Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2007 đến nay tại Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.22 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC.......................................................................................................................................1
Trang...............................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................2
CHƯƠNG I.....................................................................................................................................3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT...........................3
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT.....................................................................3
1. Khái niệm....................................................................................................................................3
2. Đặc điểm......................................................................................................................................3
II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT............................................4
1. Các loại hình lãi suất.................................................................................................................4
2. Các loại chính sách lãi suất.......................................................................................................4
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT.................................................................5
1. Mức lạm phát kỳ vọng...............................................................................................................6
2. Cung cầu của qũy cho vay.........................................................................................................6
3. Thuế thu nhập.............................................................................................................................6
4. Ngân sách của chính phủ...........................................................................................................6
5. Các yếu tó khác của đời sống xã hội.........................................................................................7
IV. VAI TRỊ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ́.........................................................7
1. Vai trò Vĩ mơ...............................................................................................................................7
2. Vai trị vi mơ................................................................................................................................9
CHƯƠNG II..................................................................................................................................10
CHÍN H SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...........................................................10
I. THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TẠI VIỆT
NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY.................................................................................................10
II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG....................................................................................................................................15
III. GIẢI PHÁP ĐỂ HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
22
a. Giải pháp điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiến tệ...............................................22



b.Giải phápp tạo điều kiện và cơ sở cho việc thực hiện chính sách và cơ chế điều hành lãi
suất.................................................................................................................................. 25
c. Bài học đối với Việt Nam ...........................................................................................25

1


LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam,
Ngân hàng Nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng cơng cụ lãi suất nhắm tác động
tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi.
Trong nền kinh tế hiện nay, lãi suất là một chỉ số rất quan trọng và được theo dõi chặt
chẽ hằng ngày .Mỗi mức lãi suất được công bố sẽ ảnh hưởng đến những quyết định của cá
nhân cũng như doanh nghiệp; quyết định đầu tư hay gừi tiết kiệm. Và mỗi quyết định đó dù
nhỏ nhưng cũng góp phần tác động đến sự phát triển kinh tế của cả một quốc gia.
Chính vì những lý do đó mà từ năm 2007-năm 2009 này,vấn đề được quan tâm nhất
là lãi suất hay cuộc đua lãi suất giữi các ngân hàng thương mại. Không chỉ có những nhà
kinh tế,các doanh nghiệp mà các cá nhân cũng rất quan tâm.
Hiện nay, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong nền
kinh tế, tác động và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế trong bối cảnh đất nước
đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực và hội nhập quốc tế. Với đề tài
“Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai
đoạn từ năm 2007 đến nay tại Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn về lãi suất và chiều
hướng diễn biến của nó.
Nội dung đề tài gồm hai phần:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lãi suất và chính sách lãi suất.
Chương II: Chính sách lãi suất ở Việt Nam hiện nay.
Vậy chính sách lãi suất là gì?.Tại sao lại có những biến động khó lường như vậy trên thị
trường tiền tệ Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay. Chúng ta hay cùng tìm hiểu.


2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1. Khái niệm
Lãi suất bắt đầu xuất hiện từ khi quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá bắt đầu hình
thành. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực tiếp
ảnh hướng đến đới sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Lãi suất (hay lãi suất tín
dụng) là một cơng cụ kinh tế rất quan trọng và nhạy cảm đối với mọi nền kinh tế, nó đóng
vai trò quan trọng đặc biệt khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đó là vai trị ổn định và
góp phần hồn thiện chính sách tiền tệ tạo ra sự kích thích cần thiết để phát triển nền kinh
tế mỡi quốc gia và tồn thế giới.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về lãi suất. Lãi suất được
hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn
hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các hình thức tài sản khác
nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dơi ra
ngồi số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi
suất. Theo Sammuelson: “Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho người cho vay
để sử dụng một khoản tiền trong một khoản thời gian xác định”.
2. Đặc điểm
Tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các
Ngân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng… Tính cạnh tranh của lãi suất càng được thể
hiện rõ ràng khi hệ thống các tổ chức tham gia và cung cấp tín dụng ngày càng nhiều.
Mức lãi suất phải hấp dẫn thì mới thu hút được khách hàng tham gia. Do vậy, mỡi ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng muốn phát triển được hệ thống của mình đều phải đưa

ra được một mức lãi suất có khả năng cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng khác nhằm lơi kéo khách hàng về bên mình.
Tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt, nhạy bén, thích ứng
với mọi hồn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của chính sách tín dụng phù hợp
với sự biến đổi của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi Ngân sách Nhà nước, yếu
tố tâm lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường tài chính.
3


II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1. Các loại hình lãi suất
Lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như phân loại theo nội tệ và ngoại
tệ, phân theo nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD, phân loại theo thời gian hay phân loại
theo nội dung kinh tế...Ở đây, ta chia lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động
thành 2 nhóm:
a. Lãi suất thị trường tự do, thay đổi do ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu trên
thị trường: Bao gồm lãi suất các loại tín phiếu kho bạc, tiền gửi, chứng chỉ tiển gửi
(L/C), lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn
của các NHTM cho các doanh nghiệp vay, là mức lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ,
lãi suất của các NHTM lớn áp dụng cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp
nhất trên thị trường này và thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản(Prime Rate Bank Loans).
b. Lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố: Được xác định dựa trên quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước xác định tuỳ thuộc vào mục
tiêu chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế vĩ mô… Bao gồm: lãi suất chiết khấu, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng trên thị trường liên Ngân hàng,
lãi suất nghiệp vụ thị trường mở…
2. Các loại chính sách lãi suất
a. Chính sách lãi suất trần: Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi
suất cho vay tối đa. Chính sách này khuyến khích việc huy động vốn và tăng khả năng
kiểm sốt của chính phủ. Chính phủ đưa ra một mức lãi suất nhất định và áp đặt chung

cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.
b. Chính sách lãi suất cố định: Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước
khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Theo chính sách này thì sẽ
không có sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường tài chính tín dụng và do đó khơng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế.
c. Chính sách lãi suất tự do: Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính
phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn
toàn do những biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ
thực hiện được trong mơi trường cạnh tranh hồn hảo. Như Việt Nam thì hiện tại chúng ta
đang sử dụng chính sách lãi suất thoả thuận.
Các TCTD được sử dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động thương mại,
thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VNĐ. Về dài hạn thì việc xố bỏ “trần” lãi

4


suất cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng phương thức huy động vốn, cho vay và huy
động với mức lãi suất phù hợp với cung cầu trên thị trường tín dụng. Điều này đặc biệt có
lợi đối với các tổ chức kinh tế và người sản xuất ở khu vực nông thôn, nhất là trong bối
cảnh tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo
như NHNN, cơ chế lãi suất này sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ
thống Ngân hàng theo định hướng thị trường. Theo đó sẽ xoá bỏ những “dị biệt” trong hệ
thống Ngân hàng Việt Nam để dần tiến tới hội nhập thị trường tín dụng Quốc tế.
d.Chính sách lãi suất ưu đãi: Chính sách lãi suất ưu đãi là chính sách dành cho
một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc
thực hiện chính sách này làm người đi vay khơng hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc
dùng vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn
và phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với
lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền
núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại hạn chế

phát triển thị trường vốn vay.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT
Trong các nền kinh tế thị trường, nhà nhà nước chỉ đóng vai trị là người điều tiết vĩ
mơ, thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Các nước có nền kinh tế thị
trường chủ yếu theo đuổi chính sách tự do hố tài chính, do vậy cơ chế hình thành lãi suất
chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường. Đó là sự thay đổi về cung-cầu của vốn vay ảnh hưởng
tới sự hình thành và biến đổi lãi suất trên thị trường.
Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập dôi ra mà họ muốn tiết kiệm
và cho vay kiếm lời, qua đó cho thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn vay. Còn cầu về
vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư, mua
nhà đất hay xây dựng nhà máy...Như vậy, đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về
vốn vay.
Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về cung và cầu vốn
vay, dưới dây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đến đường cung
và đường cầu về vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.

5


1. Mức lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có
xu hướng tăng.
Ta thấy rằng : Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh
nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng.
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiết kiệm của mình sang
dự trữ hàng hóa hoặc các dạnh thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh
hơn là cho vay. Điều đó làm giảm cung về vốn vay, qua đó làm dịch chuyển đường cung
sang trái và làm lãi suất tăng lên. Ngược lại, ta thấy rằng, nếu lạm phát dự tính có xu
hướng giảm thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống.

2. Cung cầu của qũy cho vay
Bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không
cùng một tỉ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường, mức độ biến động của lãi
suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các qui định của chính phủ và ngân hàng Trung Ương,
song đa số các nước có́ nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi
suất. Từ điều này cho thấy ,chúng ta có thể tác động vào cung câu trên thị trường vốn để
thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ:
ví dụ như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư,tập trung vốn đầu tưcho cac dự an trọng điểm.
3. Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả
hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập
danh nghĩa. Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một phần thu nhập của những
cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khốn.
Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng, phần tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do
đó lượng tiền cho vay trên thị trường sẽ giảm đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay,
đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập
giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất.
4. Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ.
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm
giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang

6


trái và làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách như vậy sẽ
tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng
lãi suất.
5. Các yếu tó khác của đời sống xã hội

Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các cơng cụ tài chính, sự
phát triển của các thể chế tài chính trung gian, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, hiệu
suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong cơng nghệ và sự
phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,...
cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ́
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,
bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà là một chỉ số
đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là
vai trò vĩ mơ và vai trị vi mơ:
1. Vai trị Vĩ mơ
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ
việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật, miễn là họ có phương tiện thanh tốn.Vì
vậy bằng cách kiểm sốt giá bán và giá mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng
Nhà nước ở bất kỳ quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế,
bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi nhiều khả năng cho vay
của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng
tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng
như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một
ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay
mở rộng đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng cịn đóng vai trị
tích cực trong kiềm chế lạm phát. Ở nước ta, tháng 5/2008 đánh dấu mốc quan trọng đối
với điều hành lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo Quyết định
16/2008/QĐ-NHNN, lãi suất cơ bản đã được sử dụng một cách hiệu quả và linh hoạt
trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Trước sư biến động của thị

7



trường trong nước và thế giới, ngân hàng Nhà nước đã phải điều chỉnh lãi suất cơ bản
theo một biên độ và tần suất kỷ lục.
Sau 10 lần thay đổi lãi suất cơ bản, từ 8,25%/năm lên đến 14%/năm và hạ xuống
như hiện nay là 7%/năm. Nhờ vào sự điều chỉnh lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước
đã làm ổn định thị trường tiền tệ. Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại trở về
mức hợp lý hơn trong mối tương quan giữa tỷ lệ lãi suất và cơ cấu kỳ hạn, phản ánh đúng
quan hệ cung cầu vốn của thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người gửi, ngân hàng
thương mại và doanh nghiệp vay vốn.
Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở
tầm vĩ mơ .Từ năm 2007 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh
nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định,
Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt
động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khơi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước
nhằm điều hịa lưu thơng tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh
của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu
hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục
tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng
tín dụng và thanh tốn là cơng cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào
các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa
quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay
vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là cơng cụ
trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều
chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt
là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng vào lưu thơng vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần

lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều
hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều
ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các
nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân.

8


Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động
đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân
gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh lời cao và an tồn hơn việc tích trữ tài
sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ
cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và
tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản
vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng
ổn định.
2. Vai trị vi mơ
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi
phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hồn
trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp
phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hồn trả nợ khơng
đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn)
điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ
đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động
vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ
thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính tốn mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để
bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.

Mặt khác, lãi suất chính là cơng cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.Thời
gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho
vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi
ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một
phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi
thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương
thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong q trình cạnh tranh đó là điều
khơng đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng
vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều
phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng
thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác cũng cần phấn đấu

9


hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hút được nhiều khách hàng đến
mở tài khoản và vay vốn.

CHƯƠNG II.
CHÍN H SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I.

THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT
TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY.
Lãi suốt huy động và lãi suất cho vay được duy trì hká ổn định cho đến cuối năm 2007.
Từ tháng 1 năm 2008, do chính sách thắt chặt tiền tệ ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện
nhiều biện pháp nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông. Từ đó các ngân hàng bắt đầu tăng
lãi suất để huy động vốn, đảm bảo thanh khoản.
Tình hình lãi suất huy động: Lãi suất huy động VNĐ được duy trì tương đối ổn định từ
cuối năm 2007 cho đến tháng 12 năm2008. lãi suất huy động cho kỳ hạn 3 tháng dao

động ở mức 7,2%/năm – 17,14%/năm; lãi suất huy động cho kỳ hạn 6 tháng ở mức
7,56%/năm - 17,16%/năm ; lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng ở mức 7,84%/năm –
17,18%/năm. Từ đầu năm 2009, các ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất để thu hút đầu
tư. Lãi suất bình quân huy động vào tháng 6 năm 2009 cho kỳ hạn 3 tháng là 8,1%/năm
(giảm khoảng 3%/năm so với năm 2008); 6 tháng là 8.30%/năm (giảm khoảng 2%/năm so
với năm 2008); 12 tháng là 8,7%/năm (giảm khoảng 2%/năm so với năm 2008 ). Lãi suất
lại tăng cho đến tháng 08/2009, lãi suất huy động cho kỳ hạn 3 tháng là 8,5%/năm; 6
tháng là 8,6%/năm; 12 tháng là 8,7%/năm. Như vậy, tính đến tháng 08/2009, lãi suất huy
động VNĐ giảm gấp 2 lần so với năm 2008. Riêng đối với lãi suất huy động USD: áp
dụng theo cơ chế lãi suất thả nổi gắn với lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế, chịu tác động
ảnh hưởng nhiều bởi các đợt điều chỉnh, thay đổi lãi suất của FED. Đến tháng 05/2009,
lãi suất của FED ở mức 2%/năm, tuy nhiên, lãi suất tiền gửi USD ở Việt Nam đang ở
mức5 %/năm, thấp hơn 0,25% so với mức lãi suất của trái phiếu chính phủ 1 năm của Mỹ
là 5.25%/năm.

10


Bảng 1. Lãi suất huy động
Chỉ tiêu

T12/ 2007 (%/năm)

T12/2008(%/
T6/2009(%/
năm)
năm)
VNĐ
USD
VNĐ

USD
VNĐ
USD
Loại kỳ hạn 3 tháng
7.20 - 8.82
4.50 - 5.00
16.90- 5.08-8.2
4.5-5
17.14
5.5
Loại kỳ hạn 6 tháng
7.56 - 9.12
4.60 - 5.20
16.96- 5.28.2-8.4 4.717.16
5.56
5.4
Loại kỳ hạn 12 tháng
7.84 - 9.45
4.60 - 5.40
16.98- 5.38.5-8.8 4.717.18
5.6
5.5
Nguồn: Báo cáo của NHNN
Tình hình lãi suất cho vay: Từ cuối năm 2007 đến tháng 12/2008, lãi suất cho vay
VNĐ ngắn hạn khoảng 15%/năm; trung dài hạn khoảng 16%/năm. Cho đến tháng
06/2009, lãi suất cho vay ngắn hạn, trung dài hạn đều ở mức 10%/năm, giảm gấp 1.55 lần
so với năm 2008.
Đối với USD, trong năm 2007 và năm 2008, lãi suất cho vay dao động trong
khoảng 6,4%/năm – 8,9%/năm. Đến tháng 06/2009, lãi suất cho vay dao động trong
khoảng 4%/năm – 7,5%/năm, giảm gấp 1.5 lần so với năm 2008.

Bảng 2. Lãi suất cho vay

T12/2007(%/năm)
T12/2008 (%/năm)
VNĐ
USD
VNĐ
USD
Cho vay 10.80 - 6.4 0 - 19.58.20ngắn hạn 13.80
7.50
20.2
8.90
Cho vay 12.36 - 7.00 - 20-20.5
8.24trung,dài 15.48
7.80
8.94
hạn

T6/2009(%/năm)
VNĐ
USD
9.5-10.5 4.5-6
10-10.5

6-7.5

11


Bảng 3. Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước áp dụng đối với các NHTM

Loại lãi suất
Lãi suất cơ bản
Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất chiết khấu

2007 (%/năm)
8.5
6.5
4.5

2008 (%/năm)
8.5
7.5
6

2009 (%/năm)
7
7
5

Trong giai đoạn từ năm 2001-2006, mục tiêu của chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng
trưởng kinh tế nên chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ liên tục được mở rộng. Lượng
cung tiền mỗi năm tăng 25% trong khi lãi suất và tỷ lệ dự trữ giữ nguyên không đổi. Từ
cuối năm 2005 đến 31/12/2007, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu
được duy trì ở mức 8.25%/năm – 6.5%/năm – 4.5%/năm.
Cuối tháng 05/2007, ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN
ngày 28/05/2007 về việc kiểm sốt quy mơ, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư kinh
doanh chứng khốn nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong đó
khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng
khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng, hạn chót 31/12/2007 phải đảm

bảo tỷ lệ này.
Trong tháng 06/2007, ngân hàng Nhà nước đã đưa vào lưu thông 130 ngàn tỷ đồng
để mua 8.1 tỷ USD.
Ngày 01/06/2007, ngân hàn Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên
gấp đôi đối với cả nội tệ và ngoại tệ: từ 5% lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12
tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên 10% đối
với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng
đến dưới 24 tháng.
Ngày 30/01/2008, ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất
cơ bản từ 8.25%/năm tăng lên 8.75% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên
7,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm tăng lên 6.0%/năm.
Ngày 01/02/2008, tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đối với VND
và từ 10% lên 11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện dự
trữ bắt buộc từ dưới 24 tháng thành tất cả các kỳ hạn (Quyết định 187/QĐ-NHNN, áp
dụng từ 01/02/2008 của ngân hàng Nhà nước).
Ngày 13/02/2008 ngân hàng Nhà nước ra quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc
phát hành tín phiếu ngân hàng Nhà nước bắt buộc. Theo đó, bắt buộc các tổ chức tín dụng
12


mua tín phiếu bắt buộc với tổng giá trị 20.300 tỷ đồng, lãi suất 7.8%/năm, ngày phát hành
17/03/2008 . Ngày 26/02/2008 thông qua công điện 02/CĐ-NHNN của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại phải điều chỉnh lãi suất huy động vốn không
vượt quá 12%/năm; Các ngân hàng thương mại nhà nước tích cực tham gia nghiệp vụ thị
trường mở và các kênh tái cấp vốn khác của ngân hàng Nhà nước để đảm bảo khả năng
thanh tốn và hỡ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng với
lãi suất tối đa bằng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở tại phiên giao dịch gần nhất cộng với
1%/năm.
Ngày 24/04/2008, ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành công văn số
3764/NHNN-CSTT về việc tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm. Theo đó, để

hỡ trợ khả năng thanh tốn cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại có quy mô nhỏ, ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, quyết định tái cấp
vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm một cách kịp thời, trên cơ sở đề nghị của ngân
hàng thưương mại, điều kiện cung - cầu vốn thực tế và mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ, cơ chế tái cấp vốn hiện hành.
Ngày 16/05/2008, ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất
cơ bản từ 8.75%/năm tăng lên 12% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 7,5%/năm tăng lên
13%/năm; lãi suất chiết khấu từ 6%/năm tăng lên 11/năm. Đồng thời, thông qua quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo đó các tổ chức tín
dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VNĐ đối với khách hàng không vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ.
Ngày 10/06/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất
cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm tăng lên
15%/năm; lãi suất chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 15%/năm.
Ngày 11/06/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng mạnh từ mức
16.139VND/USD lên 16.461VND/USD, tăng 322VND/USD.
Từ quý II/2008, tiếp tục chuyển khoảng 52 ngàn tỷ đồng tiền gửi của kho bạc tại các
ngân hàng quốc doanh về ngân hàng Nhà nước.
Ngày 26/06/2008, điều chỉnh lãi suất tín phiếu bắt buộc, theo đó từ 01/07/2008,
lãi suất tín phiếu ngân hàng Nhà nước bằng VND dưới hình thức bắt buộc phát hành ngày
17/03/2008 sẽ tăng từ 7.8%/năm lên 13%/năm, áp dụng đối với thời hạn thanh tốn cịn
lại của tín phiếu (Quyết định 1435/QĐ-NHNN ngày 26/06/2008 của ngân hàng Nhà nước).

13


Ngày 26/06/2008, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng biên độ từ +-1% lên +2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàn áp dụng cho ngày giao dịch do ngân hàng Nhà
nước thông báo theo Quyết định 1436/QĐ-NHNN.
Ngày 03/07/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành 6076/NHNNTTR về việc kiểm tra lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng,
theo đó, yêu cầu các tổ chức tín dụng có mức huy động vốn bình quân từ 17.5%/năm trở

lên báo cáo phương án kinh doanh phù hợp với mức lãi suất huy động vốn và có biện
pháp xử lý kiên quyết phù hợp với các quy định của pháp luật đối với các tổ chức tín dụng
có mức lãi suất huy động vốn ở mức cao, không có khả năng bù đắp chi phí kinh doanh.
Ngày 19/08/2008, theo Quyết định số 1849/QĐ-NHNN, các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng
trên thị trường liên ngân hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà
nước công bố. Ngày 29/08/2008, điều chỉnh lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng
Việt Nam đối với tổ chức tín dụng: điều chỉnh từ 1,2%/năm (theo Quyết định số
923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004) tăng lên 3,6%/năm (Quyết định số 1907/QĐ-NHNN
ngày 29/8/2008). Mục đích của việc tăng mức lãi suất này nhằm hỡ trợ các tổ chức tín
dụng có điều kiện giảm lãi suất cho vay, góp phần chia sẻ cùng doanh nghiệp và người
vay tác động thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển.
Ngày 25/09/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 2133/QĐ-NNNN
theo đó mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín
dụng được tăng lên 5%; Quyết định 2132/QĐ-NHNN theo đó, sửa đổi Khoản 7 Điều 1
Quyết định 346/QĐ-HNN như sau:”Tín phiếu ngân hàng Nhà nước bắt buộc phát hành
ngày 17/03/2008 được cầm cố để vay vốn, chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước, được sử
dụng làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở do ngân hàng Nhà nước thực hiện theo
quy định hiện hành”.
Ngày 20/11, Ngân hàng Nhà nước đã có các quyết định tiếp tục nới lỏng chính sách
tiền tệ và được áp dụng từ ngày 21/11. Theo đó, lãi suất cơ bản tiếp tục được cắt giảm
thêm 1%, từ 12% xuống còn 11%/năm. Qua đó, mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng tối đa chỉ cịn 16,5% thay vì 18% như hiện tại
Qua 8 tháng đầu năm 2009, kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực trên
tất cả các mặt. Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5%; tiếp
tục giữ ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt và khống chế tăng chỉ số giá tiêu dùng, ngày
26/8/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 2024/QĐ-

14



NHNN về việc quy định giữ mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam như tháng trước.
Theo đó, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 7% năm. Quyết định này có hiệu lực
từ ngày 01/9/2009, thay thế Quyết định số 1811/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ban hành ngày
30/7/2009.
II.
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.

Sau khi Việt nam gia nhâp WTO, do sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng đã đẩy lãi
suất huy động và lãi suất cho vay lên cao. Dẫn tớ việc lãi suất thực tế trong 3 năm từ năm
2007 đến năm 2009 là khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng
hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường và
sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản.
Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới khơng có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc
biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ
(như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý
do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu
không áp dụng lãi suất cao.
Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi
biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn)
các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ
khơng cịn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh
trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải
thiện. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ
bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn
toàn lãi suất.
Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các

ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi
mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn khơng được lành mạnh giữa hai
thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh,
ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu
vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu
vực này vay là rủi ro hơn.

15


Sự cạnh tranh mở rộng quy mô Ngân hàng đẩy lãi suất lên cao, làm cho lãi suất
không ổn định.
Lãi suất cơ bản hiện nay được sử dụng chỉ mang tính chất tham khảo, các cơng cụ
chính của Ngân hàng Nhà nước sử dụng là: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… kết
hợp với lãi suất thị trường và các cơng cụ tài chính khác. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản
chỉ cịn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hồn tồn có thể cho với các lãi suất khác
nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ
kinh doanh nhỏ hay nông dân không cịn bị loại ra ngồi cuộc chơi như trước đây.
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay
đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn
các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng
và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt
được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng
trưởng kinh tế.
 Tác động của lãi suất thực đến sản lượng và giá cả
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến:
a. Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi
tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và cơng ty. Tín dụng trong nước,
tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi
lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng

tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất
cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết
định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết
kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi
suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay
ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện
với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm.
Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong
kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
b. Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người
vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự
chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng
trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu

16


dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao
vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi
vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia
đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do
đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội nhiều hay
ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, trong từng
quốc gia thì mỡi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của lãi
suất cũng khác nhau.
Đối với Việt Nam từ năm 2007-2009, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát
có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam
đối với hành vi của cá nhân , các doanh nghiệp và hoạt độnng của ngân hàng thương mại
từ đó đánh giá ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

 Đối với cá nhân
Quan sát mức lãi suất tiết kiệm thực VND từ năm 2007 - 2009, nhìn chung là có xu
hướng giảm từ mức 9,6%/ năm của năm 2007 xuống còn 9,4%/năm của năm 2009 và
(năm 2007 và 2008 tăng là 0, 35%/năm) . Nhưng tiêu dùng cũng có xu hướng tăng (tổng
mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đã loại trừ tăng giá đã tăng từ mức mức 15% năm 2007
lên 30,8% năm 2009). Mức độ tiêu dùng qua mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ với tăng
trưởng GDP thực từ năm 2007 - 2009, phần nào sát với xu hướng (thu nhập tăng thì tăng
tiêu dùng). Như vậy có thể sơ bộ thấy rằng, lãi suất thực trong giai đoạn này có tác động
cùng chiều đến hành vi tiết kiệm và ngược chiều với tiêu dùng của các cá nhân... Như
vậy, nếu như các yếu tố khác không đổi ảnh hưởng của lãi suất đến hành vi của cá nhân
là lãi suất thực giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng hơn là tiết kiệm.
 Đối với doanh nghiệp
Cuộc đua lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ vẫn đang quyết liệt. Trong lúc
một số ít người có chút tiền tiết kiệm “khấp khởi” vì gỡ gạc được đơi chút trước tốc độ
tăng như “vũ bão” của giá cả thì nhiều tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lại rơi
vào cảnh lao đao.
Chưa bao giờ, thị trường tiền tệ lại trở nên “nóng” như những ngày vừa qua, đặc
biệt là từ thời điểm trung tuần tháng 2 trở lại đây. Tình trạng căng thẳng nguồn vốn VND
đã đẩy các ngân hàng vào cuộc chạy đua lãi suất cực kỳ nóng bỏng.

17


Mức lãi suất 12,5%/năm đối với kỳ hạn 1 tháng vừa được xác nhận là “kỷ lục” thì
chỉ ngay ngày hôm sau, đã có ngân hàng khác tung ra mức lãi suất lên tới 13,2%/năm
cùng kỳ hạn. Tương ứng là mức lãi suất của kỳ hạn 3 tháng cũng của ngân hàng này lên
tới 13,92%/năm. Và chắc chắn, cuộc đua này sẽ chưa dừng lại.
Diễn biến của thị trường vốn đã khiến cho lãnh đạo nhiều doanh nghiệp như “ngồi
trên đống lửa”. Tổng Giám đốc công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại Hoàn Dương đơn vị chuyên sản xuất, kinh doanh mặt hàng nông sản, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi... lo
lắng bộc bạch, đây là một trong những thời điểm cực kỳ khó khăn với doanh nghiệp khi

hàng loạt những tác động bất lợi cùng “cập” đến.
Đó là tình hình thiên tai khắc nghiệt, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, chi phí đầu
vào mọi mặt hàng đang đứng trước nguy cơ tăng giá dây chuyền theo giá xăng dầu và đặc
biệt là tình trạng căng thẳng nguồn vốn trên thị trường ngân hàng. Nếu như trước đó,
nguồn vốn vay của doanh nghiệp chỉ phải trả lãi từ 9 - 10%/năm thì nay đã lên tới ít nhất
từ 12 - 13%/năm. Đương nhiên, chi phí vay cao hơn sẽ dẫn tới chi phí đầu vào của doanh
nghiệp cũng tăng lên. “Đáng ngại hơn, việc có những khoản vì nhu cầu bức thiết, chúng
tơi vẫn buộc phải vay và chấp nhận lãi suất “cắt cổ” nhưng cũng không được. Không phải
chỉ những dự án đầu tư mới phải tạm dừng mà ngay cả hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng ngày của chúng tôi cũng bị ảnh hưởng bởi thiếu vốn. Ngay trong ngày 25-2, chúng
tôi đã bị ngân hàng “phanh” lại 4 tỷ đồng tiền hàng” .
Cùng có chung mối quan tâm này, đầu tư xây dựng là một trong những lĩnh vực
có nhu cầu vay vốn rất lớn. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách đều đưa ra khuyến
nghị rằng, doanh nghiệp cần “cơ cấu” lại danh mục đầu tư và cân nhắc để lựa chọn những
dự án hiệu quả mới vay vốn nhưng trên thực tế, dự án nào của doanh nghiệp cũng phải đi
vay cả. Sau khi biện pháp thắt chặt tín dụng được thực hiện, có đến 3, 4 dự án đang làm
hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp đã phải xếp lại. Những dự án đang triển khai, tốc độ thực
hiện cũng bị chậm lại. Đây cũng là mối quan tâm, lo lắng của khối doanh nghiệp.
Năm 2008 sẽ là một năm đầy khó khăn của các doanh nghiệp và nền kinh tế! Diễn
biến trên thị trường tài chính, tiền tệ; thị trường hàng hóa, giá cả ngày một hiển hiện
những nguy cơ này. Tính chung lại, một năm qua, giá dầu DOP chuyên dụng cho sản xuất
nhựa đã tăng giá đến 200%, giá nhựa tăng 150% và sẽ còn tiếp tục tăng mạnh do xăng
dầu tăng giá. Trong khi đó, giá bán sản phẩm của doanh nghiệp không thể tăng ngay với
mức tương ứng.

18


Lúc này, không chỉ doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư, sản xuất và kinh doanh mà
bản thân những đại lý, người chăn nuôi cũng thiếu tiền để nhập hàng. “ việc thắt chặt tín

dụng để kiềm chế lạm phát là cần thiết nhưng phải đúng trọng tâm, trọng điểm. Còn với
sản xuất, kinh doanh lĩnh vực lương thực, thực phẩm như doanh nghiệp phải được cân
nhắc, xem xét bởi đây là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng giá cao nhất thời gian
qua mà có nguyên nhân là khan hiếm nguồn cung. Và nếu hoạt động sản xuất, chăn nuôi,
trồng trọt... nói chung bị ảnh hưởng, giá lương thực, thực phẩm sẽ còn “nóng” hơn nữa,
gây tác động tiêu cực đến giá cả nói chung” .
Một chuyên gia kinh tế cũng nhận định, xét trên một khía cạnh, cuộc đua tăng lãi
suất huy động VND sẽ giúp các ngân hàng đẩy nhanh tốc độ huy động vốn, giải quyết
tình trạng căng thẳng vốn VND, đồng thời giúp người dân có chút ít tiền tiết kiệm bớt
thiệt thịi trong bối cảnh giá tiêu dùng tăng chóng mặt. Nhưng trên thực tế, số người dân
có tiền “dư dật” để hưởng lãi từ “siêu lãi suất” khơng nhiều, cịn đại bộ phận dân cư đang
phải “thắt lưng buộc bụng”, thậm chí “gồng mình” trước “cơn lốc tăng giá”. Trong khi đó,
để kiềm chế lạm phát thì chỉ riêng chính sách thắt chặt tiền tệ chưa đủ và liều lượng của
“bài thuốc” này cũng là điều cần tính tốn, cân nhắc. Bởi vậy, đây là thời điểm mà các
Bộ, ngành như Tài chính, Cơng thương, ngân hàng Nhà nước... phải hợp lực để ghìm
cương giá cả.
 Đối với hoạt động ngân hàng thương mại.
Chính sách tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là công cụ phục vụ quản lý
vĩ mô, điều tiết thị trường, nhưng gánh vác trực tiếp có thể nói là chính là hệ thống các
ngân hàng thương mại. Thế nhưng đến giờ, các ngân hàng thương mại đều có câu trả lời
chung cho rằng việc tăng lãi suất này khơng quan trọng, khơng ảnh hưởng gì nhiều đến
mình.
“Khơng có gì quan trọng, vì ngân hàng thương mại điều chỉnh hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình phải căn cứ vào tình hình thị trường, chứ khơng chỉ trên động thái
của ngân hàng Nhà nước”
“Với ngân hàng của tơi, khơng có gì bị ảnh hưởng. Có quan trọng nhưng khơng
đáng kể, và khơng có gì xáo trộn”Tổng giám đốc một ngân hàng khác cũng trên cùng địa
bàn TP.HCM, cho biết.
Một chuyên gia về lĩnh vực tổ chức ngân hàng cho rằng sự thờ ơ của các ngân
hàng thương mại là “có lý của nó”. Chuyên gia này cho rằng về nghiệp vụ thị trường mở,

ở Việt Nam phát triển không mạnh, nên việc gia tăng lãi suất của ngân hàng Nhà nước sẽ

19


không có tác động trực tiếp nhiều đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ở Việt
Nam, các ngân hàng thương mại đến ngân hàng Nhà nước chỉ để đổi ngoại tệ, cịn hoạt
động tín dụng chỉ chiếm một vài phần trăm, khơng đáng kể. Vì vậy dù ngân hàng Nhà
nước có điều chínhh tăng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, cũng không tác động
nhiều đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại .
“Vậy nên, khi ngân hàng Nhà nước không mua USD là thị trường xơn xao ngay, vì
các ngân hàng thương mại thu đổi ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng nặng, và thị trường cũng bị
tác động mạnh, nhưng thay đổi lãi suất thì chưa chắc” chuyên gia này nói.
Thậm chí, ở Việt Nam có thể cịn có hoạt động trái quy luật là khi lãi suất tăng thì
hoạt động tín dụng lại tăng. Một trong những nguyên nhân là khối DN tư nhân được cơ
hội vay với lãi suất rẻ hơn đi vay ngoài như lâu nay. Điều này có thể ngân hàng Nhà nước
chưa tiên liệu tới.
Vậy nên nếu có tình trạng này xảy ra, hiệu quả chống lạm phát từ việc tăng lãi suất
sẽ hạn chế, chứ khơng như đáp số của bài tốn đã lập sẵn.Về lý thuyết, một khi lãi suất
ngân hàng tăng thì giá chứng khoán giảm.
Động thái của Việt Nam thời điểm này trái ngược lại với động thái của Chính phủ
Mỹ vừa qua.
Nếu chính quyền Tổng thống Bush quyết định cứu nền kinh tế bằng việc chi 140 tỷ
USD (bằng việc giảm thuế) và liên tục cắt giảm lãi suất đồng USD, điều đó có nghĩa rằng
Chính phủ Mỹ đã chấp nhận lạm phát để cứu thị trường chứng khoán trước.
Việt Nam ngược lại, đã chọn chống lạm phát làm mục tiêu. Và như vậy, thị
trườnng chứng khoán tạm thời vẫn chưa có giải pháp.
Mặc dù tuần qua TTCK tăng 6 phiên liên tục, song chính từ việc cắt giảm lãi suất
của ngân hàng Nhà nước, e rằng việc tăng trưởng này sẽ không giữ được lâu.
Cùng với việc ngân hàng nhà nước quyết định cho các ngân hàng thương mại cho

vay cầm cố cổ phiếu với mức tối đa 20% vốn điều lệ là khoản siết lại đã thấy rõ, có thể xu
hướng sắp tới thị trường chứng khoán sẽ lại tụt giảm bởi thị trường khơng cịn tiền để
mua bán cổ phiếu.
Một biểu hiện dễ thấy nhất là các ngân hàng thương mại đã bắt đầu có dấu hiệu
hạn chế giao dịch tiền đồng. Một số người dân phản ảnh, khi đi vay tiền, có một ngân
hàng đã không cho vay. Hỏi lý do thì ngân hàng này trả lời loanh quanh khó hiểu hoặc
không thỏa đáng. Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cho biết, lý do là ngân
hàng khơng cịn tiền đồng, nhưng điều này khó có thể nói với khách hàng.

20



×