Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

chính sách tiền tệ nhtw 2011 ở việt nam - thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.02 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các
biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt
được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có
vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các
công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối
với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các
công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là
một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà
hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế.
Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì
việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền
tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu
về chính sách tiền tệ ,em quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ NHTW
2011 ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Nội dung của đề tài
ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo đề tài gồm ba phần:
Phần I : Vấn đề mang tính lý thuyết về chính sách tiền tệ.
Phần II: Thực trạng vấn đề nêu trên tại Việt Nam.
Phần III: Giải pháp về đề nêu trên tại Việt Nam.
Em xin cảm ơn đã tận tình hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Với thời
gian nghiên cứu và lượng kiến thức tích luỹ còn có hạn, mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng đề tài này không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để đề tài ngày càng hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hải phòng, ngày 05 tháng 11 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 1


Bùi Duy Thành
Phần I : Vấn đề mang tính lý thuyết về chính sách tiền tệ.
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh
tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công
cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo
công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ
chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi
suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng
thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của
Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất
vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ
chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính
sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách
chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến
sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn định được
xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và
dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng tiền nước mình so với
ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là
tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ
lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 2

*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh
doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ
thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ
cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là
rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu
này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau,
không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có
thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt được các mục
tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự
phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng
tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số
tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ
làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng
thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng chứng
khoán mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn
kém về chi phí ,dễ đảo ngược tình thế.Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua
quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị
trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng

bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 3
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do
NHTW qui định ,gửi tại NHTW,không hưởng lãI,không được dùng để đầu
tư,cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền
gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ thống
ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp
đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các
NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của
các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho
lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó
cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không
cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh
hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối
với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất
táI chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ
chiết khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế
(khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay
của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm
(tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì
thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ

biến để có thể làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ
này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 4
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người
cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh
toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có
thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc
ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn
phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái
chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị
trường.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung
ứng,trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì
sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện
cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt
được mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp
sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM
không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm)
để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín
dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ
tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ )sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và
NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho
nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng
khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất

cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền
kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các
NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 5
hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm
khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất
cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh
hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý
mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho
lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều
kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính
khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của
vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến
kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm cho các
NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
Phần II: Thực trạng vấn đề nêu trên tại Việt Nam.
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện
chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của
nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp chúng
ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và
mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay
việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C)

còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác (D). Bên
cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước
tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 6
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không
đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm )
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh
vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có
quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:
ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách tiền
tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá stập
trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân
hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Năm 2011, lãi suất trong nước có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện
chủ trương kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục
được điều chỉnh theo xu hướng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75%
tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của
thị trường tài chính quốc tế, trong năm 2011, lãi suất thị trường quốc tế liên tục
tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nước cũng phải tăng theo (từ 3,5% năm lên
4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2011, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất:
chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ
bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với
cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt quá
lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75%

tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho vay trung và dài
hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vượt
quá lãi suất USD trên thị trường liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí
với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 7
cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay
ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với
các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi TD nên cho
phép các TCTD tự xác định.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản
được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự
kiểm soát lãi suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bước tiến
mới, bước đi tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất.
Như vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ
giá VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong
quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền
Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình
trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt
Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển
chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của
thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát.
Từ năm 1998- 2011 NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ “thắt
chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đưa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải
cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tượng phổ biến là hầu hết
các NHTM đều có xu hướng vượt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng được giao, cụ
thể .

Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 8
Biểu 1: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1998-2011).
Năm
Danh mục
1998 1999 2000 Quỹ T D /
2011
KH giao Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
Tăng so với
năm trước
21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8%
Hiện tượng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân
hàng năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các
NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế vì
con đường để đầu tư qua thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khó khăn trong
điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho vay

trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy
động (do tâm lý người dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa
lãi suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25% tháng,
thấp hơn so với trước đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch như vậy để đảm
bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì buộc các NHTM phải
tăng dư nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tượng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1998-
2000 mặc dù lạm phát được kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhưng
nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên, năm 2011 công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó
trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán vì lạm phát có
xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 9
tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Do đó từ quý II/2011, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ
thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù có thể coi nó như một
giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định , thị
trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/2006) ,từ cuối 2006 và trong năm
2007, quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tượng áp dụng được mở
rộng thêm (quỹ TDND, NH hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trước
đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán;
việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 2010 tỉ lệ DTBB được
điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu
tư, tiêu dùng.
Biểu 2: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 2010
TCTD

Tỉ lệ DTBB (%)
1/1/10 1/3/10 1/6/10 1/7/10 1/10/10
1. NHTMQD, NHTM của đô thị,
chi nhánh NH nước ngoài, NH
liên doanh & Công ty TC
10 7 6 5 5
- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp
tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.
0 5 4 1 1
3. TCTD có số dư tiền gửi phải
tính DTBB dưới 500
trđ
quỹ
TDND cơ sở, HTX tín dụng, NH
phục vụ người nghèo.
0 0 0 0 0
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 10
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng
tín dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của
các NHTM do lãi suất giảm.
Trong năm 2011, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND như năm
2010. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn
chế việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động)
để gửi ra nước ngoài hưởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho
vay trong nước, ngày 1/10/2011 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền
gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy trì DTBB
tháng 11/2011. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương trên ,ngày 1/12/2011
NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2011.
Như vậy, công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công cụ

đắc lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu
ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công cụ
của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa hội đủ
những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn
nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành công cụ
đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
Trong năm 2008 NHNN đã sử dụng phương thức tái cấp vốn có thế chấp
(bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời
trong thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ quy
định 100% lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định
mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm 2008). Mức lãi suất tái cấp vốn quy
định là 1,1% tháng, từ T8/2008là 0,9% ). Do trong năm 2008 các NHTM đã tích
cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên đến cuối
2008, dư nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 2007.
Năm 2009, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự gia
tăng lạm phát do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 11
tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1%

tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho
vay ngắn hạn là 0,1% tháng.
Năm 2010, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy
cơ giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ
mức 1,1% tháng đầu năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất
khấu, tái chiết khấu đã được ban hành để phát triển một bước hiệu quả công cụ
này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho
các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh được chiết khấu tại NHNN là tín
phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do NHNN
quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu được công bố là 0,45%

tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2011, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng
của các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống
0,45% tháng (31/3/2011) và xuống 0,4% tháng (31/7/2011). Đồng thời NHNN
cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng
(T3/2011) và xuống 0,35% tháng (T7/2011). Tuy vậy cho đến T9 /2011 để hạn
chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái
chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường mở nhằm
thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, đồng thời tạo tín hiệu cho các TCTD
tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2011 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái
cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng.
Như vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng bản
chất của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển
của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ
quốc gia
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu
NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện
CSTT quốc gia”
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 12
Trước khi thị trường mở chính thức được đưa vào vận hành ở Việt Nam,
NHNN đã từng bước tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát
hành các loại tín phiêú, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nước (KBNN): từ năm 2006 đến hết năm 2008
NHNN đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc.
Năm 2006, KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó
chủ yếu là phát hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá
trúng thầu năm 2007 là 2917,5 tỷ VND (37 đợt ); năm 2008 là 4020,7 tỷ VND
(46 đợt),năm 2009 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm 2010 là 4441.0 tỉ VND (43

đợt). Các đối tượng trúng thầu chủ yếu là các NHTM Quốc doanh, các NHTM
cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo quy định của luật NHNN thì
các trái phiếu này không thể sử dụng làm công cho thị trường mở được.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 2005, tính đến
thời điểm tháng 7/2009 NHNN đã tổ chức được 6 đợt phát hành tín phiếu
NHNN. Các đợt này đều được tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phương
tiện thanh toán và lạm phát có xu hướng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lưu
thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn các
tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng.
Cho đến ngày 12/7/2010, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ thị
trường mở vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như là một công cụ
điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2010, NHNN đã thực hiện được 17 phiên giao dịch thị trường
mở, trong đó có 14 phiên mua được 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lượng
chào mua với lãi suất trong khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán được 550
tỷ đồng đạt 100% khối lượng chào bán với lãi suất trong khoảng 4,0%- 4,6%
năm. Đến 31/12/2010 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trường mở sau khi
loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.
Từ 1/1/2011- 7/2/ 2011, NHNN đã thực hiện được 3 phiên giao dịch mua
được 160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lượng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6
%năm. Đã có 18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trường (tuy vậy
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 13
mỗi phiên giao dịch chỉ có thường xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham
gia)Phương thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15 ngày -4tháng )
hoặc mua hẳn- bán hẳn.
Như vậy,ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho
mình và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định
(đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng vốn
khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu CSTT
quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất thử

nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
Phần III: Giải pháp về đề nêu trên tại Việt Nam.
3.Giải pháp :
3.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi
-Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó trong
một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần
được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống
các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
-Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố
và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là
cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
-Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ
thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
-Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu
thập ,xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
-Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ
chế thực thi CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm
minh và có hiệu quả hơn.
-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói
quen mới trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện
các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh toán qua
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 14
ngân hàng của các tổ chức kinh doanh ,thói quen sử dụng hoạt động thị trường
mở của các tổ chức tín dụng
3.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền
tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh
nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực
tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ
phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn

nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể:
*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần
phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ
can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
*Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc
đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo
điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp
các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các
doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ lạm phát
và diễn biến lãi suất trên thị trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền
vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn
dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính
đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều
khó khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các
kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc
doanh.
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 15
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách
hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất
Việt Nam .
Trước mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những
biểu hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD
đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi
suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những hiện
tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN có thể

nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía Nhà
nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ chức tín dụng, các NHTM
ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá cao, do vậy thuế đánh vào
các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp theo hướng giảm tỷ lệ
thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế
Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải
hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu hướng tất
yếu và khi đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng công cụ lãi suất vẫn
được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung
ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ chế thị
trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra
một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên
mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra
phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ
thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ
bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế dự trữ
để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục
tiêu CSTT
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 16
-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các
qui chế dự trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp,
tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi
suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN.
-Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc
đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế .
-Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã phát triển, các

công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân
hàng Nhà nước nên có dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để
họ được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình .
* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
-Thương phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng
thương mại trong nền kinh tế thị trường ,ở nước ta hiện nay các hình thức tín
dụng thương mại đã xuất hiện,doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn
,giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa các doanh nghiệp là rất lớn .Do vậy cần
thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín dụng
thương mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm bảo ,trước mắt đó
là việc xúc tiến các hoạt động để đưa pháp lệnh thương phiếu (hiệu lực từ
1/7/2000) đi vào thực tiễn.
-NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án
cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới hiệu
quả việc điều chỉnh mức cung tiền .
-Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên
mở rộng đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho vay cuối
cùng” của NHNN và đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để NHNN
có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu
,tạo ra tín hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM .Mặt khác ,cùng
với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 17
ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết lãi suất thị trường
một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế
* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ
hữu hiệu ,linh hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
-Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến
lạm phát lãi suất ,đầu tư để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào

thị trường mở như thế nào (mua bán tín phiếu) ,với lượng là bao nhiêu.
-NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị
trường mở và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
-Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý
phát hành tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép
NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi Muốn vậy NHNN phảI nắm được
( quản lý) được các hoạt động này đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn
cao của các công cụ trên thị trường mở.
-Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ
thị trường mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ
-Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của
các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường thứ
cấp.
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 18
KẾT LUẬN
Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất
quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự
phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì
việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết
trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy
trưởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi
nền kinh tế bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ
điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết,
hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của
nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong
việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng

đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực
NHNN, hệ thống NHTM và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở
Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát
triển về sau.
Do thời gian hạn hẹp để có thể tìm hiểu thực tế sự đa dạng của môi
trường kinh doanh cũng như hạn chế về trình độ và lý luận nên đề tài của em
cũng không tránh khỏi những sai sót. Em xin chân thành cảm ơn đã tận tình chỉ
bảo cho em trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Em rất mong nhận được những
nhận xét, đáng giá của các thầy, các cô giáo trong khoa kế toán, giúp em có thể
hoàn thành bài tiểu luận của mình và có thể phát triển lên thành đề tài tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày 05 tháng 11 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Bùi Duy Thành
Bùi Duy Thành – TCNH Ck10 Page 19

×