Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô liên tỉnh tại thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 113 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội thuận lợi nhưng
cũng đương đầu không ít khó khăn đề tồn tại và phát triển, việc cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là một vấn đề mang tính quy luật và hết sức quan trọng của các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vận tải ô tô nói riêng. Nền kinh tế thị trường
càng phát triển và hoàn thiện thì vấn đề cạnh tranh càng trở nên gay gắt và quyết
liệt; Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì điều phải chấp nhận quy luật
này và luôn luôn hoàn thiện, nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực kinh doanh vận tải ô tô, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, ban
đầu chỉ có doanh nghiệp nhà nước, sau đó số lượng các doanh nghiệp tham gia thị
trường vận tải tăng lên không ngừng đã làm cho việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp vận tải ô tô bắt đầu trở nên sối động và gay gắt. Bên cạnh đó, nhà nước
không ngừng hoàn thiện cơ chế thị trường đề tạo môi trường bình đẳng cho các
doanh nghiệp đều hoạt động bình đẳng trước pháp luật.
Quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải ô tô trong nền
kinh tế thị trường đã có nhiều doanh nghiệp đã tự khẳng định mình và phát triền
nhưng không ít các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và dẫn đến thua lỗ
và phá sản. Khi phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có một nguyên
nhân quan trọng là các doanh nghiệp không thể bỏ qua đó là chiến lược cạnh tranh
trên thị trường.
Hải Phòng là một thành phố ven biển, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây
giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ
thuộc biển Đông và đảo Hải Nam - cách huyện đảo Bạch Long Vĩ khoảng 70 km.
Thành Phố cách thủ đô Hà Nội 102 km về phía Đông Đông Bắc.
Điểm cực Bắc của thành phố là xã Lại Xuân thuộc huyện Thủy Nguyên; cực
Tây là xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo; cực Nam là xãVĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo;
1
và cực Đông là đảo Bạch Long Vĩ.Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hải
Phòng trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam, bao gồm cả
đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Hầu hết doanh nghiệp kinh


doanh vận tải ô tô với quy mô nhỏ, trình độ quản lý vẫn còn yếu kém và vẫn chưa
tranh thủ được tiềm năng của địa bàn đề phát triển. Nguyên nhân chính là các doanh
nghiệp vận tải ô tô trên địa bàn vẫn chưa ý thức xây dựng được cho doanh nghiệp
của mình một chiến lược cạnh tranh đúng đắn.
Xuất phát từ vấn đề trên đây, đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô liên tỉnh tại Thành
phố Hải Phòng” có tính thời sự, cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô liên tỉnh trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô liên tỉnh trên địa bàn, từ đó
đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các tài liệu, số liệu được sử dụng trong đề tài là các tài liệu, số liệu được các cơ
quan quán lý nhà nước, các doanh nghiệp công bố và cá nhân thu thập được.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tình hình cạnh tranh hiện nay của các doanh nghiệp vận tải hành
khách bằng ô tô liên tỉnh trên địa bàn và phân tích thực trạng và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô liên tỉnh trên địa bàn trong nền kinh tế thị
trường và xu thế hội nhập với kinh tế thế giới của Việt Nam hiện nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: các phương pháp của thống kê học,
toán kinh tế, các phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh.v.v đề nghiên cứu và thực
hiện mục tiêu đã đề ra của luận văn.
6. KẾT CẤU NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn có kết cấu theo ba chương.
2
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Theo từ điển tiếng Việt
“cạnh tranh là giành nhau đề chiếm phần thắng”.
Trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh là một hoạt động kinh tế của các doanh
nghiệp, nó được thể hiện trong các biện pháp kinh doanh. Có thể hiểu cạnh tranh
của các doanh nghiệp là việc sừ dụng hệ thống các chính sách, công cụ của các
doanh nghiệp đề đối phó và phản ứng với các doanh nghiệp khác nhằm mục tiêu tồn
tại và phát triển trên thị trường đề thu được lợi nhuận dự kiến hoặc lợi nhuận tối đa.
Trên những giác độ tiếp cận khác nhau liên quan tới nội dung và cấp độ xem xét,
có thể đưa ra một số các định nghĩa như:
Cạnh tranh là: ‘'tranh đua giữa các cá nhân, tập thể có chức năng như nhau,
nhằm giành phần thắng về mình”.
Cạnh tranh là “sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia.
Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải
ai cũng có thể giành được” và chiến lược cạnh tranh là một khía cạnh của chiến
lược thương mại bao gồm việc doanh nghiệp phát triển các chính sách đề đối phó và
đánh bại các đối thủ cạnh tranh của mình trong vấn đề cung cấp một sản phẩm nhất
định (Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học).
Năng lực cạnh tranh là “khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của
những hàng hóa cùng loại trên một thị trường tiêu thụ”;
Có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này nhưng có thể chỉ ra một số đặc
trưng, thề hiện bản chất của cạnh tranh cũng như giúp nhận dạng và khai thác lợi
thế cạnh tranh phù hợp với các điều kiện riêng biệt của doanh nghiệp. Cạnh tranh,
3
xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng thái động và ràng buộc trong mối
quan hệ so sánh tương đối.
Ở cấp ngành và cấp công ty, đề theo đuổi và đáp ứng được với cạnh tranh, từng

công ty tùy thuộc vào loại hình sản phầm với nhóm thị trường trọng điểm sẽ khai
thác lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và công nghệ.
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh
tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là yếu tố
quan trọng là lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển; Vì
sự cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung cấp những sản
phẩm,dịch vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của người tiêu
dùng, của thị trường với chi phí sản xuất và giá cả ở mức thấp nhất (chấp nhận).
Trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải tuân theo quy luật của sự đào thải và chọn lọc,
nghĩa là phải thích ứng với thị trường thì mới tồn tại và phát triển được. Trong quá
trình cạnh tranh, doanh nghiệp dần khẳng định được vị trí và uy tín của mình trên
thị trường. Xét về mặt xã hội, cạnh tranh thúc đẩy sự phát tiền của nền kinh tế và là
công cụ điều tiết thị trường.
1.1.2 Phân loại canh tranh
a. Căn cứ vào cấp độ (chủ thể) cạnh tranh
Cạnh tranh cấp quốc gia: là sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ và phân chia thị trường quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu
hóa và phân công lao động quốc tế ngày càng trở nên sâu sắc hơn, thì sự cạnh tranh
giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi.
Khả năng cạnh tranh quốc gia: Là khả năng quốc gia có thể đạt được những
thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được mức tăng trưởng cao,
được xác định bằng sự thay đổi của tồng sản phẩm quốc nội đầu người theo thời
gian.
Cạnh tranh cấp ngành (doanh nghiệp): Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong ngành trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho người tiêu dùng trong và
4
ngoài nước nhằm nâng cao thị phần, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh cấp độ ngành (doanh nghiệp): Là khả năng bồi đắp chi phí,
duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
trên thị trường, nói cách khác thì khả năng cạnh tranh của ngành (doanh nghiệp) là

khả năng duy trì và mở rộng của ngành (doanh nghiệp) trong môi trường kinh
doanh. Khả năng cạnh tranh của ngành (doanh nghiệp) thể hiện thực lực và lợi thế
của ngành (doanh nghiệp) so với đổi thủ cạnh tranh trong việc cung cấp sản phẩm
và dịch vụ. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng cạnh tranh khi nó vừa tối đa
hóa lợi ích của doanh nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Cạnh tranh cấp sản phẩm: Là sự cạnh tranh giữa sự cung cấp các giá trị và giá trị
sử dụng cho người tiêu dùng giữa các sản phẩm, dịch vụ có cùng giá trị sử dụng có
khả năng thay thế lẫn nhau.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ thể hiện qua khả năng thay thế sản
phẩm, dịch vụ khác hay nói cách khác, khả năng cạnh tranh của sản phẩm chính là
khả năng tồn tại của sản phẩm trên thị trường.
Khi sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao thì doanh nghiệp mới có khả
năng cạnh tranh cao, đồng thời khi các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao thì
quốc gia mới có khả năng cạnh tranh. Như vậy ta có thể nói khả năng cạnh tranh
của sản phẩm, dịch vụ chính là cốt lõi của khả năng cạnh tranh.
b. Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn
doanh nghiệp nhỏ sản xuất và bán ra một loại hàng hóa, dịch vụ giống hệt nhau và
với số lượng của từng doanh nghiệp quá nhỏ so với tồng số hàng hóa trên thị
trường.
Thị trường này có một số đặc điểm: Có rất nhiều người sản xuất và bán hàng hóa
giống hệt nhau, song không ai có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm đề
có thể làm thay đổi giá cả. Người bán có thể bán toàn bộ hàng hóa của mình với giá
thị trường. Như vậy, họ phải chấp nhận giá thị trường có sẵn dù tăng hay giảm
lượng hàng hóa bán ra. Không có trở lực gì quan trọng ảnh hưởng đến việc gia nhập
5
vào một thị trường hàng hóa. Muốn có lãi doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí
sản xuất.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp không
ngừng cải tiến cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng đồng thời

phải tìm cách giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất. Tuy nhiên trong điều kiện
kinh tế thế giới hiện nay rất khó tìm thấy hình thái này.
Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng
cạnh tranh bình thường vì nó phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường
mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia ra nhiều
thứ loại, nhiếu chất lượng Sản phẩm tương tự có thể được bán với nhiều nhãn hiệu
khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Người bán có
thể có uy tín độc đáo riêng biệt đối với người mua do nhiều lý do khác nhau: khách
hàng quen, gây được lòng tin, các cách thức quảng cáo. ảnh hưởng tới người mua.
Do đó, trong giá có sự phân biệt, nhiều mức giá đưa ra tùy khu vực, tùy nguồn cung
ừng, tùy người mua.
Cạnh tranh độc quyền: Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm có thể thay thế
nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Vì những lý do khác
nhau (chất lượng, hình dáng, danh tiếng ) người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi
doanh nghiệp khác với của các doanh nghiệp khác. Do đó, một số khách hàng sẵn
sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm mình thích. Trong ngán hạn, thị trường này khó
gia nhập nhưng trong dài hạn thì có thể. Nhà sản xuất định giá nhưng không thể
tăng giá một cách bất hợp lý, về dài hạn thì không thể trở thành thị trường độc
quyền được. Cạnh tranh độc quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như
quàng cáo, phân biệt sản phẩm.
c. Căn cứ vào các chủ thể kình tế tham gia vào thị trường
Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh giữa người bán
và người mua diễn ra theo luật mua rẻ bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán
sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại người mua muốn mua với giá thấp
6
nhất. Giá cuối cùng là giá thống nhất giữa người mua và người bán mà theo đó hoạt
động mua bán được thực hiện.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung
nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu

cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc
đó giá cả hàng hóa, dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng do khan hiếm nên người mua vẫn sẵn
sàng trả giá cao. Đây là cuộc cạnh tranh mà theo đó người mua sẽ bị thiệt còn
những người bán được lợi.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh gay go và
quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị trường. Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hóa
càng phát triển càng có nhiều người bán dẫn đến cạnh tranh ngày càng quyết liệt
trên nhiều phương diện và nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật một mặt tác động đến các nhà sản xuất, một mặt làm thay
đổi nhu cầu của người mua, do đo nó dần làm biến đổi vị trí các yếu tố cạnh tranh.
Một cách chung nhất cạnh tranh là sự ganh đua ở các giác độ: chất lượng, giá cả,
nghệ thuật, tổ chức tiêu thụ và thời gian đáp ứng.
1.1.3 Vai trò của cạnh tranh
a. Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là động lực cho doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệp tự tìm cho
mình những biện pháp cần thiết đề nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản
xuất kinh doanh, phải triệt đề không ngừng sáng tạo, tìm tòi. Cạnh tranh buộc các
doanh nghiệp phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin
kịp thời, chớp thời cơ. Cạnh tranh quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường thông qua những thế lợi mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơnđối thủ cạnh
tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng hay giảm uy tín cho doanh
nghiệp trên thương trường.
b. Đối với người tiêu dùng
Cạnh tranh mang lại cho người tiêu dùng những hàng hóa dịch vụ tốt hơn, tính
7
năng ưu Việt hơn. Cạnh tranh đem đến cho người tiêu dùng ngày còn nhiều chủng
loại hàng hóa, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Không những thế
cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thõa mãn hơn nữa về nhu cầu tiêu dùng.
c. Đối với nền kinh tế quốc dân

Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là điều kiện quan trọng đề phát triển lực lượng sản xuất, dựa trên
tiến bộ khoa học công nghệ ngày càng cao vào trong sản xuất, hiện đại hóa nền kinh
tế.
Cạnh tranh làm xóa bỏ những độc quyền bất hợp lý, xóa bỏ những bất bình đẳng
trong kinh doanh.
Cạnh tranh ngày càng nâng cao đời sống xã hội, góp phần gợi mở nhu cầu kích
thích, nhu cầu phát triển.
Cạnh tranh góp phần làm cho doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực khan
hiếm của xã hội.
Tuy nhiên không phải tất cả các mặt cạnh tranh đều mang tính tích cực mà bản
thân nó cũng phải thừa nhận là có những mặt tiêu cực của nó như:
Bị cuốn hút vào mục tiêu kinh doanh, mà các doanh nghiệp không chú ý đến các
vấn đề xung quanh như: xừ lý nước thài, ô nhiễm môi trường và các vấn đề khác.
Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền.
Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi.
1.1.4 Mục đích cạnh tranh của các doanh nghiệp
Chúng ta không thể phủ nhận rằng dù doanh nghiệp có làm nhiều biện pháp đề
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng mục đích cuối cùng
vẫn là làm thế nào đề tạo ra được nhiều thuận lợi.Trong từng điều kiện hoàn cành
cụ thể khác nhau doanh nghiệp sử dụng những công cụ cạnh tranh khác nhau nhằm
đạt được mục tiêu trước mắt như:
- Cạnh tranh đề làm tăng thị phần hoặc làm tăng doanh thu.
- Cạnh tranh nhằm mở rộng thị trường, xâm nhập thị trường mới.
8
- Cạnh tranh nhằm thúc đẩy thị trường tiếp cận sản phẩm mới với thị trường
nhanh hơn.
- Cạnh tranh đề đánh bại đối thủ mới xâm nhập.
- Cạnh tranh đề nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như uy tín của công ty trên

thương trường
1.1.5 Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
a. Cạnh tranh về giá:
Trong kinh doanh, giá là một trong những công cụ rất quan trọng trong cạnh
tranh. Đề giành được phần thắng trong cuộc chạy đua kinh tế thì các doanh nghiệp
thường đưa ra một mức giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh hoặc giá ưu đãi
nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ. Cạnh
tranh bằng giá thực chất là tạo được nghệ thuật sử dụng giá và giá bán, tạo ra nhiều
lợi thế trên thương trường.
Cạnh tranh bàng giá thường được thể hiện trên các lĩnh vực sau:
- Hạ giá: Biện pháp này thực chất là chú trọng đến việc quản lý chặt chẽ các chi
phí, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một sự lựa chọn công nghệ và thiết bị phù hợp.
Việc hạ giá đề cạnh tranh chỉ có ý nghĩa trong thời gian chiếm lĩnh thị trường và khi
đã chiếm lĩnh thị trường thì doanh nghiệp có thể hoàn giá theo mức cũ hoặc tương
đương.
- Giá ưu đãi: Đây là một trong những công cụ có thế lực rất mạnh trên thương
trường, giá ưu đãi thường thấp hoặc rất thấp, do đó nó trở thành yếu tố lợi ích hấp
dẫn đối với người mua. Vì vậy, nó có khả năng rất lớn trong việc lôi kéo nhu cầu xã
hội về việc sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
Kết hợp giá với các biện pháp khác như phương pháp bán, phương thức thanh
toán, giá với quảng cáo đề lôi kéo khách hàng. Với biện pháp này doanh nghiệp
cần tạo ra lợi ích vật chất cho khách hàng và lòng tin với doanh nghiệp.
b. Cạnh tranh về sản phẩm:
Đây là một trong những hình thức cạnh tranh quan trọng nhất, cạnh tranh bằng
sản phẩm thường được thể hiện ở những khía cạnh sau:
9
Cạnh tranh thông qua việc đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao
hơn. Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì chất lượng của sản
phẩm và dịch vụ là mối quan tâm của khách hàng, nếu như hàng hóa có chất lượng
thấp thì dù có bán giá rẻ cũng không tiêu thụ được. Những sản phẩm này sẽ có ưu

thế lớn trong thương trường. Cạnh tranh bằng việc lựa chọn hợp lý hơn các thuộc
tính tiêu dùng cho sản phẩm và qua đó tạo ra tính trội cho sản phẩm.
Cạnh tranh về phương diện nhãn mác, biểu tượng và uy tín.
c. Cạnh tranh về phân phối và bán hàng:
Đa dạng hóa các phương thức, các kênh tiêu thụ: Đề tiêu thụ được sản phẩm,
dịch vụ có rất nhiều phương thức, nhiều kênh tiêu thụ khác nhau. Mỗi phương thức,
mỗi kênh tiêu thụ có những ưu nhược điểm khác nhau. Như vậy, đề nâng cao được
khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp cần thực hiện tiêu thụ sản phẩm,
dịch vụ qua nhiều phương thức, nhiều kênh khác nhau nhằm phát huy được những
điểm mạnh, khắc phục được các điểm yếu của từng phương thức, từng kênh tiêu
thụ. Thông qua việc sử dụng nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau, doanh nghiệp
cần dựa vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, đặc điểm của sản phẩm đề lựa chọn
được phương thức, kênh chủ lực trong phân phối và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp.
Hệ thống bán phong phú: Đề giúp người tiêu dùng biết và lựa chọn tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cần xây dựng được một hệ thống bán hàng phong
phú, đặc biệt là tạo ra các hệ thống trung tâm bán hàng. Một doanh nghiệp có hệ
thống bán hàng phong phú, đa dạng và rộng sẽ giúp doanh nghiệp tăng khả năng
giới thiệu và cung cấp sản phẩm cho khách hàng, nhờ đó mà khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp tăng cao.
Có khả năng hợp tác giữa những người bán trên thị trường lớn. Trên những thị
trường lớn, nhu cầu rất đa dạng và phong phú nên một doanh nghiệp không có khả
năng thỏa mãn được tất cả các nhu cầu này. Vì vậy, nếu các doanh nghiệp hợp tác
với nhau trong việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ sẽ tạo ra cơ hội cho mỗi
doanh nghiệp trên thị trường.
10
Kết hợp phương thức bán và phương thức thanh toán hợp lý. Phương thức bán,
giá cả và phương thức thanh toán có quan hệ mật thiết với nhau, chúng hỗ trợ nhau
đề giúp cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện được các mục tiêu của doanh
nghiệp trên cơ sở phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

d. Cạnh tranh về các dịch vụ bán và sau khi bán;
Các dịch vụ bán và sau khi bán tạo ra những ấn tượng và tạo tâm lý thỏa mái cho
khách hàng sau khi tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Vì vậy, sử dụng
các dịch vụ bán và sau khi bán phong phú, hợp lý sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh tốt
hơn cho doanh nghiệp.
Tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất trong việc thanh toán. Với những điều
kiện khác như nhau, nếu điều kiện thanh toán càng thuận lợi thì người tiêu dùng
càng có xu hướng tăng cường mua và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Có chính sách tài chính tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện cho việc mua bán với khách
hàng.
Bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng tốt nhất, thường xuyên cung cấp những
dịch vụ sau khi bán cho những người sử dụng, đặc biệt là những sản phẩm có bảo
hành.
e. Cạnh tranh về thời cơ thị trường:
Doanh nghiệp nào dự báo và nắm được thời cơ thị trường thì sẽ chiến thắng
trong kinh doanh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do các yếu tố sau:
- Sự thay đổi, xuất hiện xu thế và trào lưu tiêu dùng.
- Sự thay đổi của môi trường công nghệ.
- Sự thay đổi của điều kiện tự nhiên
Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo được sự
thay đổi, có các chính sách khai thác thị trường hợp lý và sớm hơn các doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, cạnh tranh về thời cơ thị trường cũng còn được thể hiện ở
chỗ doanh nghiệp tìm ra được một số lợi thế trong kinh doanh sớm đưa vào khai
thác thị trường và khi đó sẽ làm cho các sản phẩm của doanh nghiệp khác sớm bị
bão hòa.
11
g. Cạnh tranh về thời gian:
Loại canh tranh này xuất hiện khi các vấn đề về chính sách sản phẩm và chính
sách giá tương đối ổn định. Sự chênh lệnh giữa các doanh nghiệp cạnh tranh không
lớn. Trong trường hợp như vậy, thời cơ về thời gian có vai trò cực kì quan trọng,

doanh nghiệp nào có hoạt động bán thuận tiện, nhanh sẽ chiến thắng trong cạnh
tranh, cụ thể doanh nghiệp cần xử lý một loạt các vấn đề:
Ký hợp đồng với các điều kiện bán, các thủ tục thanh toán, các hoạt động sau khi
bán nhanh, thuận tiện.
Tạo lập chữ tín giữa người bán với người mua.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương thức kết hợp hoặc biến tấu
dựa trên các phương thức cơ bản. Các phương thức về Marketing (chiêu hàng, tiếp
thị, quảng cáo, nghiên cứu và phân tích thị trường ) được sử dụng như một công cụ
cạnh tranh, bởi nó ảnh hưởng lớn tới hiệu quả việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường
của doanh nghiệp.
1.2 SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.2.1 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp
có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài hơn trên thị trường cạnh tranh. Loại thị
trường phổ biến trong thực tế là loại thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, do vậy
các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh đều có vị trí nhất định của nó.
Nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hoặc
khả năng cạnh tranh yếu thì không tồn tại được.
1.2.2 Tính tất yếu khách quan việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp
Trong cơ chế tập trung, hầu như không có ai cho rằng nâng cao khả năng cạnh
tranh là cần thiết đối với các doanh nghiệp. Bởi vì doanh nghiệp không cần phải
cạnh tranh với nhau mà các doanh nghiệp chỉ cần thực hiện các chỉ tiêu nhà nước
giao. Nhà nước bảo đảm mọi khâu, mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh.
12
Nước ta đang tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nó hoạt động tuân theo quy luật giá trị, quy
luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế
thị trường, có kinh tế thị trường thì tất yếu xảy ra sự cạnh tranh.

Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, thêm
vào đó với chính sách mở cửa của nền kinh tế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp
nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam thì tình
hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt hơn.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra rất yếu trong cạnh tranh so
với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bởi nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế,
do đó doanh nghiệp Việt Nam chưa quen với cạnh tranh. Vì vậy mà hàng hóa nước
ngoài cạnh tranh gay gắt, chèn ép các sản phẩm trong nước hơn nữa các hình thức
trong kinh doanh, cách làm ăn của doanh nghiệp trong nước thường mang tính chụp
giật, cạnh tranh không lành mạnh và rất ít doanh nghiệp áp dụng chiến lược trong
kinh doanh.
Vậy có thể nói nâng cao năng lực cạnh tranh là một yếu tố khách quan của
doanh nghiệp làm thay đổi mối tương quan thế và lực của doanh nghiệp trên thị
trường về mọi mặt cùa quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2.3 Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
a. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
- Nguồn nhân lực: Được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức trong
tương lai. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm 3 cấp:
Ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban: Là đội ngũ có ảnh hưởng lớn đến
kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu trình độ quản lý cao, nhiều kinh nghiệm trên
thương trường, có khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó
sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
Đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất: Đòi hỏi phải có kinh nghiệm công tác, khả
năng ra quyết định và điều hành công tác.
Nhân viên: khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phần nào cũng chịu được sự
13
chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố như: Năng suất lao động, trình độ tay
nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ Các yếu tố này
chi phối việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm cũng như tạo thêm tính
ưu Việt, độc đáo mới lạ của sản phẩm.

- Trình độ tổ chức quản lý: Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ
cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt
là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến
thành sức mạnh tồng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp sẽ tận dụng được những
lợi thế, tiềm ẩn của tổ chức mình. Đây là một đòi hỏi đối với các chủ doanh nghiệp.
- Nguồn lực về tài chính: khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài
chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động,các chỉ tiêu tài chính hàng năm như
tỉ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán. Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính
tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn đề mở rộng
sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, đồng thời tăng khả
năng hợp tác đầu tư về liên doanh, liên kết.
- Nguồn lực về vật chất kỹ thuật thông thường nguồn lực vật chất kỹ thuật thể
hiện ở:
Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các
công nghệ tiên tiến.
Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp doanh
nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, nó tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc khách hàng hơn, giúp doanh nghiệp hiều rõ
khách hàng từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực
khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, đề đạt được hiệu
quả cao thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất
phải gần bằng công suất thiết kế. Nếu sử dụng công suất thấp sẽ gây lãng phí và lúc
đó, chi phí cố định cao gây ảnh hưởng tới giá thành, làm khả năng cạnh tranh của
14
doanh nghiệp giảm.
- Vị trí của doanh nghiệp: có vị trí thuận lợi doanh nghiệp có điều kiện đề
khuếch trương hình ảnh của mình đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận
khách hàng.

- Thương hiệu của doanh nghiệp: Là sự thừa nhận của khách hàng đối với hàng
hóa và dịch vụ đối với doanh nghiệp; là uy tín của một doanh nghiệp trên thương
trường.
Nguồn lực vật chất là nhân tố bên trong có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng
hóa của doanh nghiệp trên thị trường thế giới; Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất
hiện đại sẽ dễ dàng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sàn phẩm và nâng cao
chất lượng sản phẩm.
b. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Doanh nghiệp hoạt động gắn liền với môi trường kinh doanh, do đỏ doanh
nghiệp chịu sự tác động chi phối của nhân tố thuộc môi trường.
- Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế của một quốc gia ổn định hay bất ổn có
tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tính ổn định về
kinh tế, trước hết là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm
phát. Đây là điều các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm vì nó liên quan trực
tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao thì tỷ suất lợi nhuận tăng
sẽ dẫn đến số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường tăng nhanh và cạnh
tranh sẽ trở nên gay gắt. Ngược lại khi nền kinh tế bất ổn và suy thoái thì sức mua
giảm, những điều kiện thuận lợi của nền kinh tế không còn thì các doanh nghiệp
phải tìm cách đề duy trì sản xuất kinh doanh, giữ khách hàng như vậy cạnh tranh
trên thị trường sẽ ác liệt hơn. Do vậy, doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt tình
hình có chiến lược kinh doanh đúng đắn và tận dụng được lợi thế của mình thì sẽ
giành được thắng lợi trong cạnh tranh thị trường.
- Môi trường chính trị: Môi trường chính trị đang và tiếp tục đóng vai trò quan
15
trọng trong kinh doanh đặc biệt là đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Môi
trường chính trị là nền tảng cho ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hóa xã hội
đề các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh


Một quốc gia ổn định về chính
trị là một môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham
gia cạnh tranh và thu được kết quả.
Chính vì vậy, khi tham gia kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp phải am hiểu môi
trường chính trị ở các nước mà doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh.
- Môi trường pháp luật: Môi trường pháp luật là cơ sở pháp lý cho các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường. Hệ thống pháp luật nghiêm minh, chặt
chẽ, rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bình đẳng đề nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.
Thực tế chỉ ra rằng cùng với sự xuất hiện các liên minh kinh tế, liên minh chính
trị, đã xuất hiện những thỏa mãn mới song phương hoặc đa phương tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh doanh buôn bán trong khu vực, quốc tế. Vì vậy chỉ trên cơ sở
nẳm vững hệ thống pháp luật của từng quốc gia và hiệp định giữa các nước mới cho
phép các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc
gia, khu vực kinh doanh, hình thức kinh doanh đề tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro.
- Môi trường văn hóa xã hội: Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn
hóa tác động một cách gián tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông
qua khách hàng và cơ cấu của thị trường. Bởi lẽ, ở từng khu vực thị trường, từng
vùng khác nhau thì lối sống cũng như sở thích, thị hiếu, phong tục khác nhau dẫn
đến nhu cầu của họ về các sản phẩm cũng khác nhau.Ngay cả khi sản phẩm có chất
lượng tốt nhưng không hợp “gu” người tiêu dùng thì họ không chấp nhận.
- Môi trường công nghệ: Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp vì nó quyết định chất lượng, kiểu dáng và giá thành
sản phẩm. Nhờ công nghệ hiện đại giúp các doanh nghiệp thu thập, lưu trữ, xử lý
thông tin chính xác và có hiệu quả
.
Để tham gia cạnh tranh đạt kết quả doanh nghiệp
không chỉ cần có đủ các nguồn lực mà còn phải có đủ, chính xác nguồn thông tin về
16

thị trường, đối thủ cạnh tranh trực tiếp, tiềm tàng và biết cách xử lý thông tin có
hiệu quả. Khoa học công nghệ là tiền đề các doanh nghiệp tạo sự ổn định và nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Nói tóm lại, có rất nhiều các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh tác động đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các nhân tố này ở mỗi quốc gia đều có sự
khác nhau. Điều này, đòi hòi mỗi doanh nghiệp phải tìm hiểu rõ đề từ đó đưa các
biện pháp nhàm nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản phẩm của mình.
1.2.4 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Đề đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xem xét thông qua sơ đồ
sau:
Hình 1.1: Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
a. Các chỉ tiêu định tính:
- Thị phần: có rất nhiều phương pháp đề đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm
này so với sản phẩm khác. Trong đó, thị phần là một trong những chỉ tiêu thường
được dùng đề đánh giá. Thị phần là phần trăm thị trường mà một mặt hàng hoặc
doanh nghiệp chiếm lĩnh được.
Độ lớn của chỉ tiêu này chỉ nói lên mức độ chiếm lĩnh thị trường, vai trò, vị trí
của doanh nghiệp. Nếu một sản phẩm có thị phần đáng kể hoặc tốc độ tăng thị phần
cao tức là mặt hàng đó đáp ứng được yêu cầu của một số lượng lớn khách hàng.
17
Điều đó chứng tỏ sản phẩm đó có sức cạnh tranh cao. Một sản phẩm có thị phần
nhỏ hay thị phần giảm sút thường là những sản phẩm có sức cạnh tranh kém. Có hai
hình thức biểu thị của thị phần.
Thị phần tuyệt đối: Là tỷ lệ phần trăm doanh số của công ty so với doanh số
toàn ngành. Trên thị trường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh
doanh một mặt hàng. Thị phần tuyệt đối cho biết khả năng xâm nhập của thị trường
với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh thế nào.
Thị phần tương đối: Biểu thị quan hệ tỷ lệ giữa thị phần tuyệt đối của doanh
nghiệp với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh lớn nhất. Nếu thị phần tương
đối càng cao chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.

Do các nguồn lực có hạn và nhu cầu của khách hàng thì hết sức đa dạng. Hơn
nữa, trong hoạt động kinh doanh, do có sự khác nhau về đặc điểm văn hóa, thói
quen tiêu dùng tạo ra những nhu cầu khác nhau. Vì vậy, đề có thể kinh doanh
thành công, các doanh nghiệp phải xác định cho mình một thị trường mục tiêu phù
hợp với tiềm lực của chính mình và tạo dựng được một thị phần hợp lý trên thị
trường.
- Sản lượng tiêu thụ: Đây cũng là một chỉ tiêu đo lường khả năng cạnh tranh.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ thể hiện mức độ đáp ứng nhu cầu hay thỏa mãn lợi
ích của khách hàng về mặt đó. Sản phẩm được tiêu thụ nhanh chỏng với khối lượng
lớn đồng nghĩa với việc nó có chất lượng, giá thành hợp lý, đáp ứng thị hiếu đủ sức
cạnh tranh trên thị trường. Nếu sản lượng tăng cao qua các năm chứng tỏ hàng hóa
duy trì và giữ vững được thị phần. Sản lượng tiêu thụ của môt mặt hàng phụ thuộc
vào các nguyên nhân sau:
Từ phía doanh nghiệp:
+ Số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất hoặc có khả năng cung ứng.
+ Giá bán.
+ Quá trình tổ chức tiêu thụ.
Từ phía khách hàng:
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc nhu cầu, mức thu nhập, phong tục tập
18
quán và thói quen của người tiêu dùng
Từ phía Nhà nước:
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước như chính sách về tiền lương, thuế cũng ảnh
hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ của mặt hàng.
- Giá thành và giá cả của sản phẩm:
Giá thành của sản phẩm là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên
sản phẩm như: nguyên vật liệu, nhân công, công nghệ sản xuất Từ giá thành của
sản phẩm, sẽ xác định được giá bán trên thị trường. Do vậy, muốn có giá bán sản
phẩm thấp thì doanh nghiệp phài tìm cách hạ giá thành tức là phải tận dụng hợp lý
các nguồn lực sẵn có như nguyên vật liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất,

nâng cao hiệu quả quản lý, có như vậy mới hạ được giá thành sản xuất và nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa.
Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ
cung cầu tức là thông qua sự thỏa thuận giữa người bán và người mua. Trong nền
kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thì khách hàng có quyền
lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất. Cùng một loại sản phẩm với những điều kiện
tương tự nhau thì chắc chắn họ sẽ chọn sàn phẩm có giá bán thấp hơn. Vì vậy, giá
cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Doanh nghiệp có thể định giá
thấp, bằng, hoặc cao hơn giá thị trường. Đề chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh
nghiệp cần phải lựa chọn các chính sách phù hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai
đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
b. Các chỉ tiêu định lượng
- Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm: Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh
tranh của hàng hóa doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường
có thể với một sản phẩm hoặc nhiều sản phẩm. Nếu sản phẩm và cơ cấu của nó phù
hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng sức cạnh tranh.
Các doanh nghiệp cần phải luôn hoàn thiện sản phẩm bằng cách nâng cao chất
lượng đồng thời cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hóa. Đa dạng hóa sản phẩm không chỉ là đề đảm bảo đáp ứng
19
được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là biện pháp phân tán rủi ro
trong kinh doanh khi trên thị trường ngày càng khốc liệt.
Do vậy, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết
định khả năng cạnh tranh sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm: Khi thu nhập và đời sống càng cao thì cạnh tranh bằng
giá cả xem ra không hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ sẽ là mối quan
tâm của khách hàng. Do đó, đề nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ,
doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng. Chất lượng của
sản phẩm được thể hiện qua nhiều yếu tố, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện
phát triển mọi yếu tố chất lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc

một vài yếu tố nào đó.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỳ thuật cũng như sự bành
trướng của các công ty đa quốc gia, thì cạnh tranh bằng chất lượng càng trở nên gay
gắt khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất lượng cao. Chính vì vậy
đối với các quốc gia có trình độ sản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
- Các dịch vụ đi kèm: Dịch vụ đi kèm cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng
cạnh tranh của sản phẩm này so với sản phẩm khác. Dịch vụ là một công cụ cạnh
tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế. cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng
được sử dụng rộng rãi và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ
trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì nó
mang lại cho khách hàng sự thuận tiện, cảm giác được tôn trọng, hài lòng.
- Uy tín của doanh nghiệp: Uy tín của doanh nghiệp được xây dựng và hình
thình dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ sau khi bán hàng,
quy mô của doanh nghiệp Một doanh nghiệp có uy tín đồng nghĩa với việc nó lợi
thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi mua sản phẩm hoàn toàn yên tâm, tin tưởng
về chất lượng cũng như giá cả Do đó sản phẩm của doanh nghiệp khi đưa ra thị
trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh
nghiệp giảm được một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ
20
trung thành với doanh nghiệp hơn.
Như vậy, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ phải mất đi một khoản chi
phí lớn cho việc lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp.
1.2.5 Nghiên cứu mô hình cạnh tranh của M. Porter
Mô hình M. Porter được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý vận dụng đề phân tích
khả năng cạnh tranh của một công ty, qua đó có thể đánh giá được khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Theo quan điểm của M.Porter, các nhân tố
ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể tồng hợp 5 nhân tố cơ
bản và được coi là 5 sức mạnh tác động đến khả năng cạnh tranh của nó trên thị
trường.

21
Hình 1.2: Mô hình cạnh tranh của M.Porter
22
a. Sự đe dọa của những đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối thủ
cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ yếu thế,
doanh nghiệp có cơ hội đề tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược
lại, khi các đối thủ cạnh tranh mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng kể và
không có ý nghĩa, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tồn hại cho các bên.
Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh
giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối thủ
chính đề xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung.
b. Các đốỉ thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh
trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và
quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh
nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra xâm nhập ngành đề
hạn chế cạnh tranh. Với sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó, các đối thủ
mới có thể làm giá bán bị kéo xuống hoặc chi phí của các công ty đi trước có thể bị
tăng lên, kết quả là giảm mức lợi nhuận. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định
xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó sẽ cần được coi như một sự nhập cuộc
của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xạm nhập từ bên ngoài
hoặc sự phản ứng khôn khéo của các doanh nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt
mối hiểm họa hoặc do doanh nghiệp mới xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu
được xác định là:
Lợi thế về chi phí.
Sự khác biệt hóa của sản phẩm.
Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất, phân
phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cứu sẽ giảm bớt với sự gia tăng của số lượng
bán.

Lợi thế về kênh phân phối
c. Khách hàng
23
Khách hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh. Các
doanh nghiệp cần thiết lập được mối quan hệ với khách hàng (thông qua số lượng,
chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu
thế làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm do việc ép giá hoặc đòi hỏi chất
lượng cao hơn và thực hiện dịch vụ nhiều hơn.
Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc doanh
nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Ngược lại,
khi người mua (khách hàng) không có ưu thế thì doanh nghiệp có cơ hội đề tăng giá
kiếm được lợi nhuận nhiều hơn, áp lực của họ thường được thể hiện trong các
trường hợp sau:
Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong khi người mua là số ít (dạng
độc quyền mua), có quy mô lớn, điều này cho phép người mua chi phối các công ty
cung cấp.
Khách hàng mua khách hàng khối lượng lớn sản phẩm và sử dụng điều đỏ làm
lợi thế đề yêu cầu giảm giá.
Khách hàng có thể tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết cho mình. Khách
hàng có đầy đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các nhà cung
cấp.
Đề nâng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức ép trên
và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.
d.Người cung ứng
Là nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn, lao động. Nhà cung
ứng đôi khi có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng các sản phẩm
dịch vụ; hoặc đưa ra những điều kiện về thanh toán, điều kiện giao hàng, qua đó
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép trong những t́nh
huống như:

- Độc quyền cung cấp vật tư.
- Các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế.
24
- Không có các điều khoản ràng buộc hoặc đảm bảo trong các hợp đồng kinh tế
đã kí kết.
- Khi vật tư quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mua.
- Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Vì vậy, doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và đưa
ra các biện pháp ràng buộc với nhà vật tư đề giảm bớt các ràng buộc họ có thể gây
nên với mình.
e.Các sản phẩm thay thế
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động
của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao cấp
hơn, và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi họ có hàng rào
vững chắc, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thấp, không có sản phẩm thay
thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực nhà cung cấp cũng yếu và ngược lại khi hàng
rào xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực của
khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ rất khó khăn
và lợi nhuận không cao. Do vậy, các nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ được
các thế lực trong môi trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi
nhất cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh.
1.3 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VẬN TẢI
1.3.1 Khái niệm nhu cầu vận tải
Sự di chuyển vị trí về không gian và thời gian của công cụ sản xuất, sản phẩm
lao động và bản thân con người là một nhu cầu tất yếu của xã hội. Theo nghĩa rộng
vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất kỳ sự di chuyển vị trí nào của con người và
vật phẩm


Nhưng với ý nghĩa kinh tế, thì vận tải chỉ bao gồm những sự di chuyển về
mặt vị trí của con người và vật phẩm thỏa mãn đồng thời hai tính chất: Là một hoạt
động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc lập.
Từ lâu, vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm thay
25

×