Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Tiểu luận tác động của chính sách lãi suất đến tăng trưởng kinh tế 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.67 KB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ QTKD
BÀI TIỂU LUẬN
THỰC TRẠNG LÃI SUẤT TÁC ĐỘNG
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.
Nhóm thực hiện : Nhóm 2
Thành viên thực hiện :
Phạm Thị Diệu Ánh.
Nguyễn Thị Ngọc Bích.
Cao Tiến Dũng.
Nông Thị Hân.
Nguyễn Ngọc Hoa.
Vũ Thị Hường.
Đoàn Kim Ngân.
Nguyễn Thị Mai Phương.
Quyền Thị Lan Phương.
Lê Thị Hồng Vân.
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn
Thị Yến.
năm 2013
1
CHƯƠNG 1 : LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA
GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY
1.1. Một số nét cơ bản về cơ chế điều hành lãi suất
Trong cơ chế điều hành lãi suất, Ngân hàng nhà nước có thể sử dụng các biện pháp mang tính
hành chính như quy định trực tiếp các mức lãi suất huy động và cho vay, quy định lãi suất
trần-sàn, quy định mức chênh lệch lãi suất, quy định lãi suất cơ bản cộng biên độ khống chế
hoặc các công cụ mang tính kinh tế tác động đến cung–cầu vốn trên thị trường tiền tệ để định
hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ.
Từ những năm cuối thập kỉ 80–đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, Việt Nam đã bắt đầu “cuộc thử


nghiệm” chuyển đổi nền kinh tế từ vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành
theo cơ chế thị trường. Cùng với quá trình chuyển đổi, thể chế kinh tế thị trường có sự điều
tiết vĩ mô của Nhà nước từng bước được thiết lập, theo đó mối quan hệ giữa Nhà nước-Thị
trường cũng từng bước được định hình và dần rõ nét.
Hiện tại, dù đã trải qua hơn 20 năm chuyển đổi, giá cả một số hàng hóa và dịch vụ (đặc biệt
những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống dân sinh) vẫn còn chịu sự kiểm soát trực
tiếp bằng các quy định hành chính. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ nói chung và điều
hành lãi suất nói riêng nằm trong tình trạng chung là có sự đan xen giữa các biện pháp thị
trường và biện pháp hành chính, có thời điểm biện pháp thị trường được sử dụng trội hơn, có
thời điểm biện pháp hành chính được chú trọng hơn tạo nên hình ảnh thiếu nhất quán. Quy
luật cạnh tranh chưa phát huy hiệu quả cho sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính–
Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Dù vậy, hơn 20 năm chuyển đổi vừa qua dường như cơ chế điều hành lãi suất đã được triển
khai theo một lộ trình đơn thuần bằng các biện pháp mang tính hành chính, từng bước nới lỏng
tiến tới tự do hóa hoàn toàn, phù hợp với từng giai đoạn của công cuộc chuyển đổi nền kinh tế
nói chung, quá trình thành lậpvà phát triển thị trường tài chính – tiền tệ nói riêng. Và có lẽ đó
cũng được xem như một trường hợp cụ thể, điển hình phản ánh chiều hướng và thực chất mối
quan hệ Nhà nước–Thị trường trong suốt thời kì chuyển đổi.
1.2. Chính sách lãi suất giai đoạn đầu đổi mới (năm 1986 đến 1990)
2
1.2.1. Thực trạng và tính hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Chúng ta hãy nhìn nhận lại sự ra đời của Ngân hàng từ trước năm 1986, trong thời kỳ này chỉ
có sự hoạt động duy nhất của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam hay Ngân hàng Nhà Nước Việt
Nam. Ngân hàng Quốc gia ra đời thực hiện nhiệm vụ chủ yếu cung cấp tín dụng cho các tổ
chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã theo sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước. Ngân hàng
thực hiện nhiệm vụ phân bổ Ngân sách Nhà nước chủ yếu là cho các doanh nghiệp Quốc
doanh, chưa có khái niệm kinh doanh và chủ động theo nguyên tắc thị trường. Vai trò công cụ
lãi suất trong giai đoạn này là không có.
Từ 1986, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng tiền tệ, tín dụng, chuyển
hoạt động Ngân hàng sang hạch toán. Do những nguyên nhân như chiến tranh kéo dài tàn phá

để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Xét trên khía cạnh tài chính, giai đoạn này hệ
thống tài chính không phát triển do chưa nhìn nhận được vai trò của chính sách lãi suất theo
tín hiệu thị trường dẫn đến nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Nhận thấy tình hình trên,
Đại hội Đảng VI tháng 12-1986 quyết định đổi mới nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị
trường, trong đó đổi mới quản lý đối với hoạt động Ngân hàng.
Nhìn chung, hoạt động của Ngân hàng vẫn nằm trong sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về
cung cấp tín dụng cho tổ chức kinh tế Quốc doanh và hợp tác xã. Tuy nhiên, với nhiệm vụ cấp
phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản thuộc Ngân sách cho vay với các dự án, cho vay với mức
lãi suất do Nhà nước quản lý chặt chẽ đã có tác động tới việc nâng cao trách nhiệm cho các
ngành trong việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Cũng trong giai đoạn này, lạm phát rất cao. Đỉnh điểm là năm 1986, chỉ số lạm phát lên tới
774,7%, sản xuất đình trệ nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn. Việc tăng lãi suất không đáng kể với mức lạm phát quá cao lúc bấy giờ. Thời kỳ
lãi suất thực âm kéo dài tự 1986 đến 1989, có thể nói trước 1989 do chưa áp dụng triệt để
chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường, cùng với mức lạm phát phi mã khiến cho lãi suất
thực tế ở mức âm.
Trước tình hình trên, đến năm 1988, cùng với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế, hệ thống
Ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng 1 cấp sang hệ thống Ngân
hàng 2 cấp bao gồm có 4 Ngân hàng quốc doanh. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các Ngân
hàng do Ngân hàng nhà nước quy định, mức lãi suất được áp dụng khác nhau tùy theo đối
tượng. Bên cạnh đó, Chính phủ áp dụng chính sách lãi suất mới nâng dần mức lãi suất lên theo
3
kịp chỉ số lạm phát, đối phó với tình hình lạm phát cao lúc bấy giờ. Tuy nhiên, mức lãi suất
huy động thực tế vẫn âm, thể hiện năm 1982, lãi suất huy động là 1,5%/năm kỳ hạn 3 tháng
với mức lạm phát 7,95%/năm dẫn đến lãi suất thực âm 5,45%/năm.
1.2.2.Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế
Trong giai đoạn đầu đổi mới, nền kinh tế nhìn chung đang trong giai đoạn khủng hoảng, sản
xuất còn trì trệ, đời sống nhân dân còn khó khăn.
Xét trên khía cạnh chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói chung cũng có những
bước đổi mới lớn. Nhìn chung, trong giai đoạn này, Chính phủ duy trì chính sách lãi suất cố

định. Tuy đây là chính sách chưa mang tính chất tự do hoạt động theo tín hiệu thị trường
nhưng với nền kinh tế còn nhiều yếu kém thì nó đã đem lại hiệu quả nhất định. Việc Ngân
hàng Nhà nước đã chỉ định mức lãi suất có tác dụng ổn định thị trường vốn, bảo vệ nhiều
ngành kinh tế còn non yếu mới ra đời trong thời kỳ này.
Việc nâng mức lãi suất huy động được thực hiện nhưng chưa theo kịp được lạm phát, mức lãi
suất thực âm còn kéo dài từ những trước năm 1986 cho đến đầu những năm 1992. Tuy nhiên,
chính sách này cũng đã có những ảnh hưởng tới đời sống nhân dân trước tình trạng lạm phát
lúc bấy giờ. Nhờ tăng lãi suất mà việc huy động vốn trở nên có hiệu quả hơn, lạm phát từng
bước được đẩy lùi. Cũng trong thời gian này, hoạt động huy động vốn cũng diễn ra hết sức sôi
động làm cho lãi suất tăng nhanh, các quý tín dụng đua nhau mọc lên nhưng do thiếu sự kiểm
soát nghiêm ngặt nên nhanh chóng đổ bể. Đến năm 1990, nhiều quỹ tín dụng huy động vốn
với lãi suất cao đồng loạt đổ bể, hậu quả đánh mất lòng tin của dân chúng.
1.3. Cơ chế lãi suất tín dụng giai đoạn từ 1991 đến 1995
1.3.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
Đại hội Đảng VII tháng 6/1991 đã đề ra chiến lược: ổn định và phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2000 đồng thời đề ra phương hướng cho kế hoạch 5 năm 1991 - 1995. Khó khăn lớn
lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước Đông Âu và các nước
thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Song thuận lợi lúc này là đổi mới đã phát
huy tác dụng, các cơ sở kinh tế thích nghi dần với cơ chế quản lý mới.
Tháng 6/1992 được coi là mốc quan trọng đánh dấu một bước chuyển quan trọng nhất
về chất trong cơ chế lãi suất tín dụng. NHNN đã chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế
lãi suất thực dương và được quản lý theo khung lãi suất. Những điểm cơ bản của chính sách
lãi suất mới là như sau:
4
• Một là, NHNN quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi
suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay).
• Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân,
chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
• Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định lãi suất cho vay tối đa bằng
ngoại tệ. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở

lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung - cầu vốn ngoại tệ trong nước.
Từ thág 6/1992 đến cuối năm 1993, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho phù
hợp với chỉ số lạm phát và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối
đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm, phù hợp với lãi suất trên
thị trường quốc tế. Kết quả là vốn huy động hàng năm tăng hơn 20%, tín dụng đối với nền
kinh tế tăng gần 50%.
Trong 2 năm 1994 - 1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng thích
ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung - cầu vốn, đồng thời hạn chế sự can thiệp
trực tiếp của NHNN vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHNN chỉ khống chế
mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Các mức lãi suất tiền
gửi và cho vay cụ thể do tổ chức tín dụng ấn định. Cho phép các tổ chức tín dụng điều chỉnh
lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế lên gần sát với mức lãi suất tiền gửi dân cư. Tăng lãi
suất cho vay trung và dài hạn lên 1,7%/tháng. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần từ
7,5%/năm lên 9,5%/năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng được thể hiện ở bảng
sau:
Diễn biến lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân các năm
Đơn vị: %/ tháng
Thời điểm 1986-
1990
1991 1992 1993 1994 1995
5
Lãi xuất
Cho vay bình quân tháng 4,3 2,5 2,5 1,8 1,6 1,7
Tiền gửi bình quân tháng 6,0 2,9 1,9 1,4 1,3 1,4
Chênh lệch -1,7 -0,4 0,6 0,4 0,3 0,3
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế, NHNN.
1.3.2. Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
a) Như vậy, điểm nổi bật của cơ chế điều hành lãi suất tín dụng thời kỳ 1992 - 1995 so
với thời kỳ trước 1992 có thể được nhìn nhận dưới các mặt sau:

• Cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi,
lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. NHNN chỉ quy định khung lãi suất tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn. Mặt khác, NHNN còn cho
phép các TCTD huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án
có hiệu quả, chủ yếu là đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông
dân. Đây là bước khởi đầu đánh dấu tiến trình tự do hoá lãi suất trong các lần
điều chỉnh cơ chế lãi suất sau này.
• Xoá bỏ quy định lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh
tế, đưa lãi suất biến động tiến sát với lãi suất thị trường phù hợp với quan hệ
cung - cầu về vốn; rút ngắn khoảng cách chênh lệch bất hợp lý giữa lãi suất cho
vay ngắn hạn với lãi suất cho vay trung và dài hạn, giữa lãi suất nội tệ với lãi
suất ngoại tệ.
• Bỏ bao cấp qua lãi suất, thúc đẩy các TCTD chuyển sang hạch toán kinh doanh,
hạn chế việc ngân sách phải cấp bù lỗ lãi suất cho ngân hàng, đồng thời giúp
các doanh nghiệp có cơ sở xác định thực chất trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
b) Tuy nhiên, cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ này cũng bộc lộ những tồn tại chủ yếu
sau:
6
• Quá trình điều hành cơ chế lãi suất còn thiếu linh hoạt, chưa điều chỉnh kịp thời
khung lãi suất để phù hợp với tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Tăng trưởng
kinh tế thời kỳ này bình quân hơn 8%, lạm phát được kiềm chế ở mức 2 con số,
riêng năm 1993 ở mức 1 con số (5,2%) nhưng lãi suất vẫn giữ nguyên ở mức
quá cao.
• Lãi suất cho vay còn cao so với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Điều này được dễ ràng nhận thấy khi tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành
Công - Nông nghiệp và Dịch vụ từ 1992 - 1995 chỉ ở mức 5,15 - 12%, trong
khi lãi suất cho vay bình quân ở mức 12 - 21%/năm.
• Lãi suất cho vay trung và dài hạn còn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, tổ
chức tín dụng không mạnh dạn mở rộng cho vay trung và dài hạn do lo rủi ro.

Điều này không phù hợp với cơ chế thị trường.
• Lãi suất đồng Việt Nam và ngoại tệ còn khoảng cách chênh lệch khá lớn. Điều
này gây bất lợi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vì họ phải vay đồng Việt
Nam với mức lãi suất cao trong khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp, xuất hiện tình
trạng vay vốn ngoại tệ lòng vòng giữa các doanh nghiệp, NHTM với nhau để
hưởng chênh lệch lãi suất, đẩy cầu ngoại tệ tăng cao.
• Bên cạnh cơ chế khung lãi suất là cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng
nguồn vốn huy động kỳ phiếu, trái phiếu của NHTM. Do vậy, nhiều tổ chức tín
dụng, nhất là các NHTMCP cho vay bằng các nguồn vốn khác cũng áp dụng cơ
chế lãi suất thoả thuận, do đó đẩy mặt bằng lãi suất lên cao vượt quá khung lãi
suất cho vay quy định của NHNN
1.4.Chính sách lãi suất giai đoạn từ 1996 đến 2000
1.4.1 Thực trạng chính sách lãi suất thời kỳ này
Trong giai đoạn này, Ngân Hàng Nhà Nước đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng về
lãi suất, nhằm từng bước tự do hóa lãi suất theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn
đóng vai trò rất quan trọng. Chính sách lãi suất trần và chính sách lãi suất sàn từng bước được
đổi mới để thích ứng với sự phát triển kinh tế.
Năm 1996, chính sách lãi suất có sự thay đổi lớn, mức lãi suất đã được hạ xuống còn
2,1% - 1,75% tháng, kèm theo quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi tối đa không vượt quá 0,35%.
7
Năm 1997-1998, Ngân Hàng Nhà Nước đã không siết chặt kiểm soát lãi suất mà lại có
vẻ nới lỏng chính sách lãi suất, trần lãi suất được nâng lên, các Ngân hàng Thương mại có thể
tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn và quy định giới hạn chênh lệch kais suất cho vay và lãi
suất tiền gửi ở mức 0,35%/tháng. Giảm lãi suất cho vay bình quân tối thiểu là 0,35%/tháng để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất, tạo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Quốc hội, theo chỉ đạo của chính phủ ngày 28/12/1997
Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã ký quyết định số 381/QĐ-NH1 về việc điều chỉnh lãi
suất tín dụng với nội dung bắt đầu được thực hiện từ ngày 1/1/1998, theo đó quy định trần lãi

suất cho vay ngắn hạn là 1,75%/tháng, và trần lãi suất cho vay chung dài hạn là 1,7%/tháng,
lãi suất huy dộng của các ngân hàng thương mại quy định trên cơ sở chênh lệch lãi suất huy
động bình quân và lãi suất cho vay bình quân không quá 0,35%/tháng.
Quyết định này đạt được một bước tiến quan trọng về quản lý lãi suất, giao quyền chủ
động cho các ngân hàng thương mại trong việc điều hành lãi suất theo tín hiệu của thị trường,
theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường, hoàn cảnh riêng của từng ngân hàng thương mại,
từng khu vực kinh tế. Qua việc thực hiện quyết đinh số 381/QĐ-NH, hầu hết Ngân hàng
Thương mại đã thực hiện tốt trần lãi suất cho vay là 1,75%/tháng, nguồn vốn huy động và dư
nợ tín dụng tiếp tục tăng lên, đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta
cũng thấy một điều rằng, nguồn vốn của các ngân hàng thương mại tăng mạnh, chủ yếu là gia
tăng nguồn vốn ngắn hạn và dẫn đến một hiện tượng là một số ngân hàng thương mại quốc
doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi vốn trung và dài hạn lại bị thiếu một cách nghiêm trọng.
Năm 1998, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ba lần điều chỉnh giảm mức lãi suất trần.
Quyết định số 191/QĐ-NH ban hành ngày 15/7/1998 theo đó trần lãi suất cho vay ngắn hạn
giảm xuống còn 1,65%/tháng, trung dài hạn xuống 1,65%/tháng.
Quyết định số 225/QĐ-NH ban hành ngày 27/8/1998 hạ trần lãi suất cho vay ngắn hạn
xuoogs còn 1,5%/tháng, trung dài hạn 1,55%/tháng.
Quyết đinh số 226/QĐ-NH1 ban hành ngày 27/9/1998 giảm trần lãi suất cho vay ngắn
hạn xuống 1,25%/tháng, trung dài hạn là 1,35%/tháng.
Như vậy, chúng ta thấy trần lãi suất cho vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng không
ngừng điều chỉnh giảm cùng với sự giảm xuống của tỷ lệ lạm phát lãi suất cho vay chung dài
hạn giảm nhưng tăng trưởng đới với lãi suất ngắn hạn, điều này là hoàn toàn phù hợp với
8
thông lệ quốc tế và nguyên lý chung. Các quyết định đảm bảo được cả ba lợi ích: lợi ích của
nền kinh tế quốc dân nói chung, quy định gửi tiền và các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, đáng chú
ý là lần đầu tiên việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh
tranh trong kinh doanh tiền tệ, thay vì quy định từng lãi suất cụ thể đối với từng nguồn cụ thể
như trước đây, Ngân hàng Nhà nước chỉ khống chế chênh lệch lái suất giữa lãi suất cho vay
bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín dụng được tự chủ ấn định các mức
lãi suất huy động cụ thể. Chính sách này đã khuyến khích hoạt động tín dụng phát triển tăng

trưởng kinh tế cao, tạo việc làm và kiềm chế lạm phát ở mức thấp.
Cho đến tháng 1 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước có thêm hai lần điều chỉnh lãi suất đó
là:
- Quyết định số 179/QĐ-NH ban hành ngày 28/5/1999 hạ trần lãi suất xuống 1%/tháng,
trung dài hạn là 1,1%/tháng.
- Quyết đinh số 39/QĐ-NH ban hành ngày 17/1/2000 tăng trần lãi suất cho vay ngắn hạn
lên 1,2%/tháng, trung và dài hạn là 1,25%/tháng.
Cùng với Quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước còn quy định các mức lãi suất ưu đãi cho
vay phục vụ người nghèo (0,8%/tháng) cho vay với các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc vùng
núi cao 0,5-0,6%/tháng, cho vay học sinh, sinh viên 0,7%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 150%
mức lãi suất trần cho vay cùng loại. Quy định ;ái suất tiền gửi tối đa của các tổ chức kinh tế tại
các tổ chức tín dụng không thời hạn là 1,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng là 4%/năm, kỳ hạn trên 6
tháng là 3,5%/năm.
Mặt khác do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nền kinh tế
tăng trưởng thấp. Nhưng về chính sách lãi suất chưa áp dụng hoàn toàn theo cơ chế thị trường
nên lãi suất VNĐ vẫn cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát. Năm 2000 do có thiểu phát nên lãi
suất đã được điều chỉnh giảm chút ít, nhưng xem xét lãi suất thực dương thì lại không phải
giảm mà tăng lên. Tỷ lệ lãi suất dương chia cho tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 120%, năm 1997 là
175%, năm 1998 là 11,6%, năm 1999 là 5350% và năm 2000 thì quá cao trên 6000%. Điều
này lý giải vì sao giai đoạn này thiểu phát.
1.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
a. Những mặt tích cực
- Đảm bảo sự phù hợp, ổn định giữa lãi suất huy động và chỉ số lạm phát giữa lãi suất dầu ra
với lãi suất huy động do đó, lãi suất thực dương đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền.
9
- Trần lãi suất cho vay tối đa liên tục được điều chỉnh giảm kết hợp với từng bước nới lỏng
các điều kiện vay vốn (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, công chứng ) nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp giảm chi phái kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả kinh tế và nền kinh
tes tăng trưởng cao. Đồng thời, lãi suất phù hợp hơn với chỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất kết hợp với nhiều biện pháp nhanh tăng nhanh khối lượng vốn huy động

và cho vay, để tạo ra vốn đầu tư phát triển kinh tế, xã hội.
- Điều chỉnh các mức lãi suất ưu đãi phù hợp để ưu tiên phát triển kinh tế những vùng khó
khăn như: vùng núi, hải đảo, tầng lớp khó khăn như nông dân, học sinh đi học.
- Chính sách lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tự do hóa, quyền chủ động các
ngân hàng thương mại ngày càng được nới lỏng. Nhà nước giảm dần sự can thiệp quá sâu tạo
điều kiện ban đầu cho việc lãi suất được hình thành theo quy luy luật cung cầu trên thị trường.
b. Những mặt hạn chế
- Lãi suất thực thường xuyên biến đổi do lạm phát thay đổi thường xuyên. Nhưng lãi suất huy
động lại không được điều chỉnh kịp thời. Do đó, thu nhập thực tế của người gửi tiền thường
bấp bênh, không ổn định.
- Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội nên ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả
kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, chưa xem xét đến mức độ rủi ro của các tổ chức
tín dụng khi gặp phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
- Trong suốt thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ và gây
khó khăn trong việc thu hút vốn ngoại tệ từ lưu thông về, tạo trục trặc cho người vay vốn
ngoại tệ từ ngân hàng.
1.5. Giai đoạn chính sách lãi suất có nhiều đổi mới theo hướng tự do hóa (Năm 2000- đến
nay)
1.5.1. Cơ chế lãi suất trần – sàn
Lãi suất trần (sàn) là mức lãi suất cao nhất (thấp nhất) trong một khung lãi suất nào đó
mà Ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào hoạt động tín dụng nhằm bảo vệ quyền
của người cho vay và người đi vay.
1.5.1.1 Cơ chế điều hành lãi suất trần–sàn
Đến tháng 5-2001, Ngân hàng nhà nước từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho
vay bằng ngoại tệ. Và kể từ sau tháng 5-2002, cơ chế lãi suất thỏa thuận được áp dụng trong
các hoạt động tín dụng. Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát
10
tăng cao ngay từ đầu năm 2008, Ngân hàng nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử
dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Công cụ lãi suất được phát
huy tối đa, liên tục có điều chỉnh và triển khai quyết liệt. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt

buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Lãi
suất tái cấp vốn cũng tăng gấp 2 lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6-2008. Mức
lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm kể từ ngày 10-6-
2008.
Thời điểm này, Ngân hàng nhà nước điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với quy chế
điều hành là cho phép tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi
suất cơ bản, trần lãi suất cho vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý trong giai đoạn các
Ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao
hơn lãi suất huy động dài hạn. Năm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự
điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của Ngân hàng nông nghiệp. Nghiệp vụ
thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng và thắt chặt tiền tệ đã không tạo tác
động đáng kể nào tới lãi suất. Trong tuần thứ ba của tháng 2-2008, Ngân hàng nhà nước bổ
sung 33000 tỷ đồng vào lưu thông nhưng các Ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục tăng lãi suất
huy động tiền gửi. Tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội (SHB), lãi suất huy
động điều chỉnh 3 lần chỉ trong vòng 10 ngày và tăng lên 12,5%/năm với kỳ hạn 1 tháng.
Thông báo phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc được đưa ra vào giữa tháng 2-2008 và
thực hiện một tháng sau đó. Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang đi lên, rất khó xác định
ảnh hưởng của nghiệp vụ này tới lãi suất. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các
Ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Ngày 30-6-2008, Ngân hàng Kiên
Long áp dụng lãi suất huy động tiền đồng cao kỷ lục là 20%/năm cho khách hàng gửi tiền kỳ
hạn 12 tháng. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào kỳ hạn lạm
phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh khoản trong hệ thống tín dụng tại thời điểm đó.
Nếu đúng vậy, điều chỉnh tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại
kết quả bình ổn thị trường tiền tệ. Cuối tháng 6-2008, 2 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2
năm với lãi suất 11%/năm đã được huy động thành công. Mặc dù khối lượng không lớn
nhưng dấu hiệu này gợi mở khả năng tiếp tục duy trì các chính sách tiền tệ - tài chính vĩ mô.
Lưu ý rằng, chỉ hai tuần trước đó, phiên đấu thầu hai loại trái phiếu chính phủ ngày 13-6-
2008 có kỳ hạn 2 năm và 3 năm đã không thu hút được bất kỳ thành viên nào tham gia. Trên
11
thị trường, có tổ chức tài chính sẵn sàng chuyển nhượng lượng trái phiếu đang sở hữu với

mức chiếu khấu lên tới 40% mệnh giá, nhưng vẫn không tìm được đối tác quan tâm.
So với giai đoạn khủng hoảng tiền tệ khu vực 1997-1998, chính sách tiền tệ của Việt Nam
trong năm 2008 sử dụng nhiều công cụ hơn và cường độ điều chỉnh dồn dập hơn. Nhằm hỗ
trợ các đơn vị kinh doanh vượt qua khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực,
chính sách tiền tệ được mở rộng trong các năm từ 1997 đến 1999. Với mức lãi suất thực
dương, các liệu pháp tiền tệ đã phát huy tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Chi phí lãi cao kết
hợp với tăng giá đầu vào tạo ra áp lực lớn với sự vận hành sản xuất, kinh doanh trong năm
2008. Chấp nhận chi phí đầu vào tăng cao, hạn chế mở rộng tín dụng là những dấu hiệu cho
thấy hệ thống Ngân hàng thương mại cũng gặp khó khăn với vấn đề thanh khoản. Điều này
có thể là kết quả của những khoản tín dụng chất lượng thấp đã cung cấp trong thời gian trước,
với tỷ lệ không nhỏ dành cho các dự án bất động sản và đầu tư tài chính.
1.5.2.2. Tác động của cơ chế điều hành lãi suất trần-sàn
a) Chính sách lãi suất trần tác động đến các NHTM.

* Tích cực:
- Việc tổ chức quản lý lãi suất trần cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ổn định
các mức lãi suất cho vay và tiền gửi trong phạm vi trần do NHNN cho phép, chính sách lãi
suất trần đã chấm dứt thị trường NHNN qui định các mức dư nợ lãi suất cụ thể, xoá bỏ lãi suất
cho vay theo thoả thuận và từng bước tiến hành tự do háo lãi suất.
- Để nâng cao lợi nhuận các NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động
vốn gấp nhiều lần.
*Hạn chế:
Do lãi suất cho vay và lãi suất huy động (ngắn, trung, dài hạn) liên tục giảm, nhiều
NHTM không lường trước được đã huy động vốn có thời hạn 1-3 năm để cho vay trung và dài
hạn. Năm 1999 NHNN 5 lần cắt giảm lãi suất cho vay tối đa, có lần NHNN còn buộc NHTM
giảm ngay cả lãi suất dư nợ đã cho vay khi đó vốn lao động theo lãi suất thời kỳ trước vẫn
được giữ nguyên cho tới khi hết hạn, đồng thời lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn
nhỏ(= 0 hoặc thấp hơn). Vậy rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên các NHTM.
b) Chính sách lãi suất trần đối với các doanh nghiệp
12

*Tích cực:
- Đáp ứng tốt nhu cầu vốn sản xuất cho doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các doanh nghiệp
không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền.
- Trong thời kỳ cả nước có 6000 doanh nghiệp nhà nước hơn 1000 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, 230000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH hầu hết
các doanh nghiệp này được vốn ngân hàng hỗ trợ 80-90 % trong sản xuất kinh doanh cải tiến
và đổi mới công nghệ.
* Hạn chế:
- Việc giảm lãi suất là điều kiện cần nhưng không đủ để tạo vốn cho doanh nghiệp.
- Lãi suất còn cao, khó khăn trong thủ tục vay NH. Cho dù lãi suất cho vay đã giảm
khá mạnh song các DN vẫn không dám vay tiền vì tỷ lệ lãi suất cho vay ngân hàng vào khoảng
10%-11% năm.
- Nhiều DN làm ăn không có hiệu quả do trang thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu
nhưng muốn cơ cấu vốn lớn, bắt buộc phải đi vay, với số vốn lớn DN phải trả lãi lớn trong khi
lợi nhuận thu được lại chưa ổn định do vậy lãi suất giảm DN vẫn không dám vay.
- Các NH cạnh tranh dẫn đến tăng mức lãi suất tiền gửi các DN cắt giảm tất cả những
khoản đầu tư không đưa lại lợi nhuận cao bằng gửi tiếp vào NH.
- Việc vay vốn trung và dài hạn của các DN không thuận lợi vì các NH cho vay dễ gặp
rủi ro từ việc huy động vốn NH cho vay trung và dài hạn trong khi mức chênh lệch giưã lãi
suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bị xoá bỏ
*NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế. Các
nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá cho NHTM cũng được đưa vào sử dụng
để bổ sung them công cụ điều chỉnh lãi suất. Lãi suất tái chiết khấu được quy định ở mức
0.05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn. Từ tháng 7/2000, nghiệp vụ thị trường mở được hình
thành qua nhiều phiên giao dịch. (Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung
ương mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường). Thông qua
hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả
13
dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp

đến lãi suất thị trường.
Mức lãi suất dương và lạm phát năm 2000-2008
Năm 2000 6/2008
Mức lãi suất dương (%) 5.05 -6.0
Lãi suất dương/ lạm phát (%) 6000 -30
Cơ chế trên đã góp phần tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của đồng
tiền Việt Nam trong tương quan với các đồng tiền trong khu vực vào lúc khủng hoảng tiền tệ
xảy ra.
* Trong thời gian qua, NHNN đã sử dụng trần lãi suất như một công cụ điều hành chính sách
tiền tệ. Ở một khía cạnh nào đó nó cũng đã có tác dụng nhất định trong việc bình ổn thị
trường. Tuy nhiên, việc lạm dụng trần lãi suất cũng có thể dẫn đến những ngộ nhận nguy hiểm
về tác dụng của công cụ này. Với điều kiện kinh tế vĩ mô hiện nay đã đến lúc NHNN nên bỏ
trần lãi suất.
*Nên bỏ trần lãi suất và tiếp tục giảm lãi suất chính sách
Quyết định hạ trần lãi suất ngắn hạn mới đây của NHNN mang ý nghĩa tích cực không
chỉ đáp ứng kỳ vọng về việc hạ nhiệt mặt bằng lãi suất chung của thị trường, mà còn được
xem là bước đi thận trọng nhằm hướng đến mục tiêu đưa lãi suất vận hành theo cung cầu thị
trường.
Sau hơn 1 tuần quyết định giảm trần lãi suất huy động VND kỳ hạn từ 1 đến dưới 6
tháng về mức 7%/năm và bỏ trần lãi suất có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên có hiệu lực, hoạt động
huy động vốn của các ngân hàng vẫn diễn ra bình thường.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện lãi suất huy động của tổ chức tín dụng phổ biến
ở mức 1- 1,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng, kỳ hạn từ 1
tháng đến dưới 6 tháng khoảng 6-7%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng 7-7,5%/năm,
kỳ hạn từ 12 tháng trở lên khoảng 8-9%/năm.
Thị trường không xuất hiện những hiện tượng cạnh tranh lãi suất không lành mạnh để thu hút
14
vốn giữa các ngân hàng như trước đây. Còn theo Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương
mại cổ phần tại Hà Nội, tình hình huy động của ngân hàng vẫn diễn ra rất tốt, không có dấu
hiệu suy giảm dù lãi suất đã giảm.

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, thời điểm này có thể tính toán bỏ được trần lãi
suất. Bởi lẽ, trần lãi suất hiện nay chỉ áp dụng cho các kỳ hạn huy động vốn dưới 6 tháng, còn
trên 6 tháng lãi suất huy động đã được để các ngân hàng thương mại tự quyết định theo cung
cầu trường.
Tuy nhiên, khi bỏ trần lãi suất có thể cũng có một số điểm cân nhắc như: khi bỏ trần lãi suất sẽ
có tác động như thế nào đến huy động vốn của các ngân hàng thương mại, tác động như thế
nào đến hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng, liệu có ảnh hưởng đến tiến trình cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng khi đánh giá được những điểm này thì có thể tính đến việc bỏ trần lãi
suất huy động.
1.5.2 Cơ chế lãi suất thỏa thuận.
1.5.2.1 Cơ chế điều hành lãi suất :
a) Định nghĩa :
- Lãi suất thỏa thuận có thể hiểu là lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng. Là lãi suất được thỏa thuận giữa người đi vay và cho vay nhưng không trái với các quy
định của pháp luật hiện hành.
- Là việc NHTW để các NHTM tự thỏa thuận lãi suất huy động và lãi suất cho vay với khách
hàng.
b) Nguyên nhân chuyển sang cơ chế lãi suất thỏa thuận :
- Việc khống chế lãi suất trần cho vay như thời gian qua là 1 biện pháp can thiệp hành chính
không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các
NHTM trong vấn đề huy động vốn và cho vay.
- Việc khống chế lãi suất trần cho vay là đánh đồng lãi suất của các loại hình tín dụng, làm cho
các ngân hàng rấ khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.
- Để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ, NHNN đã có các
công cụ để kiểm soát như: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cập vốn, nghiệp vụ thị trường
mở
15
- Vấn đề phát sinh bộc lộ chỉ ít ngày sau khi mức trần lãi suất huy động được công bố NH khó
lòng hút vốn khi trong đời sống còn nhiều kênh đầu tư hấp dẫn, sinh lời lớn hơn như chứng
khoán, bất động sản

- Để hoạt động được NH tìm cách này hay cách khác để khuyến mãi, thưởng thêm đưa lãi suất
thực trả cho khách hàng vượt qua mức trần.
- Vì vậy cần 1 cơ chế để nới lỏng hơn cho các NH giúp các NH dễ dàng huy động được nhiều
vốn hơn mà không phải dùng mọi hình thức để vượt lãi suất trần nữa.
Từ năm 2008 các NH đã chủ động xác định LSHĐ và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất
cơ bản.
Từ ngày 11/6/2012, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kì hạn và có kì hạn dưới
1 tháng là 2%/năm, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kì hạn từ 1 tháng đến dưới 12
tháng là 9%/năm.
NHNN cho biết, việc điều chỉnh các mức lãi suất nêu trên là phù hợp với xu hướng giảm
của lạm phát, thanh khoản của các tổ chức tín dụng dồi dào, thị trường tiền tệ diễn biến theo
xu hướng tích cực và ổn định. Mức lãi suất tiền gửi tối đa theo quy định hiện nay (11%/năm)
ở mức cao so với lạm phát dự báo và lạm phát kì vọng của cả năm khoảng 7-8%.
(NHNN cũng cho rằng, các mức lãi suất trên sẽ duy trì tương đối ổn định trên cơ sở nhận
định lạm phát năm 2012 khoảng 7-8%/năm, nấu phải điều chỉnh để phù hợp với điều kiện cụ
thể thì mức điều chỉnh sẽ nhỏ và tổng mức điều chỉnh không lớn ).
Bảng 1: Cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận
Văn bản pháp luật Cơ chế lãi suất thỏa thuận
Ngày Số hiệu Lãi suất huy động Lãi suất cho vay
30/05/02 QĐ 546/2002/QĐ-
NHNN
Áp dụng trần lãi suất Lãi suất cho vay
16/05/08 QĐ 16/2008/QĐ-
NHNN
Được thỏa thuận nhưng
khống chế không vượt quá
150% lãi suất cơ bản
Được thỏa thuận
nhưng khống chế
không vượt quá 150%

lãi suất cơ bản
23/01/09 Thông tư
01/2009/TT-NHNN
Được thỏa thuận nhưng
khống chế không vượt quá
150% lãi suất cơ bản
Được thỏa thuận
nhưng khống chế
không vượt quá 150%
lãi suất cơ bản. Riêng
đối với cho vay phục
16
vụ đời sống và cho
vay thông qua phát
hành thẻ tín dụng thì
được thỏa thuận lãi
suất
26/02/10 Thông tư
07/2010/TT-NHNN
Được thỏa thuận nhưng
khống chế không vượt quá
150% lãi suất cơ bản
Được thỏa thuận
nhưng đối với cho
vay ngắn hạn phục vụ
SXKD thì vẫn bị
khống chế không
vượt quá 150% lãi
suất cơ bản
14/04/10 Thông tư

12/2010/TT-NHNN
Được thỏa thuận nhưng
khống chế không vượt quá
150% lãi suất cơ bản
Được thỏa thuận đối
với tất cả các khoản
vay
03/03/11 Thông tư
02/2011/TT-NHNN
Được thỏa thuận nhưng tối
đa không được vượt quá
14%/năm (bao gồm khuyến
mại dưới mọi hình thức)
Được thỏa thuận đối
với tất cả các khoản
vay
• Những điều chỉnh của NHNN, cùng với động thái tích cực của lãi suất huy động vốn
mới nhất cận kề trung tuần tháng 4/2010 thấy tốc độ tăng huy động vốn của hệ thống
NH được cải thiện tốt.
Đến ngày 09/04,tốc độ tăng huy động vốn của hệ thống NH đã lên tới 4,18% so đầu năm.
Riêng 9 ngày đầu tháng 04/2010, vốn huy động tăng 0,68% so với cuối tháng 3, trong đố tiết
kiệm dân cư tăng 10,2% so với đầu năm và 1,2% so với cuối tháng 3/2010. Cùng thời gian, tốc
độ tăng dư nợ lên 3,84% so với đầu năm (9 ngày đầu tháng 4/20110 tăng 0.48%). Quan trọng
là tốc độ tăng vốn huy động mới nhah hơn tăng trưởng dư nợ.
Khảo sát nhanh ngày 16/4/2010 tại NHTM ghi nhận mức lãi suất huy động phổ biến dao
động từ 11.5%/năm đến 11.9%/năm. Kết quả thống kê cho thấy:
• Việc tăng lãi suất đồng loạt chứng tỏ các ngân hàng thực chất đang chuẩn hóa lại mức
lãi suất công bố minh bạch, mặc dù trước đó có thể đã phái thực hành nhiều cách thức
không chính thức để thỏa mãn mức bù rủi ro khách gửi tiền muốn (như khuyến mãi).
17

• Áp lức cạnh tranh để thu hút nguồn thanh khoản gia tăng, có thể do dự báo rằng khả
năng NHNN can thiệp sâu để bù thanh khoản cho hệ thống sẽ giảm đi đáng kể theo
những động thái chính sách tiền tệ cuối quý I/2010
• Mức giảm chênh lệch do xu hướng đồng thuận giảm lãi suất cho vay xuống mức 15%
(từ mức cao 17-18%) và xu hướng tăng lãi suất mới chớm xuất hiện này cho thấy
NHTM còn phải giải quyết bài toán tương phản giữa tăng thanh khoản và suy giảm lợi
nhận từ hoạt động tín dụng.
Đối chiếu khảo sát ý kiến người dân về lựa chọn kênh đầu tư trong năm 2009 và 2010
cũng phản ánh sự thay đổi có thể giải thích hiện tượng thu hút vốn ngân hàng khó thời
gian vừa qua và dẫn tới tình trạng sức ép tăng lãi suất tiền gửi cao hơn, ít nhất là về xu
hướng giảm tiền gửi ngân hàng. Sự sẵn sàng cho đẩu tư chứng khoán cũng cao hơn,
cùng xu hướng với đầu tư bất động sản. Riêng nhóm sản xuất kinh doanh không có
nhiều cải thiện về xu hướng, nếu điều chuyển đầu tư khác và bảo hiểm (thường có liên
quan tới sản xuất kinh doanh) vào nhóm này của điều tra. Để đảm bảo hấp dẫn, mức
huy động lãi suất của các ngân hàng phải rơi vào khoàng trên 11,5%/năm trở lên với
lãi suất kì hạn 3 tháng. Để có thêm chi tiết, có thể xét lãi suất tiết kiệm kì hạn 3 tháng
theo công bố của Vietcombank ngày 13/3 là 10,49% (VND) và 3,2% (USD). Ở mức kì
vọng lạm phát thấp lãi suất VND 3 tháng phải đạt 11,79% và ở mức cao nhất ( của
phép tính giả định tại đây ): 12.78%. Rõ ràng không thấy sức hấp dẫn với lãi suất tiền
đồng của ngân hàng,vì ở dưới các cận này, tình trạng đô la hóa sẽ gia tăng vì lợi ích
người gửi tiền.
• Việc NHNN cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận cho các khoản vay trung hạn và
dài hạn, nhiều chuyên gia nhận định một mặt bằng lãi suất cho vay thỏa thuận mới
sẽ được xác định. Tuy nhiên trong thới điểm hiện nay các NHTM vẫn dè dặt trong
việc thực hiện điều chỉnh mức lãi suất cho vay.
Bằng phép tính cơ học và cúng theo như nhiều ý kiến, với lãi suất đầu vào
10.5%/năm cộng thêm khoảng 3-4%/năm chi phí kinh doanh, lãi suất cho vay mới
không thể thấp hơn mức 13,5-14,5%/năm.
1.5.2.2 Tác động của cơ chế lãi suất thỏa thuận
18

Ngay sau khi cơ chế này được thực hiện, nó đã nhanh chóng tạo nên những hiệu ứng
tích cực đối với nền kinh tế, đó là:
• Hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu của
thị trường.
• Tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu
tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng, mức độ rủi ro của từng khách hàng, lĩnh vực
ngành nghế kinh doanh và các yếu tố liên quan khác.
• Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động vốn với mức
lãi suất phù hợp, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế.
* Việc áp dụng cơ chế lãi suất cũng nảy sinh 1 số khó khăn, bất cập như:
• Thứ nhất, chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất cho vay
thỏa thuận làm xuất hiện nhiều vấn đề phát sinh:
• Lãi suất “đầu ra” không có trần (cả ngoài tệ và nội tệ), nhưng “đầu vào” lại có trần (đối
với nội tệ), như vậy lợi ích sẽ nghiêng về phía NHTM, chứ không nghiêng về người
gửi tiền cũng như người vay tiền.
• Người vay tiền mới được “giải cứu” khi được cấp bù lãi suất, nhiều người chưa hết khó
khăn, nay vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn khá nhiều thì sản xuất kinh doanh sẽ
khó khăn hơn, tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế vừa mới thoát đáy,đang vượt
dốc đi lên.
• Nguy cơ tái lạm phát cao đã được nhiều chuyên gia cảnh báo nay đã đến gần thậm chí
đã có dấu hiệu xuất hiện.
• Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình
trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với
các ngân hàng lớn.
• Thứ ba, tăng trưởng tín dụng sẽ tăng lên do các NHTM đẩy mạnh cho vay nhằm tìm
kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho
vay với lãi cao. Điều này có nghĩa sẽ tạo sự cạnh tranh thiếu lành mạnh.
• Thứ tư, chính sách lãi suất thỏa thuận làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức điều
hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả nhà quản lí nhà nước trên thị trường tài chinh – ngân
hàng Việt Nam.

1.5.3. Lãi suất cơ bản
19
1.5.3.1. Chính sách lãi suất cơ bản của NHNN trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay:
a) Chính sách lãi suất cơ bản trong giai đoạn từ năm 2000 – 2007 :
- Sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phục hồi nhưng chưa
bền vững.
+ Năm 2001,tốc độ tăng trưởng cao : 6,75%
+ Từ 2002 – 2004 tăng trưởng trên 7%
+ Năm 2005 và 2006, tăng trưởng trên 8,2%
- Lạm phát phức tạp : Sau thời kỳ giảm lạm phát 1999 – 2001 và đi vào ổn định từ 2002 –
2003 thì đến 2005 – 2006, lạm phát bất ngờ tăng mạnh xấp xỉ 10%. Năm 2006,giảm xuống là
trên 7%.
- Trong giai đoạn 2003 – 2004. Mục tiêu CSTT lúc này là nới lỏng thận trọng để vừa đảm bảo
ổn định giá trị đồng tiền, vừa kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thực hiện chủ trương
chính sách kích cầu của Chính Phủ ổn định hệ thống ngân hàng.
- Trong giai đoạn 2004 – 2007, lạm phát quay trở lại thì nguồn vốn ngoại tệ vào nhiều, trên thị
trường ngân hàng bắt đầu xuất hiện dấu hiệu dư thừa vốn khả dụng của cả VNĐ và ngoại tệ ->
NHNN áp dụng thắt chặt thận trọng.
* Giai đoạn từ 2000 – 2005
- Từ tháng 8/2000 đến 5/2002 : NHNN áp dụng lãi suất cơ bản theo kỳ hàng tháng . Do đó,
mức trần lãi suất cho vay tối đa của NHTM cũng thay đổi tương ứng theo từng tháng.
- Ngày 30/5/2000, lãi suất cơ bản lần đầu được công bố ở mức 7,2% năm. Trên cơ sở đó các
ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%/tháng
đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung và dài hạn.
Cụ thể : Trong 4 tháng cuối năm 2000,NHNN đã áp dụng lãi suất cơ bản 0,75%/tháng, thì
đến 2001, để kích cầu chống giảm lạm phát NHNN điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản đối với
cho vay giảm từ 0,75%/tháng xuống 0,6%/tháng vào giữa năm.
Trong 2000 – 2001,cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới tăng lãi suất huy động
vốn,nhưng lãi suất cho vay vẫn không tăng và nằm vào trong biên độ lãi suất cơ bản -> làm
giảm đi chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn.Cho nên 1/6/2002, thống đốc

NHNN Việt Nam đã co thấy LSCB trước đây khống chế biên độ trên LSCV là 0,3%/tháng với
vay ngắn hạn là 0,5%/tháng với khoản vay trung, dài hạn làm cho lãi suất nhiều khi phản ánh
đúng cung – cầu trên thị trường. Vì vậy, NHNN đã ban hành quyết định 546/2002/QĐ thay cơ
20
chế điều hành lãi suất tong qua LSCB và biên độ bằng: Thực hiện cơ chế lãi suất tỏa thuận
trong hoạt động tín dụng đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng xác định LSCV bằng đồng
Việt Nam trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là
các pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam.
- Việc này có tác dụng định hướng lãi suất thị trường, kiểm soát biến động của thị trường, đảm
bảo yêu cầu và mục tiêu của CSTT tăng trong kỳ.
BẢNG 3.1: Các mức LSCB từ 8/2000 – 12/2005 (đơn vị %/tháng).
THỜI ĐIỂM MỨC LÃI SUẤT
Tháng 8/2000 0,75
Tháng 3/2001 0,725
Tháng 4 – 5/2001 0,7
Tháng 6 – 9/2001 0,65
Tháng 10/2001 – 2/2004 0,6
Tháng 3/2001 – 1/2005 0,625
Tháng 2/2005 – 11/2005 0,65
Như vậy, từ 2000 – 2005, NHNN đã có 6 lần hiệu chỉnh LSCB khoảng cách cho mỗi lần hiệu
chỉnh thường là trong nhiều tháng -> LSCB được giữ nguyên trong thời gian dài -> do đó đã
làm tốc độ huy động vốn lại bị chậm lại. Trong khi đó tín dụng lại tăng trưởng nóng.
Cụ thể là: Trong 6 tháng đầu năm 2002, tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng
cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng huy động vốn:
+ Năm 2000, tăng trưởng tín dụng là 31,8%
+ Năm 2001, tăng trưởng tín dụng là 21,4%
+ Năm 2002, tăng trưởng tín dụng là 22,2%
- Lãi suất huy động vốn của NHTM quốc doanh đã cao hơn lãi suất vay cơ bản 0,62%.
- Mức 0,625%/tháng được giữ nguyên trong 2 năm. Đến tháng 1/2005, NHNN không thay đổi

lãi suất chủ đạo trong việc thực thi CSTT. Tuy nhiên vì theo nguyên tắc lãi suất thỏa thuận thì
các tổ chức tín dụng đã căn cứ vào nhu cầu huy động vốn và khả năng cho vay mà quyết định
LS HVD của NHTM cổ phần đã tăng lãi suất.
Do đó trong năm 2005, NHNN đã đưa ra giải pháp trọng tâm nhằm kiểm soát tăng
thưởng tín dụng để mức tăng trưởng tín dụng cả năm không vượt quá 25%. Để điều chỉnh
CSTT linh hoạt, thận trọng bám sát diễn biến thị trường tiền tệ NHNN đã 2 lần hiệu cỉnh
LSCB từ 7,5% tháng 1/2005 lên 7,8% tháng 2/2005 và đến 8,25% tháng 12/2005.
21
- Việc tăng lãi suất cho thấy tín hiệu tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ. Mặc dù, LS HDV và
LSCV của NHTM vẫn liên tục biến động. Cụ thể là: Tổng huy động năm 2005 chỉ tăng 22,8%
so với năm trước. Trong khi dư nợ cho vay tăng 24,6% -> làm cho thị trường tiền tệ thường
xuyên tăng trưởng nóng.
- Việc tăng lãi suất giữa các NHTM là do tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời gian qua quá
thấp, đi kèm với tốc độ lạm phát còn cao và cũng do động thái tăng LSCB của NHNN (đặc
biệt là sau khi FED nâng lãi suất cơ bản của USD lên 4,5%, lại cùng lúc người dân rút và vay
tiền tiêu trong dịp tết mạnh nhất vào tháng cuối năm 2005. Dẫn đến các ngân hàng phải chạy
đua nâng LS HDV tiền gửi để cân đối lãi suất vay.
Như vậy biểu lãi suất của các NHTM Việt Nam đã phản ứng nhanh nhạy với động thái
tăng LSCB của FED hơn là của NHNN Việt Nam.
Trước cuộc chạy đua lãi suất nóng khởi nguồn từ các NHTM cổ phần đến cuộc chạy đua
lãi suất của NHTM quốc doanh (12/2005) thì chính sách LSCB dường như tỏ ra kém nhạy
bén.
Cụ thể là: mức lãi 7,8%/năm vẫn được giữ nguyên từ đầu năm. Đến tận tháng 11/2005
thấp rất xa so với LSCV cao nhất của NHTM và cũng không có tác động chi phối lãi suất thị
trường.
* Giai đoạn 2006 – 2007:
- Từ 1/1/2006, NHNN quy định mức LSCV trong các hợp đồng tín dụng không vượt quá
150% so với mức LSCB của 11/2005 (tức là khoảng 12,375%)
- Quy định đã gây ra khó khăn không nhỏ cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Mà hiện
mỗi ngân hàng đều có hàng chục sản phẩm tín dụng khác nhau với các kỳ hạn ngắn, trung và

dài. Trong khi đó NHNN không áp dụng cụ thể cho loại hình vay nào.
- Với quy định này:
+ Nếu áp dụng trong các giao dịch bên ngoài ngân hàng có thể hạn chế tình trạng cho vay
nặng lãi trong xã hội.
+ Còn nếu áp dụng đối với lĩnh vực ngân hàng -> nảy sinh nhiều khó khăn cho ngân hàng,
không khuyến khích ngân hàng phát triển dịch vụ mới, nhất là những mảng có tỷ lệ rủi ro cao.
-> Như vậy, với cơ chế thực hiện lãi suất thỏa thuận -> LSCB mất đi giá trị điều hành dù
NHNN vẫn tiếp tục công bố hàng tháng.
22
- Trong điều kiện thị trường tài chính tương đối ổn định chính sách LSCB của NHNN vẫn
được điều chỉnh theo hàng tháng thận trọng và giữ nguyên ở mức 8,25%/năm.
-> Điều này cho thấy lãi suất tăng trái quy luật:
- Trước hết, vốn khả dụng dư thừa trong khi lãi suất vẫn tăng -> điều bất bình thường.
- Chỉ số đánh giá tiêu dùng tháng 1/2006 là 8,8%, tháng 2/2006 là 8,4%, tháng 3/2006 là 7,7%,
tháng 4,2006 là 7,4% -> đều giảm và thậm trí lãi suất ngiệp vụ thị trường mở liên tục giảm từ
mức 6,4% - 6,8%/năm. Đến tháng 5/2006 còn giảm xuống còn 1,9% - 4,4%/ năm, trong khi đó
lãi suất vẫn tăng.
- Trong 2007, NHNN điều hành CSTT theo hướng “thắt chặt” để rút mạnh tiền từ lưu thông
về, giảm độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, NHNN đã giữ ổn định LSCB là 8,25%,năm với mục
đích định hướng ổn định lãi suất thị trường, hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng
hưởng làm tăng CPSX kiềm chế lạm phát.
- Trước động thái này, LS HDV của NHTM với khách hàng có biến động tăng. Tuy có giảm
nhẹ ở một số thời điểm do tác động yếu tố cung – cầu, nhưng mặt bằng lãi suất năm 2007 vẫn
ổn định so với năm 2006.
- Về mặt lý thuyết với thị trường tiền tệ: Lãi suất huy động ngắn hạn của NHTM phải thấp hơn
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng phải xoay quang LSCB. Tuy
nhiên, trong năm 2007 mức biến động lãi suất không tuân theo quy luật này:
Cụ thể là: LS HDV đã vượt mức lãi suất liên ngân hàng trong thời gian từ tháng 3 –
9/2007.

Điều này chứng tỏ: LSCB của NHNN chưa hiệu quả. Đồng thời, với quy định lãi suất cho vay
không vượt quá 150% LSCB, nếu giữ được nguyên mức LSCB thì rất nhiều hợp đồng tín
dụng sẽ có nguy cơ vi phạm quy định pháp luật về mức cho vay tối đa.
b) Đánh giá chính sách LSCB trong giai đoạn 2000 – 2007.
* Giai đoạn 2000 – 2003: LSCB đạt hiệu quả.
- Việc thay đổi cơ chế trần lãi suất bằng mức LSCB cộng với biên độ -> tính linh hoạt, hiệu
quả trong việc điều chỉnh lãi suất thị trường cho phù hợp với mục tiêu CSTT và điều kiện kinh
tế tiền tệ của NHTM trong nước.
23
- LSCB do NHNN quy định -> hoạt động tín dụng của các NHTM sẽ trực tiếp liên quan đến
lạm phát. Cho nên trong giai đoạn này tình trạng lạm phát được kiểm soát, tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao.
* Giai đoạn 2004 – 2007: LSCB chưa hiệu quả.
- Tuy được điều chỉnh nhưng tác động không tích cực -> tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nền
kinh tế: Tăng trưởng tín dụng năm 2007 đạt trên 50% > hạn mức là 30% NHNN quy định,
tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,5% mức
cao nhất từ 1997 – 2007.
Như vậy trong giai đoạn này LSCB tỏ ra kém hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát,
mức lạm phát liên tục tăng qua các năm (đỉnh cao là năm 2007 lạm phát ở mức 2 con số:
12,63%)
BẢNG 3.2: Tình trạng lạm phát so với tăng trưởng từ 1998 – 2007.
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Lạm
phát
7,8 4,2 -1,6 -0,4 4 4,3 7,8 8,4 8,2 12,63
Tăng
trưởng
5,8 4,8 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5

Cơ chế LSCB về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Do đó, nếu

còn duy trì cơ chế này đã lấy đi tính thị trường của lãi suất trên thị trường tiền tệ -> Vai trò của
lãi suất trong thời gian này rất mờ nhạt. Nhiều khi có diễn biến trái chiều khi lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng có xu hướng tắng >< LSCB lại có xu hướng giảm.
-> Như vậy, LSTT được điều chỉnh bởi quan hệ cung – cầu của ngân hàng cổ phần chứ không
phụ thuộc vào LSCB.
c) Chính sách LSCB của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 3/2010
* Năm 2008
Đầu năm 2008 :
- Kinh tế tăng trưởng quá nóng, sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và lạm phát ở 2 con số
năm 2007 -> khiến các NHTM đối mặt với sự thiếu hụt vốn khả dụng và nguy cơ rủi ro tín
dụng. Thị trường tín dụng dường như đóng băng -> NHTM hoạt động chỉ bảo đảm tính thanh
khoản chứ không đem lại lợi nhuận.
24
- Các NHTM chạy đua tăng LS HĐV để giữ chân khách hàng. Cụ thể là : Tăng từ 0,6% ->
3,36%/năm, lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm cao nhất : 13,8%/năm, lãi suất cho vay VNĐ
18,5% -> 19%/năm -> gây khó khăn cho doanh nghiệp.
- Ngày 16/5/2008, NHNN ra quyết định về cơ chế điều hành LSCB bằng Đồng Việt Nam
không quá 150% LSCB.
- Từ 5 – 9/2008, NHNN điều hành CSTT “ thắt chặt” đã điều chỉnh tăng LSCB từ 12% lên
14%/năm. Theo đó NHTM điều chỉnh tăng LS HĐV từ 3 – 3,5% ngăn chặn việc giảm vốn huy
động.
Kết quả : Từ giữa 7/2008-> quý 3 năm 2008, vốn khả dụng của NHTM đã bớt căng thẳng, dần
dần LS HĐV có xu hướng giảm từ 0,1% -> 0,9%/năm và đi vào ổn định. Từ 6/2008 –
10/2008, NHTM điều chỉnh lãi suất cho vay sát mức tối đa 21%/năm,ngừng thu tất cả các loại
phí có liên quan đến khoản vay.
Từ cuối tháng 7/2008 -> 12/2008, lãi suất liên ngân hàng và LSCB có xu hướng giảm.
Như vậy, với LSCB = 12%/năm thì LSCV tối đa của tổ chức tín dụng là 18% -> Phù hợp với
mặt bằng thị trường, không gây xáo trộn trong thị trường tiền tệ và tín dụng. Tạo ra lực hút
mạnh thu hút tiền từ lưu thông, làm giảm mạnh tính cấp tín dụng từ NHTM ra thị trường.
Kết quả : Lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi đỉnh điểm 3,91%/tháng. Tỉ lệ lạm phát cả năm

2008 chỉ còn 19,89%/năm. Tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng huy
động vốn (Tín dụng trong quý 1 là 10,8% còn tăng trưởng huy động vốn quý 1 là 5,48%)
Cuối năm 2008 :
- Tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ 2007 vẫn cao nhưng đã từng bước được kiểm soát. Khủng
hoảng tài chính thế giới -> Việt Nam lại rơi vào khó khăn : Tăng trưởng GDP chỉ đạt 6,23% so
với kế hoạch là 6,5% - 6,7% nền kinh tế có dấu hiệu thiếu vốn.
- NHNN đã nới lỏng CSTT và lãi suất : LSCB liên tục điều chỉnh giảm trong 3 tháng cuối năm
2008. Các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn và tiếp tục thực hiện CSTT “Thắt
chặt nhưng linh hoạt” -> vừa kiềm chế lạm phát,ổn định kinh tế vĩ mô,vừa thúc đẩy sản xuất.
Cụ thể là :
-Giảm LSCB từ 14% ( 1/10/2008) xuống 8,5%/năm (22/12/2008), tạo điều kiện để các ngân
hàng giảm LSCV đầu ra hỗ trợ DN vay vốn. Việc giảm lãi suất cũng xuất phát từ nhu cầu
thực tế của NHTM trong kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
25

×