với con ngựa bệnh.
-Truyền bệnh qua bào thai, ấu trùng của một số loài gây nhiễm có thể di hành trong
cơ thể ký chủ và có thể xâm nhập vào bào thai, làm cho con con bị lây nhiễm Ví dụ: giun đũa
bê nghé, giun móc,sán máng
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
42
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
2.5. Các loại kí chủ và nơi kí sinh của kst
Kí chủ: Là động vật làm nơi kí sinh tạm thời hay lâu dài cho kst thì gọi là kí chủ.
Quá trình sống của kst trên cơ thể kí chủ vô cùng phức tạp, có loại thì ở thời kỳ trưởng thành
có loại thì ở thời kỳ phát triển ấu trùng, căn cứ vào tính phát dục và tính thích ứng của kst,
người ta chia kí chủ của kst ra làm mấy loại sau:
- Kí chủ trung gian : là nơi tạm trú để chu trình sinh sản vô tính của kst thực hiện.
Ví dụ: Giai đoạn sinh sản vô tính của sán lá ruột lợn Fasiolopsis buski phát triển trong ốc.
-Kí chủ cuối cùng: là kí chủ mà kst phát triển vào giai đoạn trưởng thành
-Kí chủ bổ sung, hay còn gọi là kí chủ trung gian thứ hai
-Kí chủ chuyên tính
Một kí sinh trùng có tính chon lọc rất chặt chẽ nó có thể sống trong một và chỉ một kí chủ
nhất định, kí chủ đó người ta gọi là kí chủ chuyên tính.
Ví dụ: sán dây kí chủ là người, còn ấu trùng của nó kí sinh ở bò gây ra bệnh gạo bò
-Kí chủ dự trử hay còn gọi là kí chủ bảo tồn
Một loại kst chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, trong quá trình tiến hóa thích nghi của
nó cơ thể phát sinh trên nhiều loại kí chủ.
Ví du: Sán lá gan có thể sống trên nhiều loại kí chủ như trâu bò, lợn, ngựa
Nơi kí sinh của KST:

KST có thể kí sinh khắp nơi trong cơ thể động vật như: ruột, dạ dày, cơ, phổi , gan, thận mà
nời kí sinh nhiều nhất là đường tiêu hóa.
Mỗi một loại kí sinh trùng đều có nơi kí sinh thích hợp khác nhau, nhiều khi còn tìm thấy các
vị trí sai lệch. Ví dụ: sán lá gan có thể tìm thấy ở tử cung. Trong những trường hợp này đời
sống của chúng tồn tại không được lâu, vì những nơi đó không đủ điều kiện cho chúng phát
triển. Mỗi một loại động vật trong cùng một thời gian có nhiều loại kí sinh trùng kí sinh ở
nhiều cơ quan bộ phận khác nhau.
Đời sống của kising trùng trong cơ thể động vật phụ thuộc rất lớn vào cơ thể kí chủ.
Do đời sống kí sinh nên trong cơ thể động vật các cơ quan bộ phận không cần thiết của
kisinh bị thoái hóa, teo biến.
Ví dụ: cơ quan vận động của giun sán bị teo biến, cơ quan thị giác, hệ thống máu cũng không
có, hệ thống ống tiêu hóa vô cùng đơn giản.
Sức đề kháng của cơ thể kí chủ cao, thì khả năng tồn tại của kí sinh càng ngắn. Vì trong quá
trình kí sinh cơ thể kí chủ sản sinh ra kháng thể, hoặc một cơ chất tìm mọi cách đào thải kí
sinh ra khỏi cơ thể. Chính vì vậy việc nâng cao sức khỏe con vật là một trong những biện
pháp phòng trừ bệnh KST.
2.6. Biện pháp phòng ngừa tổng hợp đối với bệnh kst
- Điều trị : Là mục đích chữa cho con vật bị bệnh, khỏi bệnh, nhưng đối với ngoại
cảnh là phòng ngừa vì nó diệt trừ được mầm bệnh, loại trừ mầm bệnh gieo rắc cho con vật
khác.
-Phòng bệnh, phòng bệnh có hai phương thức:
*Phòng bệnh gián tiếp (phòng ngừa bị động). Nó có tính chất bị động làm cho con
người và gia súc không tiếp xúc với mầm bệnh, nó bao gồm các biện pháp như vệ sinh thức
ăn nước uống, vệ sinh chường trại
* phòng ngừa trực tiếp
Là phương pháp chủ động tấn công, dùng mọi biện pháp vật lý hóa học, cơ giới sinh vật học
trực tiếp tác động vào căn bệnh, nó bao gồm các biện pháp sau:
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
43
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản

+ Xử lý diệt trứng của kst
+Chăn dắt luân phiên để diệt ấu trùng trên đồng cỏ
+Diệt kí chủ trung gian cắt đứt giai đoạn sinh sản vô tính của kst trong đó.
+Xử lý xác chết và những cơ quan có bệnh
+Tẩy cho gia súc bị ốm và gia súc mang trùng để diệt trừ căn bệnh.
Những điều kiện để tiến hành biện pháp phòng trừ có hiệu quả:
-Phải nắm vững chu trình phát triển của từng loại giun sán, kí sinh ở trong và ngoài
cơ thể kí chủ.
-Hiểu rõ chi tiết về dịch tể học của bệnh kst, đối với từng vùng riêng biệt.
-Nắm vững biện pháp chẩn đoán, điều trị các bệnh kst
-Cần có đội ngũ cán bộ thú y có trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tế về bệnh kst.
-Cần kiểm soát chặt chẻ, đảm bảo thực hiện đầy đủ các biện pháp có tính chất liên
hòa nhằm thanh toán triệt để các thể mầm bệnh nằm ngoài cơ thể vật nuôi.
-Cần tuyên truyền rộng rãi với những hiểu biết về bệnh kst trong cán bộ và nhân dân,
thực hiện nếp sóng văn minh, chăn nuôi có kỷ thuật. Nâng cao đời sống kinh tế và trình độ
dân trí cũng là một trong những biện pháp phòng trừ tích cực bệnh giun sán kí sinh.

2.7. Phân loại bệnh kí sinh trùng
Giun sán được chia thành 5 nghành chính sau:
-Ngành sán dẹt -Plathelminthes
+Lớp sán lá-Trematoda
+Lớp sán dây-Cestoda
-Ngành giun tròn- Nemathelminthes
+Lớp giun tròn- Nematoda
Ngành giun đầu gai- Acanthocephales
-Ngành đỉa- Anelida
-Ngành Vermides -Ngành này không liên quan đến thú y.

2.8. Phương pháp chẩn đoán bệnh ký sinh trùng
Trong phần này chúng tôi chủ yếu giới thiệu một số phương pháp xét nghiệm phân tìm trứng

và ấu trùng giun sán.
1. Cách lấy mẩu phân:
Đối với động vật lớn như trâu bò, ngựa, lấy mấu phẩntực tiếp qua trực tràng.
Đối với động vật nhỏ như lợn, dê, cừu chó, có thể dùng một ngón tay đeo găng, nhúng vào
glyxerin cho vào hậu môn để lấy phân.
Khối lượng phân lấy ít nhất là 5gr.
Trường hợp phân rơi xuống đát có thể lấy nhiều điểm khác nhau trên bải phân
2.Phương pháp trực tiếp:
Lấy một phiến kính sạch cho vào một giọt glyxerin với nước lả, sau đó cho một mẩu phân lên
phiến kính trộn đều, rồi đưa lên kính hiển vi để kiểm tra.
Phương pháp này tiện lợi đơn giản nhưng khả năng phát hiện kém chính xác.
3.Phương pháp phù nổi:
Lợi dụng tỷ trọng của trứng nhẹ hơn một số dung dịch bảo hòa, trứng sẻ nổi lên trên.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
44
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Cách tiến hành:
Bước một : Pha dung dịch bảo hòa
-Nước mối bảo hòa 38-40%
- Dung dịch bảo hòa đường 50%
-Dung dịch bảo hòa Thíosunphát Na 42%
-Dung dịch bảo hòa Sunphát manhê
Bước2:
Lấy một cốc có dung tích 100-200ml cho vào cốc 5-10 gr phân sâu đó cho vào gấp 10-12 lần
một trong các dung dịch trên, trộn đều, vớt rác ra.
Bước 3: Dùng lọ thuốc penicilin không sạch, sau đó ró đầy hổn dịch trên vào lọ.
Dùng phiến kinh sạch đậy lên. Đợi 15-20 cho vào kính hiển vi để soi.
Chú y: Phương pháp này chủ yếu dùng để tìm trứng của nhóm giun tròn.
4. Phương pháp dội rữa nhiều lần:
Thường dùng để kiểm tra trứng sán lá. Lấy 5-10 gr phân cho vào cốc thủy tinh có dung tích

100ml. Sau đó cho nước vào trộn đều, vớt rác thô. Sau đó đợi lắng xuống (có thể quay ly
tâm), rót phần nước trong trên, sau đó tiếp tục cho nước vào trộn đều, đợi lắng xuống rồi rót
bỏ phần trên, cứ làm như vậy 3-5 lần. sau đó rót bỏ phần trên, chừa phần lắn lại. Dùng ống
hút cho vào phiến kính để soi tìm trứng.
5.Phương pháp Darling:
Cho vào cố thủy tinh 5-10 gr phân, trộn đều với 10 phần nước, cho vào ống quay ly tâm 2
phút. Đổ phần nước trên sau đó cho vào dung dịch bảo hòa có thêm glyxerin, trộn đều sau đó
quay ly tâm. Sau đó dùng vòng thép vớt phần trên để soi kính.
Phương pháp này có thể kiểm tra trứng của giun phổi lợn và các loại giun tròn khác. Phương
pháp này chính xác hơn phương pháp phù nổi.
6.Phương pháp Cherbovich
Cách lầm tương tự như phương pháp Darling nhưng dùng dung dịch bảo hòa là:
-Sunphat manhê
-Thiosunphat Na
Phương pháp này chẩn đoán chính xác với bệnh giun đầu gai.
6. Phương pháp đếm trứng Stal
Dùng phương pháp này để xác định số lượng trứng trong một khối lượng phân.
Dùng bình dung tích có thể tích 100ml
-Cho vaò bình 56ml NaOH 0,1N
-Cho phân vào tới vạch 60ml
-Cho vào bình 5-10 viên bi thủy tinh rồi lắc đều
-Dùng ống pipet hút 01ml dung dịch trên, rồi chia thành 2 giọt đều nhau
-Đếm số lượng trứng có trong hai giọt đó rồi nhân với 100, ta có được số lượng trứng
trong 1 gr phân.
Từ số lượng trứng ta có thể biết được mức độ nhiễm ký sinh trùng của gia súc.
7. Phương pháp Berman
Một số trứng giun sán ngay trong giờ đàu đã nở thành ấu trùng trong đường tiêu hóa,theo
phân ra ngoài không phải là trứng mà là ấu trùng.
Dùng phương pháp này để tìm ấu trừng nhất là ấu trùng giun lươn, và giun phổi trâu bò.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế

45
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Cách tiến hành:
Lấy 20gr phân cho vào rây có lổ nhỏ, đặt nó vào một cái phểu thủy tinh, được nối với một
ống cao su gắn với một ống nghiệm.
Đổ nước nống vào (45-50
0
C) trên rây. Nước phủ lên lưới sts khoảng 1cm. Đợi 2-4 giờ, ấu
trùng lắng xuống đáy ống nghiệm. Lấy ống nghiệm ra chắt nước phần trên, hút cặn cho vào
phiến kính để xem.
8.Phương pháp Vaid
Phương pháp này cũng dùng để kiểm tra ấu trùng. Nhưng chủ yếu là phân của dê cừu và thỏ.
Kiểm tra ấu trùng giun lươn.
Lấy 3-4 gr phân cho vào hộp lồng có nước đợi sau 1-2 giờ, gạt phân ra lấy nước để kiểm tra.
9.Cách kiểm tra khi soi kính phân biệt với một số hình là trên tiêu bản
-Trứng giun sán có cấu tạo võ bên ngoài, bên trong có tổ chức của nó.
Võ trứng thường cấu tạo hai lớp.
-Ngoài trứng giun sán gây bệnh, trong phân còn chứa nhiều loại cặn phức tạp, cần
phân biệt trừng với các vật là sau: Tế bào thực vât, hạt tinh bột hạt mỡ, tế bào thượng bì,
nguyên sinh động vật

2.9. Học thuyết nguồn dịch thiên nhiên của viện sỹ E.H.Pavlopski

2.9.1. Khái niệm về học thuyết
Trong những năm Liên Xô (cũ) tiến hành công cuộc khai hoan những vùng đất rộng. Đảng
và chính phủ đã cử nhiều đoàn công tác điều tra. Năm 1938 Viện sỹ Pavlopski và nhiều nhà
vi trùng học, động vật học, kí sinh trùng học đã phát hiện nhiều bệnh có nguồn gốc thiên
nhiên liên quan đến người và gia súc. Trên cơ sở đó, viện sỹ đã tổng kết và đưa ra học thuyết,
gọi là học thuyết nguồn dịch thiên nhiên.
Khái niệm cơ bản của họch thuyết là: " Trong thiên nhiên hoang vu đã phát inh và tồn tại

bệnh tật của động vật từ lâu đời. Khi người và thiên nhiên tiếp xúc với nhau, đặc biệt là
những khu vực chưa có dấu chân người bước tới, thì những bệnh của động vật trở thành bệnh
của con người và các loại vật nuôi khác.
2.9.2. Nội dung của học thuyết
-Những bệnh thuộc phạm vi nguồn dịch thiên nhiên
*Bệnh ở Gia súc
+ Tripanasoma.Evansi ( bệnh tiên mao trùng)
+Bệnh Pỉoplisma ( bệnh huyết bào tử trùng)
*Bệnh ở người
+ Bệnh Leihmalia - Bệnh bắc nhiệt
+bệnhTularemia- Bệnh sốt phát ban
+Bệnh Brucella -Bệnh sẩy thai truyền nhiễm
+Bệnh viêm não do ve truyền
+Bệnh viêm não Nhật bản và các bệnh nhiệt đới khác
* Bệnh chung cho người và động vật
+Bệnh giun bao, trichinella
+Bệnh sán dây -Diphylobotrium
-Định nghĩa về bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
46
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên là bệnh mà trong đó căn bệnh cùng với vật gieo
truyền chuyên tính của nó và hoang thú (ký chủ dự trử căn bệnh), kế tiếp nhau từ đời này
sang đời khác không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà nó tồn tại trong thiên nhiên
hoang vu một cách lâu dài vô hạn.
-Trong thiên nhiên luôn luôn có ba thành viên cùng tồn tại
Căn bệnh + Vật gieo truyền + Hoang thú khỏe
-Vật gieo truyền bị cảm nhiểm có thể gieo bệnh cho con người và gia súc
Một khi con người có mặt và tham gia vào vòng tuần hoàn của bệnh.
-Những đặc tính của bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên

+Bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên nó tồn tảitong thiên nhiên hoang
vu, không hề có dấu vết của con người.
+Sự tuần hoàn của bệnh được tiến hành liên tiếp trong nhóm sinh vật đã tồn
tại từ bao đời nay
+Nhóm ký chủ của căn bệnh và động vật gieo truyền càng nhiều bao nhiêu thì
tính phức tạp và nguy hiểm của bệnh bấy nhiêu.
+Khi động vật tiết túc hút máu đã bị cảm nhiễm căn bệnh có thể truyền bệnh
cho con người và động vật, khi đó người và động vật trở thành một khâu trong sự tuần hoàn
của bệnh
-Nguyên nhân người và gia súc mắc bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên.
Người và gia súc có thể mắc bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên do 3 nguyên nhân sau
+Động vật môi giới rời khỏi nguồn dịch thiên nhiên mà nó cư trú xâm nhập
vào người và gia súc mà chúng gặp để hút máu nuôi dưỡng chúng và truyền bệnh.
+Những động vật tàng trứ căn bệnh ở thể ẩn, có tác dụng truyền bệnh bị động,
vì vậy khi người và gia súc tiếp xúc với xác chết của nó thì mắc bệnh.
+Bản thân người và gia súc trực tiếp iếp xúc với nguồn bệnh
2.9.3.Nguyên tắc phònh trừ dịch bệnh có nguồn gó nguồn dịch thiên nhiên
-Khi cư trú có tính chất tạm thời
Như người đi qua chốc lát, hành quân, tìm khoáng chất cần mặc áo quàn kín , xoa dầu vào
mặt tay chân tránh côn trùng căn.
-Cư trú có tính chất lâu dài
Ngời những biện pháp như cư trú tạm thời, cần phải tiến hành phòng trừ công cộngnhư: phun
thuốc diệt ve muổi, phát quang bụi bờ, đốt rác,làm vệ sinh môi trường
2.9.4. Ý nghĩa của học thuyết
-Học thuyết này đã làm sáng tỏ khả năng truyền bệnh của các bệnh có tính chất nguồn
dịch thiên nhiên
-Học thuyết này cũng giải quyết được về mặt cơ sở lý luận về nguồn gôc bệnh tật của
con người và gia súc, tránh được những mê tín về bệnh tật
- Vạch ra phương hướng nghiên cứ bệnh tật của con người và gia súc ở những vùng
hoang sơ. Trên cơ sở đó phải tiến hành điều tra nguồn dịch thiên nhiên nơi đó mà cụ thể là:


+Điều tra nguồn sống của động vật giả sinh
+Điều tra sinh vật và con đường tuần hoàn của mầm bệnh
+Nghiên cứu phương sách có tính chất căn bản đề phòng bệnh cho con người
và gia súc, khi di cư vĩnh viễn tại những vùng đó.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
47
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản


Bệnh có nguồn dịch từ thiên nhiên- được gọi là bệnh kí sinh trùng nguồn dịch thiên nhiên.
Bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên là căn bệnh cùng với động vật deo truyền chuyên
tính của nó và hoang thú (ký chủ dự trử căn bệnh) kế tiếp nhau từ đời này sang đời khác,
không kể đén sự tiến hóa trước đây và ngày nay và không phụ thuộc vào ý thức của con
người mà nó tồn tại trong thiên nhiên hoàn vu một cách lâu dài vô hạn.
Khái niệm này, được viện sỹ E.H. Pavlopski phát triển thành học thuyết nguồn dịch thiên
nhiên.
Nội dung của học thuyết gồm các điểm chính sau đây:
Trong thiên nhiên hoang vu đã phát sinh tồn tại bệnh tật của động vật từ lâu đời. Khi người
và thiên nhiên tiếp xúc với nhau,đặc biệt là những khu vực chưa có người đi tới những bệnh
của động vật sẻ trở thành bệnh của người.
*Những bệnh thuộc phạm vi nguồn dịch thiên nhiên:
Ở gia súc có bệnh: Bệnh tiêm mao trùng (Trypanasoma. Evansi), bệnh lê dạng trùng
(Piroplasma).
Bệnh ở người:
-Bệnh Leihmalia- bệnh bắc nhiệt
-Bệnh Tularemia- bệnh sốt phát ban
-Bệnh Brucella - Sẩy thai truyền nhiễm
-Bệnh viêm não do ve truyền
-Bệnh viêm não Nhật bản và nhiều bệnh nhiệt đới khác

Bệnh chung cho người và động vật:
-Bênh giun bao- Trichinellá spiralis
-Bệnh sán dây -Diphyllobothrium
*Trong thiên nhiên luôn luôn có ba thành viên cùng tồn tại, kế tiếp nhau từ đời này
sang đời khác.
Căn bệnh + Vật deo truyền + Động vật hoang dã
* Vật gieo truyền bị cảm nhiễm có thể gây bệnh cho người và gia súc.
Lúc này con người tham gia vào vòng tuần hoàn của mầm bệnh. Trong điều kiện nhất định
có tính chất nguồn dịch thiên nhiên có thể trở thành bệnh tật cho xã hội và có thể hoành hành
khắp từ thành thị đến nông thôn
* Đặc tính của bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên
- Bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên không hề có dấu vết vhân của con người
-Sự tuần hoàn của mầm bệnh tồn tại tiến hành liên tiếp trong nhóm sinh vật tồn tại lâu
đời trong lịch sử của giới sinh vật.
-Nhóm ký chủ và động vâth gieo truyền càng nhiều và phong phú thì bệnh lạ càng
phức tạp và muôn hình muôn vẻ.
-sau khi động vật tiết túc hút máu đã bị cảm nhiễm căn bệnh có thể truyền cho người
và gia súc, khi đó người và gia súc trở thành một khâu trong sự tuần hoàn của cơ thể căn
bệnh.
*Nguyên nhân người mắc bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên
Có ba nguyên nhân chính sau
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
48
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
-Động vật môi giới rời khỏi nguồn dịch thiên nhiên mà nó cư trú và xâm nhập vào
con người và gia súc mà chúng gặp để hút chất dinh dưỡng.
Ví dụ: Leishmelia do muổi hút máu chuột, nhím và nó bay xa trên 1,5km rồi truyền mầm
bệnh cho con người và vật nuôi.
-Ngững động vật tàng trử mầm bệnh thể ẩn tính có thể truyền bệnh thể bị động: Một
khi người và gia súc tiếp xúc với chúng hoặc xác chết sẻ bị lây bệnh.

Ví dụ: bệnh Tularemia bảo tồn trong chuột thỏ rừng.
-Bản thân người và gia súc trực tiếp tiếp xúc với nguồn dịch thiên nhiên. Ví dụ: Các
nhà địa chất, bộ đội cắm trại, dân di cư khi vào vùng có nguồn dịch thiên nhiên sẻ bị mắc
bệnh.
* Nguyên tắc phòng trừ nơi có nguồn dịch thiên nhiên
Tùy theo tính chất tiếp xúc với nguồn dịch thiên nhiên mà ta có các biện pháp thích hợp để
phòng bệnh cho bản thân và loại trừ dịch bệnh khác nhau;
-Cư trú tạm thời:
Hành quân tạm thời đi qua dùng chân chốc lát : dùng thuốc để bôi xoa, quần áo buộc chặt kín
không cho muổi đốt tránh cho côn trùng đốt.
-Cư trú có tính chất lâu dài:
Ngoài biện pháp như cư trú có tính chất tạm thời thì cần phải:
Dùng các thuốc diệt con trùng phát quang bờ bụi nơi chuẩn bị cư trú
Cày cuốc xới xáo đất đốt bờ bụi không cho điều kiện côn trùng và động vật
khác tơi tiếp xúc.
Ý nghĩa của hoch thuyết:
-Làm sáng tỏ bản chất và khả năng gieo truyền bệnh có nguồn gốc thiên nhiên
-Cơ sở lý luận để giải thích nguồn gốc bệnh tật, bệnh tật của loài vật trở thành bệnh
của loài người. Đặc biệt ở nước ta trong thời kỳ đổi mới khai hoang phục hóa ở nhiều vùng
tây nguyên, nắm chắc được nguồn bệnh, có biện pháp đề phòng giải thích cho đồng bào dân
tộc hiểu được, không mê tín dị đoan
- Học thuyết này đã vạch ra phương hướng nghiên cứu bệnh có nguồn dịch thiên
nhiên ở những nơi rừng rậm có tài nguyên phong phú.
Cụ thể tiến hành như sau:
+Điều tra tình hình nguồn sống của động vật vùng đó
+Điều tra tình hình sinh vật và con đường tuần hoàn của bệnh
+Nghiên cứu phương sách có tính chất căn bản đề phòng bệnh cho con người
và gia súc khi cư trú vĩnh viễn nơi đó.
Ở nước ta, trong thời gian đô hộ của Pháp nhiều nhà khoa học Pháp đã tiến hành nghiên cứu
về nguồn dịch thiên nhiên trên con đường khám phá và mỡ rộng, như nhà khoa học, người

học trò xuất sắc của L.Pasteur đã có nhiều cống hiến cho công việc này.
Cách mạng tháng tám thành công, ngay từ ngững ngày đầu và suốt những năm kháng chiến
chống Pháp, Đảng và nhà nước đã có chủ trương nghiên cứu tình hình nguồn bệnh thiên
nhiên. Kết quả đó đã góp phần không nhỏ phòng bệnh tâth cho bộ đội và nhân dân tham gia
kháng chiến.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, công việc tiến hành điều tra nguồn bệnh có nguồn
dịch thiên nhiên ở rừng Trường sơn là một trong những công việc không thể thiếu được.
Nhiều đoàn cán bộ đã anh dũng hy sinh cho mặt trận chống lại bệnh tật này. Một tấm gương
đó là anh hùng, G.S bác sỹ Đặng văn Ngữ đã có nhiều cống hiến điều tra tình hình bệnh sốt
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
49
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
rét. Góp một phần không nhỏ giảm bớt thương vong cho bộ đội ở rừng Trường Sơn vì bệnh
sốt rét.
Ngày nay, công cuộc khai hóa những vùng đất lạ, tìm tài nguyên khoáng sản ở rừng sâu, thì
việc ứng dụng học thuyết của E.H. Pavlopski lại càng có ý nghĩa to lớn.

3. Bệnh nội ngoại khoa- Bệnh không lây truyền

Trong nhóm bệnh này bao gồm các bệnh nội khoa và bệnh ngoại khoa
3.1. Bệnh nội khoa
Là một lỉnh vực khoa học thú y nghiên cứu nguyên nhân, quá trình phát triển và biện pháp
phòng trừ các bệnh nội khoa không lây truyền. Bệnh nội khoa không lây là những bệnh do
các yếu tố cỏ học, vật lý hóa học tác động lên cơ thể dẫn tới rối loạn hoạt động mô bào tổ
chức và cơ quan hệ thống.
Nội dung chủ yếu gồm các vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ những nguyên nhân rối loạn quá trình trao đổi chất xẩy ra trong cơ thể.
Các bệnh phát sinh do qua trình rối loạn các cơ quan hệ thống, như: bệnh không lây ở bộ
máy tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, nội tiết thần kinh, bệnh rối loạn quá trình trao đổi chất của
prtein, lipid, gluxit, nước, muối khoáng và vitamin

-Cơ chế phát sinh và tiến triển của bệnh
-Các biến đổi về giải phẫu bệnh
-Các đặc trưng riêng của bệnh
-Các biện pháp phòng trừ bệnh
3.2. Nguyên tắc cơ bản về điều trị bệnh nội khoa không lây
Bao gồm các nguyên tắc cơ bản điều trị: Dinh dưỡng, sinh lý, bằng các thuốc điều trị.
Trong thực tế điều trị phải nắm rõ nguyên tắc mà S.P. Botkin đã đưa ra là: điều trị con vật ốm
chứ không phải điều trị bệnh.
Thực tế cho thấy rằng điều trị bệnh các đối tượng vật nuôi không chỉ dừng lại là hiệu quả
đièu trị mà mang tính chất về hiệu quả kinh tế là trên hết. Bởi vậy các biện pháp phòng trừ
bệnh nâng cao sức khỏe có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, mà bác sỹ thú y
cần phải nắm chắc tác dụng của các loại thuốc khác nhau, chọn phương pháp điều trị nào cho
có kết quả tối ưu và hiệu quả kinh tế.
Vấn đề về thuốc: cần chuẩn bị các loại thuốc rẻ tiền hiệu quả cao có nguồn gốc từ
thực vật, động vật, khoáng chất, hay là các thuốc hóa học cho mục đích điều trị.
Chọn phương pháp điều trị cũng là giải pháp hiệu quả kinh tế cao như: Giải pháp cơ
học trị liệu, vật lý trị liệu, sinh học trị liệu, hóa học trị liệu.
Ví dụ: Phương pháp sinh lý trị bệnh và phòng bệnh- Physicus therapia là phương pháp sử
dụng nguồn năng lượng tự nhiên như: ánh sáng, âm thanh, nước, bùn khoáng có sẳn trong tự
nhiên để điều trị. Các tác nhân trên ảnh hưởng rất có lợi cho cơ thể, và phản ứng trả lời các
yếu tố đó bằng các phản ứng lý sinh học, hóa sinh học, thần kinh và thể dịch. Thông qua các
biến đổi ở mô bào tổ chức hướng có lợi cho cơ thể.
Như dùng ánh sáng tia cự tím, tia hồng ngoại Thực tế cho thấy rằng tác dụng của các tia
đến mô bào, tại điểm tác dụng nhiệt độ cục bộ tăng cao, lượng máu lưu thông cao gấp bình
thường tới 10-15 lần- gây xung huyết. Xung huyết có tác dụng thúc đẩy quá trình oxy hóa
khử, tăng cường quá trình trao đổi chất, nhanh chống triệt tiêu tác nhân gây bệnh.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
50
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Như dùng dòng điện với cường độ dòng diện 0,2-0,57mA, hoặc có thể dùng áp điện ứng

(Pharadization) với cường độ dòng điện cao hơn 25-50mA. Tác dụng của dòng điện kích
thích hưng phấn thần kinh vận động và thần kinh cảm giác.
Như điều trị bằng phương pháp cơ học - Xoa bóp- massage làm tăng tuần hoàn lympha và
tuần hoàn máu, ổn định thần kinh, cơ Tùy từng vị trí và cơ quan xuất hiện bệnh mà tiến
hành xoa bóp có kết quả.
Ngày nay, với những tiến bộ của các ngành khoa học đã sáng chế ra nhiều thiết bị y tế, thú y
để điều trị và phòng bệnh nội khoa có kết quả như tia xạ, hóa học trị liệu, rengen trị liệu, máy
xoa bóp
3.3. Bệnh ngoại khoa
Là nhóm bệnh mà can thiệp bằng phẩu thuật- liên quan đến mổ xẻ. Ngày nay, với những tiến
bộ khoa học phát triển đặc biệt là kháng sinh được sử dụng rộng rãi thì lỉnh vực ngoại khoa
càng phát triển giúp cho ngành chăn nuôi phát triển không ngừng. Nhiệm vụ của lỉnh vực này
là phòng các bệnh do chần thương điều trị các bệnh như thoát vị, apxe, khối u, gảy xương,
thiến hoạn gia súc
Ngoại khoa được chia ra hai phần chính: Ngoại khoa đại cương, ngoại khoa chuyên khoa.
Nhiệm vụ của ngoại khoa cần làm sáng tỏ các vấn đề sau:
-Các nguyên nhân cơ bản từ bên trong và bên ngoài dẫn tới các bệnh cần đến phẩu
thuật
-Cơ chế phát sinh các bệnh đó
-Triệu chứng lâm sàng và quá trình tiến triển của bệnh
-Phương pháp chẩn đoán bệnh
-Tiên lượng tiến triển của bệnh để có phác đồ điều trị
-Nguyên tắc điều trị và biện pháp chóng nhiễm trùng
-Quan tâm chế độ dinh dưỡng và chế độ lao tác của con vật
Nói tóm lại phần ngoại khoa đại cương là thực hiện các biện pháp phòng trị các hiện tượng
tổn thương và vết thương.
Tổn thương -là các yếu tố tác động bên trong bên ngoài gây nên các tổn thương cho mô bào
tổ chức, cơ quan nội tạng. Bao gồm các tổn thương như: Tổn thương trong nông nghiệp (điều
kiện chăm sóc nuôi dưỡng chuồng trại không đảm bảo), tổn thương do lao tác ( các tổn
thương xẩy ra trong quá trình lao tác của vật nuôi, như bò cày kéo, đẻ khó ),tổn thương do

thể thao, tổn thương do vận chuyển,tổn thương do thức ăn, tổn thương do chiến tranh.
Vết thương: Vết thương cơ học hay còn gọi là vết thương hở- là những tổn thương ở da, niêm
mạc của cơ quan tổ chức với các biểu hiện như: đau, rách không khép, chảy máu và rối loạn
chức năng.
Tóm lại, bệnh ngoại khoa xem xét các nội dung chính như: tổn thương,shock, ngoại khoa
truyền nhiễm (bệnh do vi khuẩn hiếu khí, kỵ khí tạo mũ, apxe, phlecmon), vết thương hở,
quá trình chết cục bộ hoại tử, vật lạ, tổn thương do nhiệt, dòng điện, hóa chất, các bệnh ngoài
da, bệnh mạch máu, cơ, dây chằng, khớp, khối u
3.4. Nhóm bệnh về sản khoa:
Là những bệnh liên quan đến quá trình sinh sản của con đực và con cái, như bệnh vô
sinh ở con đực, bệnh vô sinh ở con cái, bệnh về đường sinh dục của con đực và con cái (
viêm dịch hoàn, bao dịch hoàn, viêm tử cung, khối u buồng trứng, đẻ khó
3.5. Một số nét về bệnh thủy sản
Đặc điểm chung bệnh thủy sản
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
51
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Động vật thủy sản khác với động vật khác là do môi trường sống khác nhau. Môi trường thủy
sản là nước, còn các đối tượng động vật khác là không khí, do đó, khi động vật thủy sản mắc
bệnh nó có những đặc điểm chung và riêng.
Đặc điểm chung cho tất cả các loài sinh vật
- trên cơ thể tôm, cá và các loài động vật thủy sản khác thuờng xuyên mang mầm
bệnh, nhưng các dấu hiệu bệnh lý không rõ ràng.
-Cùng một lúc cơ thể động vật thủy sản có thể mắc nhiều bệnh khác nhau, ví dụ: hội
chứng đốm đỏ lở loét ở cá do virut, vi khuẩn nấm ký sinh trùng và điều kiện môi trường.
Đặc điểm riêng
-Do sống ở môi trường nước với một quần thể đông nên tốc độ lây lan bệnh rất nhanh
-Bệnh phát sinh rất khó phát hiện ngay từ ban đầu chỉ đến khi tôm cá chết hàng loạt
mới nghĩ ngay là bệnh.
-Việc dùng thuốc điều trị bệnh cho động vật thủy sản vô cùng khó khăn, khó xác

điịnh được nồng độ chính xác, vì ta cũng chỉ tính thể thích nước tương đối trong đầm ao
nuôi.
-Dùng thuốc với nồng độ tiêu diệt lại không hiệu quả mà lại kích thích tác nhân bệnh
phát triển, nếu dùng liều cao ở mức tiêu diệt thì ảnh hưởng tới những cá thể khỏe mạnh.
-Dùng thuốc trong trị bệnh cho động vật thủy sản là đưa vào môi trường nước, có thể
thông qua thức ăn, hoặc phun vào ao, nên hiệu quả sử dụng thấp
-Việc dùng thuốc trị bệnh trong nuôi tròng thủy sản là tốn kém mà không đem lại
hiệu quả, nên việc phòng bệnh là cơ bản.
Do vậy, muốn phòng bệnh tốt trong nuôi tròng thủy sản cần nắm được các qui luật sinh học
vốn có của từng loài thủy sản, như qui luật hoạt động về kết đàn, thời kỳ thành thục sinh dục
đẻ trứng, vổ béo, di cư tìm mồi, phản ứng của chúng đối với màu nước.
Một đặc điểm riêng biệt đối với động vật thủy sản là sống trong nước nên quá trình hô hấp
khác đối với động vật trên cạn. Đối với chúng, quá trình lấy oxy là oxy thể hòa tan trong
nước, tức là từ thể lỏng vào máu, khác với động vật trên cạn, lấy oxy từ không khí vào, tức là
từ thể khí vào thể lỏng. Chính vì vậy, môi trường nước nuôi chúng phải đảm bảo một số qui
định khắt khe, nhất là nồng độ oxy hòa tan trong nước.
Để tiện nghiên cứu và theo dõi phòng trị, các bệnh ở động vật thủy sản cũng được chia ra
một số nhóm bệnh sau:
-Bệnh do sinh vật kí sinh: bệnh do thực vật kí sinh: virut, vi khuẩn, nấm tảo, đơn bào-
hay gọi là bệnh truyền nhiễm.
-Bệnh do động vật kí sinh: nguyên sinh động vật, giun sán, đỉa cá, nhuyễn thể, giáp
xã hay gọi là bệnh kí sinh trùng.
-Bệnh do sinh vật phi kí sinh (bệnh do sinh vật hại cá): Các loài sinh vật này không kí
sinh ở tôm cá nhưng gây cho tôm cá chết. Thường do các loại tảo độc, thực vật động vật hại
tôm cá. Ví dụ: bọ gạo, bon Cyclops dùng chủy nhọn đâm vở trứng hoặc chích chết tôm cá.
-Bệnh do các yếu tố vô sinh: bệnh do dinh dưỡng ( do thiếu thừa các chất dinh dưỡng
cung cấp cho tôm cá), bệnh do yếu tố môi trường ( do các yếu tố cơ học, hóa học, vật lý học,
môi trường ao nuôi như: pH, DO, BOD,CHOD, NH
3
, NH

4
, H
2
S
Từ đó, biện pháp phòng trừ bệnh đối với các động vật thủy sản có những nét chung và riêng
như sau:
3.5.1. Biện pháp phòng trừ bệnh thủy sản
-Nâng cao sức khỏe cho các đối tượng nuôi
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
52
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Chọn đàn giông khỏe mạnh đồng đều, màu sắc tươi sáng, linh hoạt, đàn giống chọn những
địa phương gần để có tính thích ứng môi trường cao.
Gây miễn dịch nhân tạo, trộn vào thức ăn các loại vacxin phòng bệnh.
Mật độ nuôi thích hợp.
Nuôi ghép các đối tượng nuôi trong một ao đầm, tận dụng hết ther tích mặt nước nước nuôi,
làm sạch môi trường. Ví dụ như nuôi ghép cá trắm cỏ, cá mè cá chép, cá rô phi.
Cung cấp thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng
Định điểm cho ăn, thời gian cho ăn trong ngày.
-Tiêu diệt và kìm hảm mầm bệnh
Tẩy dọn ao nuôi, làm sạch đáy ao, dùng các hóa chất và cây thực vật để diệt mầm bệnh trong
ao nuôi
-Quản lý môi trường ao nuôi tốt với các chỉ số quan trọng như: pH, DO, NH
3
, H
2
S
Một số hóa chất thường sử dụng tẩy uế ao nuôi:
Hợp chất chứa CL như: Ca(OCL)
2

, NaOCL, CuSO
4,
vôi,Xanh methylen, Formalin, cây thực
vật như: lá xoan, tỏi, cât thuốc cá. Các chế phẩm sinh học
Một số bệnh thường gặp ở tôm cá
Bệnh xuất huyết do virut ở cá chép
Đây là một bệnh khá phổ biến ở cá chép tự nhiên và cá nuôi trong ao hồ. Bệnh gây thiệt hại
kinh tế cho ngành nuôi các nước ngọt đáng kể. Bệnh có nhiều tên gọi khác nhau: Bệnh phù ở
cá chép, bệnh đốm đỏ cá chép, Bệnh virut mùa xuân cá chép.
Tác nhân gây bệnh:
Có nhiều tác giả có các ý kiến khác nhau, nhưng cuối cùng đề thống nhất một số quan điểm
như sau:
- Do virut có cấu tạo là ARN (Roy và ctv)
- Do một số loài nấm
-Do vi khuẩn gây xuất huyết
-Do ảnh hưởng của môi trường,. Trong môi trường nước lắng động một số oxuyt kim
loại , chúng gây cản trở cho hô hấp ở mang cá.
Các yếu tố gây bệnh trên tác động qua lại ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sống của cá-
nên người ta còn gọi là hội chứng đốm đỏ lở loét.
Dịch tể học:
Bệnh gặp ở nhiều đối tượng cá nước ngọt, như cá trắm, mè rôphi, chép, nhưng mắc bệnh
nặng nhất vẫn là cá chép và trắm.
Bệnh xẩy rảơ nhiều nước và châu luc khác nhau. Hay nói cách khác nơi nào có điều kiện
nuôi nước ngọt thì đều có bệnh xuất hiện.
Ở nước ta bệnh xẩy ra quanh năm, là một trong những trở ngại lớn cho nghề nuôi trồng nước
ngọt.
-Dấu hiệu bệnh lý:
Cá ngạt thở bơi ở tầng mắt , cá chết chìm ở tầng đáy.
Dấu hiệu bên ngoài: mang và da xuất huyết có thể xuất huyết nhiều điểm.
Da có màu tối những chổ xuất huyết có viêm có nhiều chất nhầy, các tơ mang kết lại.

Trên thân có nhiều vết loét
Biện pháp phòng và trị:
- Chọn giống cá có sức đề kháng với bệnh.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
53
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
-Thực hiện qui trình vệ sinh đáy ao và ao trước khi thả giống.
-Khi có dấu hiệu bệnh xuất hiện cần thay nước, Treo túi vôi, nếu bổ sung thức ăn cần
trộn thêm kháng sinh.
- Dùng thuốc tím 5ppm tắm cho cá trong thời gian 5-10phút
- Có thể dùng muối ăn 3% tắm cho cá.
Bệnh nấm ở mang cá
Tác nhân gây bệnh là một số giống nấm thuộc Branchiomyces. Đây là loại nấm ít
phân nhánh, nấm ăn sâu vào tậ huyết quản.
Dịch tể học:
Bệnh thường gặp ở cá bột, cá giống, cá thịt của cá trắm cỏ, cá trắm đen, mè hoa, cá trôi cá
diếc.
Bệnh thường xuất hiện ở những ao nước bẩn động, những ao nuôi có hàm lượng chất hửu cơ
cao.
Mùa phát bệnh thường gặp ở cuối mùa xuân đầu mùa hè, mùa thu ít gặp.
CHẩn đoán bệnh: Xem mang cá.
Phòng trị:
Luôn luôn dùng nước sạch, nếu bón phân hửu cơ thì phải ủ hoai. Hiện nay vẫn chưa có thuốc
điều trị nấm đạc hiệu cho cá. Do vậy phải thường xuyên kiểm tra đàn cá nhất là mang cá.
Bệnh MBV của tôm- (MBV+ Monodon Baculo Virus)
Là một bệnh thường xẩy ra đối với tôm he, vào các giai đoạn khác nhau.
Bệnh ở thể cấp tính gây ra hiện tượng phá hủy tế bào biểu mô ruột tôm, gan, tụy ảnh hưởng
tới chức năng của các cơ quan này.
Là một bệnh lây truyền do virut, nên tính chất thiệt hại về kinh tế là vô cùng lớn lao. Nhiều
hộ nuôi tôm đã khuynh gia bại sản do bệnh MBV này gây nên cho đàn tôm.

Bệnhnày cảm nhiễm nặng nhất là vào giai đoạn tôm giống.
Bệnh nặng tôm bơi lờ đờ trôi dạt vào bờ và chết hàng loạt.
Chẩn đoán:
Dựa vào tính chất dịch tể, dấu hiệu bệnhlý của tôm. Song phát hiện bệnh này ngày nay có
nhiều phương pháp:
- Nhuộm tiêu bản để tìm thể ẩn của virut
-Phương pháp chẩn đoán PCR
Phương pháp phòng và trị:
Bằng phương pháp chẩn đoán PCR, cần kiểm tra chất lượng đàn giống, nguồn gốc xuất xứ.
Hủy đàn tôm giống khi phát hiện có mầm bệnh. Các dụng cụ phục vụ nuôi tôm cần vệ sinh
tẩy uế.
Hiện nay phương pháp trị bệnh vẫn chưa có kết quả.

BỆNH NẤM THÙY MY

Nấm thùy my thường xuyên có trong môi trường nước, nhất là trong ao tù nước bẩn, nhiều
chất hửu cơ mục nát.
Bệnh thường phát sinh trong hoàn cảnh đặc biệt:
-Cá bị thương xây xát
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
54
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
-Bị các bệnh như kí sinh trùng mỏ neo, rận cá
-Nuôi với mật độ quá dày.
-Điều kiện môi trường nước không thuận lợi cho việc sinh trưởng của cá.
Ở nước ta bệnh nấm thùy my khá phổ biến, và có ở nhiều vùng nuôi cá nước ngọt ở nước ta
như: Hà Đông, Hà nội, Cao Bằng Lạng Sơn Bệnh thường ở cá rô phi trong mùa đông, cá
trắm cỏ, cá chép khi gặp thời tiết lạnh. Thiệt hại do bệnh gây ra vô cùng to lớn đối với ngề
nuôi cá nước ngọt.
Nấm thùy my có nhiều tên gọi khác nhau, có nơi gọi là nấm nước, hoặc mốc da Nấm thùy

my gây bệnh cho cá có tên khoa học là Saprolegnia và Achlya. Mỗi sợi nấm là một thể nhiều
hạch không có vách ngăn, sinh trưởng bằng cách một đầu cắm sâu vào cá, một đầu tự do.
Dấu hiệu bệnh lý
-Ởda xuất hiện đốm trắng có màu đục.
-Sau vài ngày có thể nhìn thấy cả một vùng trắng, chứa nhiều sợi nấm.
-Trên trứng cá chép xuất hiện một vài sợi nấm, ngày sau phát hiện từng chùm.
-Không nhìn rõ trứng cá mà chỉ nhìn thấy một đám màu trằng như những sợi bông
-Dưới nước nấm thùy my rất dễ quan sát.
Cách phòng trị:
để ngăn chặn bệnh nấm thùy my, điều quan trọng là phải giử môi trường nước trong sạch,
nuôi dưỡng cá tốt, giử cho cá không bị thương tật, xây xát, kịp thời phòng trị bệnh nấm cho
cá. Với trứng cá chép, không nên cho cá đẻ vào những ngày quá lạnh. Cần chon cá bố mẹ
khỏe mạnh, để đảm bảo tỷ lệ thụ tinh cao. Thông thường bệnh xuất hiện ở những trứng
không được thụ tinh, sau đó lan truyền sang những trứng khác. Những vật liệu làm giá thể
cho cá đẻ phải ngâm trong dung d nước muối 2%, hoặc dung dịch thuốc tím 1/5-1/10 vạn
trong thời gian 15 phút.
Khi phát hiện cá bị nhiễm bệnh có thể dùng Green Malachit với nồng độ 0,1-0,2mg/l phun
trực tiếp xuống ao.
Cần có biện pháp cách ly cá bệnh với cá khỏe. Với cá rô phi trước khi đưa đi trú Đông cần
cho cá ăn khỏe, tăng khả năng chống rét của cá. Cá trú đông cần chọn những con không bị
thương tật, không nhiễm kí sinh trùng ngoài da. Có thể tắm cho cá trong nước muối hoặc
thuốc tím.
Chú ý không được phủ bèo kín mặt ao. Như vậy làm giảm khả năng hòa tan oxy vào trong
ao. Khi cá bị bệnh, có thể dùng dung dịch muối ăn 3% hoặc dung dịch thuốc tím 1/5 vạn để
tắm cho cá.

NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐÁNH GIÁ NHANH TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE TÔM NUÔI

Người nuôi tôm phải có những kiến thức nhất điịnh để chòn giống tôm đưa về ao nuôi. Trong
quá trình nuôi cần theo giỏ hàng ngày để đánh giá chất lượng tôm trong ao. Trên cơ sở đó có

những biện phpá kịp thời để ngăn chặn những thiệt hại đáng tiếc xẩy ra.
Sâu đây là những căn cứ cơ bản giúp cho cán bộ khuyến nông và những người cần quan tâm
đến chất lượng tôm nuôi:
1.Căn cứ vào trạng thái hoạt động của tôm:
Nếu phiêu sinh vật phát triển tốt, chất lượng nước tốt và tôm ở trong điều kiện tốt, thì kể từ
tuần lể nuôi thứ 3 sẻ ít nhìn thấy tôm.
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
55
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Khi tôm bị sốc do môi trường xấu thì tôm nổi lên trên, hoặc tôm bị bệnh bất kỳ nào đó thì
chúng cũng nổi lên trên và tập trung vào ven bờ.
Vì vậy cần phát hiện trạng thái bơi nổi dạt của tôm. Điều quan trọng cần kiểm tra hàm lượng
oxy hòa tan.
Khi thấy tôm tập trung ven bờ và chết thì cần kiểm tra đáy ao, vét tôm chết để biết được tỷ lệ
tôm chết.
2. Căn cứ vào màu sắc của tôm:
Màu sắc của tôm liên quan đến môi trường sống của chúng. Ở những ao có mức nước cạn
màu của tôm có màu sẩm hơn tôm nơi ao sâu. Sự thay đổi màu sắc có dấu hiệu về bệnh lý
của tôm.
Tôm bị sốc có màu đỏ, nhất là bộ phận chân và đuôi. Nguyên nhân gây màu đỏ đó là do sự
phóng thích của caroten.
Tôm còi chậm lớn có một vệt đỏ dọc theo thân.
3.Căn cứu vào độ bẩn của tôm
Một trong những dấu hiệu không bình thường đó là hiện tượng tôm bị đống rong. Lượng
rong đống nhiều hay ít nói lên tình trạng sức khỏe của tôm. Tôm khỏe thì rong không đống,
vì bản thân chúng có quá trình tự làm sạch. Tôm khỏe khi lột xác thì toàn bộ phần dơ bẩn bị
đào thải và trở lại bình thường. Nhưng một khi môi trường ao bẩn thì kìm hảm quá trình lột
xác của tôm. Những chất bẩn không trong ao nuôi không những có hại cho sức khỏe của tôm
mà là điều kiện để mầm bệnh phát sinh.
4.Căn cứ vào màu sắc của mang tôm

Tôm khỏe mạnh thường giử mang sạch sẻ, còn những tôm bệnh và yếu thì khả năng tự làm
sạch mang kém. Các chất bẩn bám vào mang ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hô hấp của
tôm. Do vậy thông qua độ sạch của mang tôm ta có thể đánh giá chất lượng đàn tôm trong
ao.
5. Căn cứu vào ruột tôm
Ruột tôm rổng hoàn toàn hay một phần là dấu hiệu tôm lơ ăn. Điều này có thể do thiếu thức
ăn, do môi trường bất lợi hay sức khỏe của tôm giảm.
Ruột tôm có màu trắng hay màu đỏ hơn so với màu của thức ăn tôm. Màu càng đỏ cũng có
thể do tôm ăn các động vật trong ao như giun tơ. Nếu ruột màu đỏ mà trong ao không có giun
tơ thì đó là dấu hiệu trong ao có tôm chết và chúng ăn xác chết lẩn nhau.
Màu sắc của gan tụy cũng phản ánh rất rõ tình trạng sức khỏe của tôm, mà nguy hiểm nhất là
màu vàng đó là dấu hiệu của bệnh đầu vàng (YHD- Yellow head diseas)
6.Căn cứ vào cơ tôm
Ngay sau khi lột võ tình rạng tôm đói kéo dài, cơ bụng không lắp đầy vở giáp. Điều này do
tôm mắc những bệnh mạn tính làm giảm sức ăn của tôm.
Nếu cơ tôm không choán hết, nhưng ruột đầy thức ăn chứng tỏ tôm mới lột xác.
Thịt của tôm trở nên đục có thể do nhiều lý do:
- Hiện tượng sốc cấp tính
-Nhiễm vi bào tử, hoặc trường hợp của hội chứng co rút cơ tôm
-Do nhiễm khuẩn cục bộ
-Cơ màu nâu, do thoái hóa đối xứng hai bên
7.Hiện tượng tôm mềm võ
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
56
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Một dấu hiệu khác thường là tôm bị mềm võ, hay mềm võ kinh niên. Thông thường, võ tôm
cứng lại sau 24 giờ khi lột xác. Nếu võ không cứng lại được tôm võ mềm nhăn nheo do
nhiễm trùng bề mặt.
Hiện tượng nở hoa trong nước
Hiện tượng "nở hoa trong nước" là hiện tượng trong ao nuôi tôm cá có một số lòa tảo như

Cyanophyta, Pyrrophyta, Chrysophyta phát triển quá mạnh, khi tảo chết có nhiều chất độc
gây hại cho tôm cá trong ao.
Tảo chết làm cho chỉ số pH trong ao tăng 9,5-11. Tảo chết sinh nhiều khí độc CO
2.
Trong ao nuôi nước lợ thấy độ trong của nước giảm xuống còn 15cm, cần cảnh giác tảo sẻ
phát triển tới đỉnh cao. Hiện tượng này nước trong ao sẻ có màu hơi đỏ hoặc màu tro.
Trong những trường hợp này thì:
-Tôm cá nổi đầu cao nhất vào sáng sớm ( cần phân biệt nổi đầu bình thường vào sáng
sớm vào khoảng 7-8 giờ thì kết thúc).
-Hàm lượng oxy hòa tan trơng nước ao nuôi giảm mạnh, tôm bơi quanh bờ ở tầng
mặt.
-Hiện tượng tôm bơi thành đàn ban ngày sát đáy là hiện tượng tôm thiếu thức ăn trầm
trọng.
- Khi tôm cá nổi đầu nghiêm trọng do nước " nở hoa" cần bơm thêm nước mới vào
ao. Có điều kiện sục khí, nhất là các ao nuôi tôm.
Hiện tượng sốc (stress) do nhiệt
Nhiệt độ ao nuôi quá thấp hay quá cao đều bất lợi cho đời sống tôm cá. Khi nhiệt độ vượt
quá giới hạn cho phép đều ảnh hưởng đến đời sống và có thể tôm cá chết hàng loạt.
Về mùa Đông nhiệt độ xuống 13
0
- 14
0
C, kéo dài gây chết tôm và cá.
Mùa Hè nhiệt độ tầng nước mặt lên tới 37-40
0
C, nhất là ao hẹp, nước nong dưới 1m, thì nhiệt
độ nước tầng đáy bằng nhiệt độ nước tầng trên. Tất cả đều làm cho tôm cá giảm bắt mồi, tăng
trưởng chậm, tỷ lệ hao hụt nhiều.
Ví dụ: Tôm sú sông trong nhiệt độ nước ao nuôi là 35
0

C thì tôm sống 100%, nếu nhiệt độ
tăng lên 37
0
C thì tỷ lệ sồng giảm xuống 60%. Ở 40
0C
tỷ lệ sống 40%.
Tuy nhiệt độ nước nằm trong giới hạn thích hợp song nếu thay đổi đột ngột cũng làm cho
tôm cá bị sốc và chết.
Trong vận chuyển tôm cá, nhiệt độ trong các dụng cụ vận chuyển thường được hạ thấp, cần
vận dụng thích hợp nhiệt độ vận chuyển với nhiệt độ nơi thả. Nếu thay đổi nhiệt độ 5
0C
thì
tôm cá chết .
Khi thả tôm cá cần pha thêm nước từ từ vào túi đến khi nhiệt độ cân bằng mới thả tôm cá.
Việc làm trên rất quan trọng, nhiều cơ sở ương nuôi cá không quan tâm đúng mức đến khi
thả tôm cá đã làm cho chúng choáng và chết hàng loạt mà chúng ta không hay biết.
Khí độc trong ao
Trong ao bón nhiều phân hửu cơ, nhiều bùn thêm vào đó cho ăn thức ăn công nghiệp tôm cá
không sử dụng hết, thức ăn tồn động làm tiêu hao một lượng oxy sinh ra hàng loạt khí độc có
hại đến đời sống của tôm cá.
Khi sản sinh ra khí độc chúng tạo thành nhiều bọt nhỏ, các bọt nhỏ hợp lại tạo thành bọt lớn
nối thành nhiều bọt nổi trên mặt nước.
Khí N- NO
2
ở troang ao có hàm lượng 6,4mg/l thì sinh trưởng của tôm cá giảm tới 50%.
Khí N-NH
3
là 0,45mg/l sinh trưởng của tôm cũng chậm 50%.

Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế

57
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
Hàm lượng khí trong ao nuôi thích hợp là:
CHẤT KHÍ HÀM LƯỢNG THÍCH HỢP
N-NO
2
H
2
S
N-NH
3
< 0,25MG/L
0,002MG/L
0,02MG/L

Trời mưa các vùng đất chua phèn,nước mưa làm trôi độ chua của đất xuống ao. Kết quả độ
pH của ao hạ thấp, có thể gây chết cá, tôm.
Ở các ao nuôi cá nước lợ cần đề phòng lúc trời mưa. Nước ngọt nổi trên bề mặt ao tạo thành
lớp ngăn cách oxy hòa tan vào trong nước ở tầng dưới làm cho tôm cá bị thiếu oxy. Trong
trường hợp này cần quấy đảo ao để nước ngọt trộn đều trong ao.
Tóm lại,như chúng ta đã hiểu tôm cá sống dưới nước, việc chẩn đoán điều trị bệnh gặp vô
cùng khó khăn. Khi phát hiện được bệnh thì thực hiện biện pháp phòng, còn điều trị bệnh
không đơn giản.
Mặt khác môi trường nước là môi trường truyền bệnh khá nhanh. Trong thực tế dịch bệnh đã
gây nhiều thiệt hại về kinh tế thậm chí còn gây nguy hiểm cho con người. Vì vậy, trong bệnh
thủy sản cần quán triệt phương châm "phòng bệnh là chủ yếu, trị bệnh là quan trọng".
Phòng bệnh:
* Nguyên tác chung
-Luôn luôn tạo điều kiện tốt môi trường nước cho tôm cá như cho ăn đầy đủ chúng
lớn nhanh có sức đề kháng bệnh tật tốt.

-Thường xuyên quan sát phát hiện các yếu tố gây bệnh, ngăn chặn và tiêu diệt mầm
bệnh càng sớm càng tốt.
-Hạn chế mầm bệnh lây lan sang khu vực ao nuôi khác.
* Một số biện pháp cụ thể:
-Nguồn nước đưa vào ao ương không nhiễm bẩn, không nhiễm mầm bệnh, đặc biệt
đối với các trại sản xuất giống.
-Nước phải lọc qua hệ thống cơ học như sỏi cát
-Tiêu diệt mầm bệnh trong nước bằng Chlorin 30ppm, formol 30ppm.
-Nước vào ao ương cần có đường cấp nước riêng
-Nước thải không được thải trực tiếp xuống biển sông suối
-Các ao ương nuôi tôm cá cần được tẩy bằng vôi 7kg/100m
2
, đặc biệt đối với ao bị
chua phên cần xử lý vôi để nâng độ pH thích hợp
-Tôm cá bố mệ sinh sản phải chọn kỷ, khỏe mạnh không bệnh không xây xát.
-Trước khi nhập tôm cá giống cần phải kiểm tra chất lượng tôm cá, bị bệnh hay
không bằng test formol
-Cơ cấu mật độ nuôi phải thích hợp
-Phân hửu cơ bó xuống ao tạo nguồn dinh dưỡng cần phải được ủ hoai với vôi.
*Trị bệnh:
Nguyên tắc chung,chẩn đoán đúng tác nhân gây bệnh, chọn thuốc thích hợp, dể kiếm
dể dùng, hiệu quả cao, không hại cho tôm cá và con người.
Một số biện pháp cụ thể:
-Khi tôm cá có dấu hiệu không bình thường thì ngừng ngay việc bón phân
Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
58
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản
-Thay nước
-Báo cho cơ quan chuyên môn để chẩn đoán bệnh
-Lấy bệnh phẩm và lấy mẫu nước để phân tích

-Đo các chỉ số môi trường nước ao nuôi như: DO. NH
3
, H
2
S, độ trong, CO
2
-Đối với ngoại KST thì dùng thuốc tắm và theo dõi sức chịu đựng của tôm cá.
-Với biện tích ao nuôi nhỏ thì có thể dùng biện pháp rắc thuốc
-Với bệnh KST, vi khuẩn thì tốt nhất là trộn thuốc vào thức ăn theo liều qui định
-Khi tôm cá bị bệnh việc chửa trị bằng thuốc là cần thiết nhưng phải hết sức chú ý là
giử cho môi trường nước sạch.

Tài liệu tham khảo:

1. Thomas Carlyle Jones, (1983), Veterinary pathology
2.Daniel. K. Kusewitt, (2001) Veterinary pathology, volume 38, p.20-23
3.Vũ Công Hòe, (2002), Giải phẩu bệnh học, NXB yhọc, Hà Nội
4.Sử An Ninh, (2004) Tồn dư kháng sinh và sức khỏe cộng đồng. Khoa học kỷ thuật thú y, 2.
74-82
D.Herenda, (1994) Cẩm nang kiểm tra thịt tại lò mổ.
BộNN& PTNT, (2003), Công tác vệ sinh thú y, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
5.Phạm Văn Tý, 2001), Miễn dịch học, NXB Hà nội
6.Nguyễn Chính, (1993), Kỷ thuật sản xuất tôm giống và cá nước lợ.
7.Cao Xuân Ngọc, (1997), Giải phẩu bệnh đại cương. NXB, nông nghiệp.
8.Lê Thanh Hòa (2004), nguyên lý ứng dụng RT-PCR; PCR, và dồng hóa sản phẩmNguyễn
Vỉnh Phước (chủ biên), Nguyễn Văn Hanh, Đặng Thế Huynh, !1978), Giáo trình bẹnh truyền
nhiễm gia súc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
9.Phạm Hồng Sơn (chủ biên), Phan Văn Chinh, Nguyễn Thị Thanh, Phạm Quang Trung,
(2002), Giáo trình vi sinh vật, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Phạm Hồng Sơn, (2006), Giáo trình vi sinh vật (phần đại cương), NXB Nông nghiệp, Hà

Nội.
11.Viện hàn Lâm Liên Xô (cũ), (1976), bách khoa toàn thư thú y, tập 1-6. (tiếng Nga)
12.I.F. Ivanov, (1976) Tế bào tổ chức phôi thai, NXB Bông lúa ,Moskva (Tiếng Nga)
13.M.B.Plachotina, (1966) Phẩu thuật thú y, NXB Bông lúa, Moskva (Tiếng Nga)
14. I.P.Plochin, (1971), Chẩn đoán lâm sàng học, NXB Bông lúa, Moskva (Tiếng Nga)
15.I.E. Mozgov, (1974), Dược lý hoc, NXB Bông lúa, Moskva (Tiếng Nga)
16.F.P. Trynus, (1976), Sổ tay tra cứu dược, NXB Bông lúa, Moskva (Tiếng Nga)


Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
59
Phạm Quang Trung Bài giảng Thú y cơ bản

MỤC LỤC
Trang
Chương IV. 36
PHÂN LOẠI CÁC NHÓM BỆNH 36
Nội dung chính của chương 4: 36
1. Bệnh truyền lây 36
1.1. Định nghĩa 36
1.2. Tính chất của bệnh 36
1.3. Điều kiện gây bệnh 37
1.4. Tác động của vi khuẩn vi rut lên cơ thể động vật 37
1.5. Một số nét khác biệt của bệnh lây truyền 38
1.6.Một số biện pháp phòng trừ bệnh truyền lây 38
2. Bệnh kí sinh trùng- Parasitos 40
2.1. Định nghĩa về bệnh kí sinh trùng: 40
2.2. Những thiệt hại do bệnh kst 41
2.3. Điều kiện phát sinh bệnh kst 41
2.4. Con đường truyền bệnh của kst 42

2.5. Các loại kí chủ và nơi kí sinh của kst 43
2.6. Biện pháp phòng ngừa tổng hợp đối với bệnh kst 43
2.7. Phân loại bệnh kí sinh trùng 44
2.8. Phương pháp chẩn đoán bệnh ký sinh trùng 44
2.9. Học thuyết nguồn dịch thiên nhiên của viện sỹ E.H.Pavlopski 46
3. Bệnh nội ngoại khoa- Bệnh không lây truyền 50
3.1. Bệnh nội khoa 50
3.3. Bệnh ngoại khoa 51
3.4. Nhóm bệnh về sản khoa: 51
3.5. Một số nét về bệnh thủy sản 51
3.5.1. Biện pháp phòng trừ bệnh thủy sản 52
Tài liệu tham khảo: 59




Khoa Chăn nuôi Thú y ĐHNL-Huế
60

×