Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học kinh tế quốc dân
Hà thị phơng dung
Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính
trong các doanh nghiệp phi tài chính
tại việt nam
Chuyên ngành: Kế toán (kế toán, kiểm toán và phân tích)
Mã số: 62.34.30.01
Ngời hớng dẫn khoa học: 1. PGS.ts. nguyễn thị đông
2. pgs.TS. nguyễn hữu ánh
Hà nội, năm 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận
án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hà Thị Phương Dung
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn tác giả trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận án. Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến
các nhà khoa học trong và ngoài trường Đại học Kinh tế quốc dân đã góp ý
cho tác giả chỉnh sửa luận án.
Đồng thời, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các chuyên gia, nhà quản lý,
kế toán trong các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán TP HCM đã giúp đỡ tác giả trong quá trình phỏng vấn, thu thập Phiếu
điều tra.
Cuối cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, anh chị em, gia đình,
bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ và động viên tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tác giả xin chân thành cảm ơn !
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hà Thị Phương Dung
iii
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ vii
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM 1
1.1 Sự cần thiết đề tài nghiên cứu 1
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
1.2.1 Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trên thế giới 2
1.2.2. Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp
phi tài chính tại Việt Nam 9
1.3 Mục tiêu nghiên cứu 10
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
1.5 Câu hỏi nghiên cứu 12
1.6 Phương pháp nghiên cứu 12
1.7 Ý nghĩa của luận án 14
1.8 Kết cấu của luận án 14
CHƯƠNG 2 LÝ LUẬN KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH TRONG DOANH
NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH 15
2.1 Nhận diện, phân loại công cụ tài chính 15
2.1.1 Nhận diện công cụ tài chính 15
2.1.2 Phân loại công cụ tài chính 18
2.2 Đo lường công cụ tài chính 29
2.2.1 Đo lường công cụ tài chính cơ sở 29
2.2.2 Đo lường công cụ tài chính phái sinh 34
2.3. Ghi nhận công cụ tài chính 35
2.3.1. Ghi nhận công cụ tài chính cơ sở 35
iv
2.3.2 Ghi nhận công cụ tài chính phái sinh 42
2.4 Trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính 44
2.4.1 Trình bày công cụ tài chính 44
2.4.2 Công bố thông tin về công cụ tài chính 46
2.5. Bài học kinh nghiệm quốc tế về kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính. 52
2.5.1 Kế toán công cụ tài chính tại một số nước 52
2.5.2 Bài học kinh nghiệm kế toán công cụ tài chính cho doanh nghiệp phi tài
chính tại Việt Nam 56
CHƯƠNG 3 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM 59
3.1 Tổng quan về doanh nghiệp phi tài chính và công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 59
3.1.1 Tổng quan về doanh nghiệp phi tài chính 59
3.1.2 Công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 64
3.1.3 Tổng quan về khung pháp lý kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 70
3.1.4 Mối quan hệ giữa kế toán công cụ tài chính với quản trị rủi ro tài chính
trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 74
3.2 Thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài
chính tại Việt Nam 75
3.2.1 Thực trạng nhận diện và phân loại công cụ tài chính 76
3.2.2 Thực trạng đo lường công cụ tài chính 83
3.2.3 Thực trạng ghi nhận công cụ tài chính 90
3.2.4 Thực trạng trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 95
3.3 Đánh giá thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi
tài chính tại Việt Nam 98
3.3.1 Nhận diện và phân loại công cụ tài chính 98
3.3.2 Đo lường công cụ tài chính 99
v
3.3.3 Ghi nhận công cụ tài chính 100
3.3.4 Trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính 103
3.4 Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong kế toán công cụ tài chính trong
các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 104
3.4.1 Do sự bất cập về khung pháp lý về kế toán công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 104
3.4.2 Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp 108
CHƯƠNG 4 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI
CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM 113
4.1 Sự cần thiết và yêu cầu hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 113
4.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 113
4.1.2 Yêu cầu trong việc hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 116
4.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 119
4.2.1 Về nhận diện và phân loại công cụ tài chính 119
4.2.2 Về đo lường công cụ tài chính 122
4.2.3 Về việc ghi nhận công cụ tài chính 129
4.2.4 Về việc trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính 141
4.3 Các điều kiện để thực hiện các giải pháp hoàn thiện kế toán công cụ tài
chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam 142
4.3.1 Về phía cơ quan Nhà nước 142
4.3.2 Về phía doanh nghiệp 144
4.3.3 Về phía các cơ sở đào tạo 145
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT NỘI DUNG
ASB Ủy ban chuẩn mực kế toán Anh quốc
ASBE Hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng cho các DN (Trung Quốc)
ASU Các thông tin nhằm cập nhật chuẩn mực kế toán
BCTC Báo cáo tài chính
CAS Chuẩn mực kế toán Trung Quốc
CCTC Công cụ tài chính
DN Doanh nghiệp
DQ
Mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính
FASB Hội đồng kế toán tài chính Hoa Kỳ
FAV Kế toán giá trị hợp lý
FSB Hội đồng ổn định tài chính
HĐ Hợp đồng
IAS Chuẩn mực kế toán quốc tế
IFRS Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế
NHNN Ngân hàng nhà nước
NN Nhà nước
NXB Nhà xuất bản
QĐ Quyết định
SFAS Các chuẩn mực kế toán tài chính
VAS Chuẩn mực kế toán Việt Nam
VN Việt Nam
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng biểu:
Bảng 2.1: Các loại công cụ tài chính trên Bảng cân đối kế toán 19
Bảng 2.2: Phân loại công cụ tài chính theo yêu cầu đo lường 20
Bảng 2.3: Công cụ tài chính phát sinh và các biến gốc liên quan 28
Bảng 2.4: Đo lường Tài sản tài chính 30
Bảng 2.5: Đo lường Nợ phải trả tài chính 31
Bảng 2.6: Ghi nhận sau ban đầu công cụ tài chính cơ sở 38
Bảng 3.1 Số lượng doanh nghiệp theo ngành kinh tế tính đến 31.12.2011 60
Bảng 3.2 So sánh HOSE và HNX 62
Bảng 3.3 Kết quả phát hành trái phiếu chính phủ giai đoạn 2008-2012 68
Bảng 3.4 Giá trị vốn hóa thị trường các Sở GDCK trong khu vực (8/2011) 68
Bảng 3.5 Thống kê mô tả 96
Bảng 3.6 Báo cáo ma trận tương quan Pearson 96
Bảng 3.7 Kết quả hồi quy tương quan 97
Bảng 3.8: So sánh chế độ kế toán công cụ tài chính tại Việt Nam với thông lệ quốc tế 105
Bảng 3.9: So sánh cơ sở đo lường Công cụ tài chính giữa thông lệ quốc tế và Việt Nam 106
Bảng 3.10: So sánh VAS10; TT201/2009/TT-BTC; TT179/2012/TT-BTC 107
Bảng 4.1: Đo lường giá trị tài sản tài chính 124
Bảng 4.2: Đo lường giá trị nợ phải trả tài chính 125
Biểu đồ:
Biểu đồ 3.1 Loại hình doanh nghiệp giai đoạn 2005-2012 59
Biểu đồ 3.2 Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên HOSE và HNX 62
Biểu đồ 3.3 Giá trị vốn hóa (nghìn tỷ đồng) trên HOSE và HNX 63
Biểu đồ 3.4 Giá trị niêm yết và giá trị vốn hóa trên HOSE, giai đoạn 2005-2012 64
Biểu đồ 3.5 Thông tin trên thị trường chứng khoán (đến cuối tháng 6/2013) 66
Biểu đồ 3.6 Khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2006-2009 67
viii
Biểu đồ 3.7 Thực trạng nhận diện tài sản tài chính 77
Biểu đồ 3.8 Thực trạng nhận diện nợ phải trả tài chính 78
Biểu đồ 3.9 Thực trạng phân loại tài sản tài chính 80
Biểu đồ 3.10 Thực trạng phân loại Nợ phải trả tài chính 80
Biểu đồ 3.11 Thực trạng nhận diện công cụ tài chính phái sinh 81
Biểu đồ 3.12 Sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong doanh nghiệp. 82
Biểu đồ 3.13 Đo lường ban đầu tài sản tài chính 83
Biểu đồ 3.14 Đo lường sau ban đầu tài sản tài chính 85
Biểu đồ 3.15 Đo lường ban đầu Nợ phải trả tài chính 87
Biểu đồ 3.16 Đo lường sau ghi nhận ban đầu Nợ phải trả tài chính 88
Biểu đồ 3.17: Đo lường ban đầu Công cụ vốn chủ sở hữu 89
Biểu đồ 3.18 Thời điểm ghi nhận công cụ tài chính cơ sở 90
Biểu đồ 3.19 Thực trạng ghi nhận Trái phiếu chuyển đổi 91
Biểu đồ 3.20 Thực trạng ghi nhận Cổ phiếu ưu đãi 92
Biểu đồ 3.21 Thực trạng ghi nhận tài sản tài chính 93
Biểu đồ 3.22 Độ phức tạp của nghiệp vụ kế toán công cụ tài chính cơ sở 109
Biểu đồ 3.23 Độ phức tạp của nghiệp vụ kế toán công cụ tài chính phái sinh 109
Biểu đồ 3.24 Nguyên nhân gây nên những hạn chế trong kế toán công cụ tài chính 110
Biểu đồ 3.25 Mức độ hài lòng với kế toán công cụ tài chính 111
Biểu đồ 4.1 Thông tin chủ đạo giúp kế toán công cụ tài chính. 143
Sơ đồ:
Sơ đồ 2.1: Trình tự xác định giá hợp lý 30
Sơ đồ 2.2 Ghi nhận công cụ tài chính phái sinh 43
Sơ đồ 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ trình bày và công bố thông tin về
công cụ tài chính 51
Sơ đồ 4.1 Mối quan hệ giữa thông tin kế toán công cụ tài chính với việc ra quyết
định kinh doanh 115
Sơ đồ 4.2 Đặc điểm của Trái phiếu chuyển đổi 126
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI
CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH
TẠI VIỆT NAM
1.1 Sự cần thiết đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới biểu hiện qua dòng chảy mạnh mẽ về vốn, kỹ thuật và hàng hóa. Có nhiều doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập Báo cáo tài chính cho tập đoàn theo
thông lệ quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang gia tăng xuất khẩu và
thiết lập các hoạt động ở nước ngoài và do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn
và phải lập Báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu của người sử
dụng thông tin, kế toán phải liên tục đổi mới. Với vai trò là một công cụ quản lý, kế
toán cũng đang chuyển đổi để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quá
trình hội nhập. Đổi mới kế toán theo hướng hội nhập không chỉ đem đến cho doanh
nghiệp một công cụ quản lý hữu ích mà còn tạo khả năng cung cấp dịch vụ kế toán,
kiểm toán chất lượng cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Trước yêu cầu của
quản lý doanh nghiệp, thực trạng nghề nghiệp đòi hỏi phải phát triển khoa học kế toán
tương thích với thực trạng hoạt động kinh doanh và yêu cầu quốc tế.
Hiện nay theo thông lệ quốc tế, kế toán công cụ tài chính phải tuân thủ theo
các chuẩn mực: IAS32 “Trình bày công cụ tài chính”; IAS 39 “Ghi nhận và đo
lường công cụ tài chính”; IFRS7 “Công bố thông tin về công cụ tài chính”
Về phía Việt Nam, hiện nay chưa có chuẩn mực riêng về kế toán công cụ tài
chính: Kế toán công cụ tài chính đã được quy định rải rác trong các chuẩn mực
VAS01, VAS10, VAS16 thực tế đó dẫn đến nhiều khó khăn cho việc quản lý, chuẩn
hóa thông tin cũng như việc thực hiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Công
cụ tài chính chiếm một tỷ trọng khá lớn trong các khoản mục trên Bảng cân đối kế
toán: Đối với nhà đầu tư- công cụ tài chính nằm trong khoản mục tiền, phải thu, đầu
tư ; Đối với người phát hành- công cụ tài chính nằm trong khoản mục vay, trái phiếu
2
phát hành, phải trả, vốn cổ phần. Sự thay đổi giá trị của khoản mục này ảnh hưởng
lớn đến các chỉ tiêu về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với
thực trạng kế toán công cụ tài chính hiện nay dẫn đến số liệu trên Báo cáo tài chính
không đáp ứng được yêu cầu hữu ích và có thể so sánh được của thông tin kế toán.
Đặc biệt hiện nay trong nền kinh tế có nhiều nghiệp vụ về công cụ tài chính phái
sinh như: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng hoán đổi, Hợp đồng quyền
chọn. Trong khi đó Chế độ Kế toán doanh nghiệp phi tài chính chưa đề cập đến đã gây
lúng túng, thiếu nhất quán trong việc phản ánh, báo cáo tình hình tài chính, ảnh hưởng
đến độ tin cậy và tính so sánh của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.
Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính đã có văn bản: Quyết định
29/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành chế độ kế toán nghiệp vụ phái
sinh tiền tệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng; Quyết định 16/2007/QĐ-NHNN của
Thống đốc NHNN quy định chế độ Báo cáo tài chính về việc công bố thông tin về
công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên các doanh nghiệp phi tài chính khi ký các hợp
đồng phái sinh với ngân hàng, tổ chức tài chính thì kế toán theo các cách khác nhau vì
chưa có văn bản hướng dẫn kế toán từ Bộ Tài chính. Do đó cần khảo sát thực trạng kế
toán công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính để giúp cho việc
xây dựng, ban hành chế độ, hướng dẫn khuôn mẫu kế toán cho doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tiễn của doanh nghiệp, yêu cầu cung cấp thông tin hữu ích
của nhà đầu tư, từ thực tế hội nhập nghề kế toán, sau một thời gian nghiên cứu tác
giả lựa chọn đề tài “ Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp
phi tài chính tại Việt Nam ” để làm luận án tiến sĩ của mình.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1 Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trên thế giới
1.2.1.1. Về nhận diện công cụ tài chính
Có nhiều công trình nghiên cứu về bản chất, đặc điểm cũng như các quy định
kế toán của từng loại công cụ tài chính nhưng hiếm khi đưa ra định nghĩa chung :
Theo Lanny G. Chasteen, Richard E. Flaherty, Melvin C.O'Connor(1998):
3
Intermediate accounting, 6
th
ed, thì công cụ tài chính bao gồm: Tiền mặt, bằng
chứng về lợi ích của chủ sở hữu trong tổ chức, hợp đồng mà theo thỏa thuận một
bên có trách nhiệm chuyển giao tiền mặt hoặc công cụ tài chính khác [27, tr608].
Với P.T. Lopes, L.L. Rodrigues(2007), công cụ tài chính bao gồm cả quyền và nghĩa
vụ theo hợp đồng giúp trao đổi trực tiếp hay gián tiếp các công cụ thanh toán [53].
Theo H.S Houthakker và P.J Williamsen, người sở hữu công cụ tài chính có quyền
theo thỏa thuận đối với lãi và gốc khi nắm giữ trái phiếu, quyền đối với cổ tức có
thể được hoàn trả trong tương lai [45].
Như vậy hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất với các đặc điểm của công
cụ tài chính: là một hợp đồng giữa các bên; công cụ tài chính bao gồm cả quyền (tài
sản) hoặc nghĩa vụ (nợ phải trả) theo hợp đồng; theo hợp đồng này có thể trao đổi
trực tiếp hoặc gián tiếp các công cụ thanh toán.
1.2.1.2. Về đo lường công cụ tài chính
Các tác giả M.E Barth, W.H. Beaver, W. Landman trong bài viết “The Relevance
of the Value Relevance Literature for Financial Accounting Standard Setting:
Another View” trên báo Jounal of Accounting and Economics, năm 2001 đã chỉ rõ
cần phải có sự phù hợp trong việc kế toán công cụ tài chính đặc biệt phải sử dụng
kế toán theo giá trị hợp lý[18].
Tác giả Karen K. Nelson trong bài viết “ Fair Value Accounting for
Commercial Bank: An Empirical Analysis of SFAS No.107”, đăng trên The
Accounting Review (1996) đã chỉ rõ việc cần phải kế toán theo giá trị hợp lý và các
nguyên tắc trong việc kế toán theo giá trị hợp lý tại các ngân hàng thương mại, từ
đó làm cơ sở cho các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế [58].
Các nghiên cứu về cơ sở đo lường công cụ tài chính theo giá trị hợp lý của
tác giả Morris và Selon(1991)[57]; Nelson(1996)[58]; Burkhardt(2006)[15];
Aslanertik (2009)[13]. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các tác giả trên
đều ủng hộ đo lường công cụ tài chính theo giá trị hợp lý đồng thời chỉ ra điểm yếu
của cơ sở đo lường này là độ tin cậy của dữ liệu sử dụng trong các ước tính giá trị
hợp lý trên thực tiễn.
4
Theo Bradbury(2003) có 3 vấn đề liên quan đến sử dụng giá trị hợp lý: các
thuộc tính để đo lường giá trị, ý nghĩa của giá trị hợp lý, phương pháp kế toán các
chi phí giao dịch mua tài sản[14].
Hague(2004) và Bradbury(2003) cho rằng đo lường công cụ tài chính theo
giá trị hợp lý là thích hợp nhất, đặc biệt với công cụ tài chính phái sinh. Hague và
Bradbury lý giải, công cụ tài chính phái sinh có giá gốc rất nhỏ hoặc không có
nhưng lợi ích và tổn thất chúng gây ra cũng như giá trị thanh toán các công cụ này
phụ thuộc vào giá trị hợp lý của chúng. Do vậy, không đo lường giá trị hợp lý của
công cụ tài chính này đồng nghĩa với việc không trình bày chúng trên Bảng cân đối
kế toán trong khi chúng có ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng tài chính của tổ chức.
Ngoài ra, thông tin về giá trị hợp lý của công cụ phái sinh giúp cho người sử dụng
báo cáo tài chính hiểu được bản chất rủi ro và cách thức doanh nghiệp quản trị rủi
ro có thể phát sinh từ công cụ này[42].
Giá trị hợp lý là cơ sở phù hợp nhất của việc ghi nhận các công cụ tài chính
phái sinh. Theo kết luận của nhóm nghiên cứu các vấn đề về kế toán công cụ tài
chính phái sinh (JWG, 2000), giá trị hợp lý là cơ sở ghi nhận và đo lường các tài sản
và khoản nợ tài chính, bao gồm các công cụ tài chính phái sinh. Lý do của sự lựa
chọn này là do giá trị hợp lý đem lại sự đánh giá trung thực, khách quan về các công
cụ tài chính trên cơ sở các yếu tố thị trường và không bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ
quan của tổ chức áp đặt lên cách tính toán giá trị tài sản.
Theo Jemarkowicz và Gornik Tomaszewski(2006) một vấn đề liên quan đến
phương pháp giá trị hợp lý là tính thiếu ổn định trong nguyên tắc của kế toán. Trong
khi các công cụ tài chính được ghi nhận theo giá trị hợp lý, các tài sản tài chính
được ghi theo giá vốn. Mặt khác, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi trình bày
thông tin do IAS32, IAS 39 yêu cầu cập nhật thường xuyên sự thay đổi về giá trị
hợp lý trên Báo cáo tài chính. Phương pháp giá trị hợp lý cũng khó áp dụng trong
thực tiễn do thiếu các mô hình đánh giá rủi ro và phương pháp xác định giá trị đối
với những công cụ tài chính khó xác định giá thị trường[40]. Đồng thời có ý kiến
cho rằng giá trị hợp lý là một phần nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính
5
suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới[12],
[39], [56]. Tại Hoa Kỳ, suy thoái kinh tế vào cuối thập niên 2000 và khủng hoảng
tài chính 2007-2010, nhiều ngành kinh tế của Hoa Kỳ thu hẹp sản xuất. Và thực tế
này đã khiến cho các nhà hoạch định thị trường tín dụng, thị truờng chứng khoán
cũng như các nhà quản lí đặt ra câu hỏi “Hệ thống tài chính Mỹ đổ vỡ có phải do lỗi
của kế toán giá trị hợp lý?”
Một trong các vấn đề trung tâm của kế toán công cụ tài chính đó là cơ sở đo
lường và áp dụng kế toán giá trị hợp lý. Trong quá trình cải tổ hệ thống kế toán tại
Trung Quốc, vấn đề được tranh cãi nhiều nhất là áp dụng kế toán giá trị hợp lý.
WenJing Li, Xiaoyan Lu, Minghai Wei(2007) đã đánh giá quá trình cải tổ kế toán
của Trung Quốc thông qua nghiên cứu việc áp dụng kế toán giá trị hợp lý qua ¼ thế
kỷ và đưa đến kết luận: Mô hình này được chấp nhận và từng bước áp dụng vào Hệ
thống kế toán Trung Quốc [52].
Trong số ít các nghiên cứu tại các quốc gia đang chuyển đổi phải kể đến
nghiên cứu của Songlan Peng (2005) về hài hòa của chuẩn mực kế toán Trung
Quốc với IAS/ IFRS[58]; Công trình của Zeghal và Mhedbi (2006) về các nhân
tố tác động đến áp dụng IAS/ IFRS tại các quốc gia có nền kinh tế đang chuyển
đổi[71]. Dựa vào quan điểm của Tay & Parker (1990), thành công của quá trình
hài hòa kế toán được đánh giá ở cả hai khía cạnh là hài hòa về chuẩn mực và hài
hòa trong thực hành kế toán tại các DN, Songlan Peng đã tổng kết các nghiên
cứu về hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Trung quốc (CAS) với IAS/ IFRS và đi
đến kết luận: sự hài hòa về chuẩn mực của CAS với IAS/ IFRS là cao nhưng
việc thi hành các chuẩn mực này trên thực tế còn nhiều vấn đề, đặc biệt là việc
áp dụng cơ sở đo lường giá trị hợp lý trên thực tiễn. Nếu những thay đổi trên
không chỉ nhằm mục đích đánh bóng hình ảnh kế toán Trung Quốc để thu hút
đầu tư nước ngoài, thì đây sẽ là một mốc đánh dấu một sự chuyển dịch toàn diện
của các doanh nghiệp Trung Quốc nói riêng, nền kinh tế cũng như Chính phủ
Trung Quốc nói chung.
6
Như vậy hầu hết giới khoa học nhấn mạnh ưu điểm của phương pháp kế toán
giá trị hợp lý- điều này còn là mới mẻ nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, đặc biệt là
trong kế toán công cụ tài chính. Chính vì vậy tác giả luận án muốn nghiên cứu kế
toán giá trị hợp lý nhằm tìm ra giải pháp để hoàn thiện kế toán công cụ tài chính
trong các doanh nghệp phi tài chính tại Việt Nam.
1.2.1.3. Về ghi nhận công cụ tài chính
Ghi nhận công cụ tài chính phụ thuộc vào việc phân nhóm công cụ tài chính
Công cụ tài chính không chỉ giúp doanh nghiệp tạo lập vốn, sử dụng vốn, đem
lại cơ hội kinh doanh mà còn tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, từ rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản đến rủi ro thị trường. Vai trò của công cụ tài chính phái sinh trong
phòng ngừa rủi ro là rất cần thiết, bên cạnh đó còn có mục tiêu đầu cơ của doanh
nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận. L.EC.Wilson & Bryan(1997) cho rằng cần thiết
xây dựng các quy định kế toán cho công cụ tài chính phái sinh theo mục đích sử
dụng thay vì theo từng loại để có thể vận dụng các công cụ phái sinh mới để đảm
bảo nguyên tắc tính hữu ích của thông tin đồng thời giảm thiểu chi phí xây dựng
nguyên tắc cho công cụ tài chính phái sinh mới[69].
Chính vì vậy kế toán công cụ tài chính phái sinh theo US.GAAP và IAS/ IFRS
đều xây dựng trên cơ sở mục đích sử dụng các công cụ này bao gồm:
Nguyên tắc kế toán công cụ tài chính phái sinh sử dụng cho mục đích kinh doanh
Nguyên tắc kế toán công cụ tài chính phái sinh sử dụng cho mục đích phòng
ngừa rủi ro.
Các nghiên cứu về kế toán phòng ngừa rủi ro và công cụ tài chính phái sinh
của Wilson và Bryan (1997); Heranandez (2003): các nhà nghiên cứu cho rằng kế
toán phòng ngừa rủi ro và công cụ tài chính phái sinh là cần thiết, nhưng điều kiện
áp dụng trên thực tế không dễ dàng vì có những lựa chọn khác nhau dẫn đến kết quả
xử lý khác nhau của cùng một loại công cụ phái sinh[44].
1.2.1.3. Về trình bày công cụ tài chính
Các công cụ tài chính ngày càng phức tạp bởi sự kết hợp của nhiều công cụ
tài chính khác nhau, điển hình như: trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi (vừa có
7
đặc điểm của nợ phải trả vừa có đặc điểm của vốn chủ sở hữu); công cụ tài chính
phái sinh mới (kết hợp từ các giao dịch phái sinh khác nhau), công cụ phức hợp có
công cụ phái sinh đi kèm Vì vậy, việc nhận biết và trình bày công cụ tài chính
ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Theo Young (1996), cổ phiếu ưu đãi thường được trình bày thiếu rõ ràng giữa
nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; Và Young(1996) đã chỉ ra khó khăn trong việc phân
biệt các công cụ tài chính mới khi chúng kết hợp giữa giao dịch quyền chọn với
giao dịch tương lai, hay kết hợp giữa vốn chủ sở hữu và nợ tài chính[70].
IAS 32 yêu cầu khi trình bày công cụ tài chính, do chính tổ chức phát hành
kế toán cần tuân thủ nguyên tắc tôn trọng nội dung hơn hình thức; Cổ phiếu quỹ do
doanh nghiệp mua vào phải ghi giảm trực tiếp vốn chủ sở hữu; Tài sản tài chính
hoặc nợ phải trả tài chính chỉ được bù trừ cho nhau và ghi giá trị ròng trên báo cáo
khi và chỉ khi doanh nghiệp có quyền pháp lý bù trừ hoặc có ý định thanh toán trên
cơ sở ròng do tài sản và nợ phải trả được thanh toán cùng lúc.
1.2.1.4. Về công bố thông tin về công cụ tài chính
Công cụ tài chính ngày càng đa dạng và phức tạp do vậy đối tượng sử dụng
thông tin yêu cầu ngày càng khắt khe hơn việc công bố thông tin về công cụ tài
chính. Theo Caedo và Tirado (2004) thông tin về rủi ro mà doanh nghiệp đang gánh
chịu có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận trong tương lai nên cần công bố cho người
sử dụng báo cáo tài chính. Đồng thời Caedo và Tirado (2004) cho rằng các thông tin
về rủi ro tác động đến DN, việc đo lường các rủi ro này sẽ cải thiện tính hữu ích của
báo cáo tài chính đối với người sử dụng[22]
IFRS 7 yêu cầu công bố đủ thông tin về công cụ tài chính để người sử dụng
báo cáo tài chính đánh giá được:
Tầm quan trọng của công cụ tài chính đối với tình hình tài chính và kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp
Bản chất, quy mô rủi ro phát sinh từ công cụ tài chính tác động đến doanh
nghiệp trong kỳ kinh doanh và vào ngày lập báo cáo cùng với cách thức quản trị rủi
ro của doanh nghiệp.
8
Các nghiên cứu về mức độ trình bày và công bố thông tin liên quan đến các
công cụ tài chính phái sinh được tiến hành bởi các học giả người Úc như Hassan,
Percy and Goodwin-Stewart(2006-2007), Chalmers và Godfrey(2000 and 2004) và
Chalmers(2001). Tuy nhiên, phần lớn chỉ đánh giá được mức độ trình bày và công
bố thông tin (DQ) trong quá trình công bố tự nguyện. Chalmers and Godfrey(2000)
đã chỉ ra sự khác biệt giữa kế toán kế toán các công cụ phái sinh (theo tiêu chuẩn
AASB 1033: Trình bày và công bố về công cụ tài chính phát hành năm 1996) và
thực tại công tác kế toán tại các DN dựa vào BCTC ngày 30/6/1998 của 500 DN lớn
nhất nước Úc. Nghiên cứu của Chalmers and Godfrey(2000) đã cho thấy mức độ
trình bày và công bố thông tin không như mong đợi[24,27,41].
Riêng Hassan, Percy and Goodwin-Stewart (2006-2007) lại tập trung vào tính
minh bạch của các công bố về công cụ tài chính phái sinh giữa các DN trong ngành
công nghiệp khai khoáng trước khi áp dụng Các chuẩn mực kế toán quốc tế tại Úc.
Ông đánh giá tính minh bạch dựa vào Bộ tiêu chuẩn AASB 1033. Các DN lớn và có
tỷ lệ giá trên lợi nhuận cao và tỷ lệ Tổng nợ trên vốn CSH sẽ công bố rõ ràng hơn
về các công cụ tài chính phái sinh.
Một nghiên cứu gần đây về công cụ tài chính của Lopes và Rodrigues(2007)
cũng tập trung xác định các tiêu chuẩn công bố tự nguyện về công cụ tài chính ở các
DN Bồ Đào Nha, Bảng Hạng mục Công bố được phát triển dựa vào các quy định ở
IAS 32: Công bố và trình bày và IAS 39: Ghi nhận và Đo lường. Quy mô của DN,
lĩnh vực kinh doanh và DN kiểm toán có quan hệ mật thiết với mức độ trình bày và
công bố thông tin về công cụ tài chính[53]
Ở Malaysia, Norkhairul Hafiz(2003) đã chứng minh được sự liên kết giữa các
công bố tự nguyện về công cụ tài chính phái sinh với 2 đặc điểm của DN là quy mô
và mức độ hoạt động ở nước ngoài. MASB ED 24 Các công cụ tài chính: Công bố
và trình bày được sử dụng để kiểm tra chất lượng của việc công bố tự nguyện[60].
K. Ahmed và D. Nicholls (1994) trong tạp chí The International Journal
Accounting số 29 (1), đã chỉ ra ảnh hưởng những đặc tính riêng lên mức độ công bố
9
thông tin của doanh nghiệp phi tài chính tại các nước đang phát triển, trường hợp tại
Bangladesh[10].
Việc nghiên cứu về mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính
trong các DN niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM trước và sau khi áp
dụng Thông tư 210/2009/TT-BTC là rất quan trọng bởi nó cung cấp những bằng
chứng xác thực về DQ của các DN niêm yết từ đó giúp cho nhà quản lý, nhà soạn
thảo tiêu chuẩn kế toán trong việc ban hành chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính
tại Việt Nam. Do đó trong luận án này tác giả muốn đo lường chất lượng thông tin về
công cụ tài chính được công bố trên Báo cáo tài chính năm được kiểm toán của các
doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
Các công trình nghiên cứu khoa học về kế toán công cụ tài chính đã công bố
tại Việt Nam:
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, Đại học Kinh tế thành phố HCM trong luận án
tiến sỹ “Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong NHTM tại Việt Nam” (2010) đã
đề cập đến những nguyên tắc, phương pháp kế toán cơ bản nhằm phản ánh các
nghiệp vụ về công cụ tài chính trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên
hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính có những
điểm khác biệt so với Ngân hàng thương mại vẫn chưa được xem xét, nghiên cứu [1].
Tác giả Đinh Thanh Lan, Đại học Hoa Sen với luận văn thạc sỹ “Vận dụng
chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính để hoàn thiện chế độ kế toán Việt
Nam”. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là IAS32, IAS39, IFRS 7 mà không đề
cập đến IFRS 9 [4].
Đề tài cấp bộ của Phạm Thị Thu Thủy, mã số B2006-07-09, lĩnh vực: Kế
toán, kiểm toán, tên đề tài: Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính tại các doanh
nghiệp Viêt Nam hiện nay. Năm bảo vệ đề tài: 2006. Đề tài tập trung khảo sát việc
kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp và tìm các giải pháp nhằm hoàn
10
thiện việc kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phục vụ nhu cầu cung
cấp thông tin cho nhà đầu tư, trên quan điểm hoàn thiện phải phù hợp với thông lệ
kế toán quốc tế [5].
ThS. Hà Thị Tường Vy trong đề tài cấp ủy ban chứng khoán NN “Kế toán
công cụ tài chính của thị trường chứng khoán Việt Nam”(năm 2008) đã trình bày
khá đầy đủ các nguyên tắc, quy định về định giá, ghi nhận và trình bày công cụ tài
chính theo thông lệ quốc tế IAS30, IAS32, IFRS7. Đồng thời tác giả đã đưa ra các
giải pháp để hoàn thiện kế toán công cụ tài chính cho thị trường chứng khoán Việt
Nam. Tuy nhiên tác giả chỉ nghiên cứu kế toán các công cụ tài chính phục vụ cho
thị trường chứng khoán, bỏ qua các công cụ tài chính khác trong doanh nghiệp[6].
Tác giả Đào Y (2003; 2005) đã có những giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán
công cụ tài chính trong các ngân hàng thương mại Việt Nam phù hợp với bối cảnh
thực trạng phát triển của các ngân hàng thương mại hiện nay, đồng thời chú trọng
đến việc hài hòa với chuẩn mực kế toán quốc tế [8], [9].
Như vậy, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học tại Việt Nam
tập trung khai thác việc vận dụng thông lệ kế toán quốc tế về kế toán công cụ tài
chính cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong ngành ngân hàng. Tuy nhiên
chưa có công trình nghiên cứu riêng cho các doanh nghiệp phi tài chính, chưa có
công trình nào nghiên cứu các nguyên tắc chung của kế toán công cụ tài chính một
cách hoàn chỉnh từ: nhận diện, đo lường, ghi nhận, trình bày, công bố thông tin về
công cụ tài chính. Đặc biệt, chưa có công trình nào đánh giá mức độ trình bày và
công bố thông tinvề công cụ tài chính trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp và
tìm ra mối liên hệ giữa mức độ trình bày và công bố thông tinvới các đặc điểm riêng
của doanh nghiệp.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của luận án là hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu chung đó, luận án đề
ra các mục tiêu cụ thể sau:
11
Hoàn thiện việc nhận diện, phân loại công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài
chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Hoàn thiện đo lường công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài chính phái sinh
trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Hoàn thiện việc ghi nhận công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài chính phái sinh
trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính cơ sở,
công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Xác định mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính của các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam (lấy số liệu khảo sát là các doanh nghiệp
niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM) giai đoạn 2010-2012.
Kiểm định mối quan hệ giữa mức độ trình bày và công bố thông tin về công
cụ tài chính với các đặc điểm riêng của doanh nghiệp bằng việc xây dựng mô hình
với 6 biến số, lấy số liệu 2010, 2011, 2012.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là kế toán công cụ tài chính, bao gồm công cụ tài
chính cơ sở và công cụ tài chính phái sinh.
Khi nghiên cứu công cụ tài chính cơ sở và công cụ tài chính phái sinh, đối
tượng nghiên cứu là các vấn đề cơ bản của kế toán kế toán: Nhận diện, đo lường,
ghi nhận, trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính.
Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp phi tài chính. Nếu xét trên một góc
độ cung cầu vốn trong nền kinh tế thì doanh nghiệp được chia thành: Doanh nghiệp
tài chính kinh doanh tiền tệ và Doanh nghiệp phi tài chính kinh doanh hàng hoá
dịch vụ thông thường. Doanh nghiệp tài chính là: Ngân hàng thương mại, Công ty
tài chính, Công ty bảo hiểm không thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án. Luận
án nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính (các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và lấy các hoạt động này làm
hoạt động kinh doanh chính của mình).
12
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là năm 2010, 2011, 2012
Về không gian nghiên cứu là 82 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán TP HCM.
1.5 Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở đã xác lập mục tiêu nghiên cứu trên, luận án tập trung trả lời các
câu hỏi nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Những giải pháp nào để hoàn thiện việc nhận diện, phân loại công
cụ tài chính cơ sở, công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính
tại Việt Nam ?
Câu hỏi 2: Hoàn thiện việc đo lường công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài
chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam như thế nào?
Câu hỏi 3: Những giải pháp gì để hoàn thiện việc ghi nhận công cụ tài chính cơ
sở, công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam?
Câu hỏi 4: Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin về công cụ tài
chính cơ sở , công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính tại
Việt Nam ?
Câu hỏi 5: Xác định mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài
chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam giai đoạn 2010-2012, các
yếu tố nào ảnh hưởng đến mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài
chính trên Báo cáo tài chính năm của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam ?
1.6 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, trên cơ sở phương pháp luận duy vật biệt chứng và
duy vật lịch sử, luận án đã vận dụng các phương pháp điều tra, khảo sát, phân nhóm,
lấy ý kiến chuyên gia Từ đó luận án đã tổng hợp, phân tích, đánh giá những thành
công và tồn tại trong thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi
tài chính tại Việt Nam và đề ra các giải pháp cùng với các điều kiện thực hiện giải pháp
hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu được cụ thể thành các bước công việc như sau:
Bước 1: Gửi Phiếu điều tra doanh nghiệp.
13
Tác giả gửi Phiếu điều tra đến 266 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên
Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (theo danh sách của Sở Giao dịch tại ngày
31/12/2011). Số Phiếu điều tra nhận về là 82 phiếu.
Bước 2: Gửi Phiếu điều tra, phỏng vấn sâu cá nhân.
Tác giả gửi Phiếu điều tra, phỏng vấn sâu xin ý kiến đánh giá của các đối
tượng: kế toán viên, nhà đầu tư, chuyên gia, kiểm toán viên, nhà quản lý, nhà quản
trị doanh nghiệp về kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính
tại Việt Nam. Số Phiếu điều tra, phỏng vấn sâu nhận về là 10 phiếu.
Bước 3: Thu thập Báo cáo tài chính
Tác giả tiến hành thu thập Báo cáo tài chính năm 2010, 2011, 2012 đã được
kiểm toán của 82 công ty mà tác giả có được Phiếu điều tra (ở Bước 1)
Bước 4: Xử lý kết quả điều tra, khảo sát
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS Statitics 17 để phân tích, đánh giá về thực
trạng kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
trên các góc độ: Nhận diện, Phân loại ; Đo lường; Ghi nhận; Trình bày và công bố
thông tin về công cụ tài chính cơ sở và công cụ tài chính phái sinh. Số liệu lấy từ 82
Phiếu điều tra doanh nghiệp và 10 phiếu điều tra, phỏng vấn sâu cá nhân.
Xác định mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính của các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam giai đoạn 2010-2012. Lấy dữ liệu 3 năm
2010-2012 của 82 doanh nghiệp niêm yết đã có Phiếu điều tra.
Kiểm định 3 giả thuyết về mối quan hệ giữa mức độ trình bày và công bố
thông tin về công cụ tài chính với các đặc điểm riêng của doanh nghiệp.
Bước 5: Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
Căn cứ vào kết quả khảo sát thực trạng kế toán công cụ tài chính tại các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam, ý kiến của chuyên gia, người sử dụng
thông tin kế toán đã được phỏng vấn sâu cùng với kinh nghiệm của một số quốc
gia trên thế giới, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán công cụ tài
chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
14
1.7 Ý nghĩa của luận án
Về mặt học thuật, lý luận
Hoàn thiện khung lý thuyết về kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam bao gồm các công việc:
Hoàn thiện việc nhận diện, đo lường công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài
chính phái sinh.
Hoàn thiện việc đo lường công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài chính phái sinh
Hoàn thiện việc ghi nhận công cụ tài chính cơ sở, công cụ tài chính phái sinh
Hoàn thiện việc trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính cơ sở,
công cụ tài chính phái sinh.
Về mặt thực tiễn
Xác định mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính của các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam giai đoạn 2010-2012 (chỉ số DQ). Thông
qua chỉ số DQ nhà hoạch định chính sách đánh giá được độ ảnh hưởng của Thông
tư 210/2009/TT-BTC (quy định trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính)
đến chất lượng Báo cáo tài chính được công bố.
Tìm ra mối liên hệ giữa mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài
chính với quy mô của doanh nghiệp, kết quả hoạt động kinh doanh và quy mô
doanh nghiệp kiểm toán, từ đó giúp người sử dụng thông tin kế toán chủ động hơn
trong việc sử dụng Báo cáo tài chính, đưa ra quyết định đầu tư.
1.8 Kết cấu của luận án
Luận án có kết cấu 4 chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
Chương 2: Lý luận kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính.
Chương 3: Phân tích thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các
doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
15
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
TRONG DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH
2.1 Nhận diện, phân loại công cụ tài chính
2.1.1 Nhận diện công cụ tài chính
2.1.1.1 Nhận diện công cụ tài chính cơ sở
Theo quan điểm tài chính, công cụ tài chính là một phạm trù tài chính cụ thể
được con người sử dụng để đạt đến một mục tiêu nào đó. Điều đó có nghĩa công cụ
tài chính là các công cụ được sử dụng để khai thác, tập trung, phân bổ các nguồn tài
chính. Đây là quan điểm rộng về công cụ tài chính và nó gắn liền với việc Nhà nước
sử dụng hệ thống các công cụ tài chính nhằm khai thác, động viên và sử dụng các
nguồn tài chính một cách có hiệu quả nhất. Hệ thống các công cụ tài chính của nhà
nước bao gồm: công cụ thuế, chi ngân sách nhà nước, vay nợ, công cụ lãi suất, tỷ
giá hối đoái Trên đây là quan điểm vĩ mô về công cụ tài chính, còn dưới quan điểm
vi mô công cụ tài chính được định nghĩa như sau:
Theo định nghĩa của từ điển kinh tế (Business dictionary): Công cụ tài chính
là một tài liệu (séc, hối phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, hợp đồng tương lai hoặc hợp
đồng quyền chọn ) có giá trị bằng tiền hoặc thể hiện một thỏa thuận có hiệu lực
pháp lý giữa hai hay nhiều bên về quyền được thanh toán tiền.
Như vậy theo định nghĩa của từ điển kinh tế, công cụ tài chính là tiền hoặc sự
minh chứng bằng giấy tờ về quyền được nhận tiền (đó là các khoản phải thu). Đây
chính là cách nhìn công cụ tài chính trên giác độ nhà đầu tư.
Theo từ điển đầu tư (Investopedia Financial Dictionary): Một tài liệu thật hay
ảo đại diện cho một thỏa thuận pháp lý liên quan đến một số loại giá trị tiền tệ.
Trong thị trường tài chính hiện nay, các công cụ tài chính có thể được phân loại
thành công cụ vốn chủ sở hữu- đại diện cho quyền được nhận tài sản trong doanh
16
nghiệp, hoặc được phân loại thành nợ- đại diện cho một khoản nhà đầu tư cho vay
tiền hoặc tài sản.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy công cụ tài chính có thể là công cụ vốn chủ
sở hữu hoặc nợ phải trả tài chính đứng trên góc độ người phát hành công cụ tài
chính. Đồng thời công cụ tài chính có thể không có kết cấu vật chất, đó chỉ là tài
liệu ảo hoặc bút toán ghi sổ.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 32, CCTC được định nghĩa: Công cụ
tài chính là bất kì một hợp đồng nào mang lại tài sản tài chính cho một doanh
nghiệp và nợ tài chính hoặc công cụ vốn chủ sở hữu cho một doanh nghiệp khác.
Theo Điều 3, Thông tư 210/2009/TT – BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày
6/11/2009 ban hành thì: “CCTC là hợp đồng làm tăng tài sản tài chính của đơn vị và
nợ phải trả tài chính hoặc công cụ vốn chủ sở hữu của đơn vị khác.”
Như vậy, dấu hiệu để nhận biết công cụ tài chính đó là một hợp đồng giữa 2
bên, theo đó hợp đồng mang lại tài sản tài chính cho 1 bên, đồng thời mang đến cho
bên kia 1 khoản nợ phải trả tài chính hoặc công cụ vốn chủ sở hữu.
Tài sản tài chính là tiền, công cụ vốn chủ sở hữu của đơn vị khác hoặc quyền
theo hợp đồng được nhận tiền, tài sản tài chính khác hoặc có thể trao đổi tài sản tài
chính, nợ phải trả tài chính trong điều kiện có lợi cho đơn vị mình.
Tài sản tài chính là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể chỉ là những dữ
liệu trong máy tính, sổ sách. Tài sản tài chính có đặc điểm không tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ nhưng tài sản tài chính thể hiện quyền đối
với thu nhập tạo ra từ tài sản thực. Giá trị của tài sản tài chính phụ thuộc vào khả
năng sinh lời của tài sản thực. Điều đó cũng có nghĩa là giá trị tài sản tài chính
không dựa vào nội dung vật chất mà dựa vào các quan hệ trên thị trường, chính vì
vậy cần sử dụng giá trị hợp lý để đo lường tài sản tài chính.
Nợ phải trả tài chính là nghĩa vụ theo hợp đồng phải trả tiền, tài sản tài chính
hoặc trao đổi tài sản tài chính, nợ phải trả tài chính trong điều kiện bất lợi cho đơn
vị mình.