Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến
trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Có thể thấy việc gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) chính là cơ hội để Việt Nam tiến sâu vào hội nhập và phát
triển bình đẳng với các quốc gia trên thế giới. Song nhìn về đặc điểm, trình
độ, các mối quan hệ kinh tế hiện hữu và năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ
mô, thì chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không phải là nhỏ.
Gắn với công cụộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải
quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở
rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Vì vậy cần
phải có những bước đi thận trọng với những chính sách linh hoạt để tránh
những “cơn sốc” hay “khủng hoảng” đối với kinh tế Việt Nam trên con đường
hội nhập.
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực
kỳ quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát… Để đạt được các mục tiêu của CSTT thì việc sử dụng các công cụ của
nó có vai trò cơ bản, quyết định. Từ khi đổi mới đến nay, các công cụ của
CSTT dang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với
nền kinh tế. Việc lựa chọn các công cụ sao cho phù hợp và việc sử dụng
chúng sao cho hiệu quả nhất trong từng giai đoạn kinh tế luôn là một vấn đề
mà Nhà nước quan tâm theo dõi và đưa ra các quyết định cụ thể. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, thì việc nghiên cứu các công cụ của CSTT là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Các
công cụ của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để tìm
hiểu và nghiên cứu.
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài gồm 03 chương với bố cục như
sau:
Chương 1: Tổng quan về CSTT trong nền kinh tế thị trường.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 1 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của CSTT ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của CSTT
ở Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo
ThS. Phạm Thị Bích Duyên đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Vì kiến thức cũng như kinh nghiệm còn non trẻ và thời gian hạn hẹp
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của cô
để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ngọc Liên
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 2 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Khái niệm, vị trí và đặc trưng của CSTT
1. Khái niệm
CSTT của NHTƯ là tập hợp những chủ trương, biện pháp, nguyên tắc
cũng như các công cụ mà NHTƯ sử dụng để điều tiết, điều hòa khối lượng
tiền trong nền kinh tế nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tạo
nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Điều 2, Luật NHTƯVN quy định: CSTTQG là một bộ phận của chính
sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm
chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tùy theo điều kiện mỗi nước, CSTT có thể được xác lập theo hai
hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – CSTT chống thất nghiệp)
hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản
xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – CSTT ổn
định giá trị đồng tiền).
2. Vị trí
Vị trí CSTT: Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
thì CSTT là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực
tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với NHTƯ việc hoạch định và thực thi CSTT là hoạt động cơ bản
nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho CSTT quốc gia được thực hiện
có hiệu quả hơn.
3. Đặc trưng của CSTT
CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc
gia.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 3 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp còn thể hiện trình độ phát triển kinh tế
một nước. Vì vậy, tiền tệ đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong một nền
kinh tế. CSTT là một bộ phận trung tâm của các chính sách kinh tế - tài chính
quốc gia.
CSTT là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
Khối lượng tiền tệ là đối tượng mà một số NHTƯ xem là yếu tố cần
tác động chính, từ đó tác động đến lãi suất, đầu tư, ảnh hưởng đến sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Vì vậy, CSTT là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
NHTƯ là người đề ra và vận hành CSTT.
CSTT hướng đến việc thay đổi lượng tiền cung ứng và lưu thông sao
phù hợp với mục tiêu, vì vậy chủ thể nào cung ứng tiền thì chủ thể đó phải
trực tiếp vạch ra CSTT.
II. Mục tiêu của CSTT
1. Ổn định giá cả
NHTƯ thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị
đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt:
Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa dịch vụ trong nước) và
sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Ổn định
giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng sự phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế
vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự
phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn
định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát = 0 vì vậy nền kinh tế
không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một
tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi Chính phủ trong việc
hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng
trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng,
nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. CSTT phải đảm bảo sự
tăng lên của GDP thực tế. Nếu mức gia tăng GDP thực tế cao hơn nhịp độ
tăng trưởng dân số thì nền kinh tế thật sự có tăng trưởng. Một nền kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 4 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ
mọi quốc gia.
3. Tạo việc làm
CSTT phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu
tư, gia tăng sản xuất, làm tăng việc làm. Ngược lại khi nền kinh tế được mở
rộng sẽ có tác dụng chống suy thoái, đạt được những tăng trưởng ổn định.
Như vậy, CSTT mở rộng hay thu hẹp đều có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh
hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm
thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Sự phối hợp ba mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công
ăn việc làm là rất quan trọng. Vì giữ các mục tiêu có sự mâu thuẫn với nhau,
nên NHTƯ không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng
thời gian nhất định. Do vậy, khi đặt ra các mục tiêu cho CSTT, cần phải có sự
dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ
tự ưu tiên. Muốn vậy NHTƯ phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của
quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi
bằng những giải pháp thích hợp.
III. Các công cụ của CSTT
Để thực thi CSTT, thực hiện chức năng và vai trò của mình, NHTƯ đã
sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín
dụng, cho vay tái chiết khấu… Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và
có ưu nhược điểm khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nền
kinh tế để sử dụng nó một cách phù hợp, hiệu quả. Nhìn chung, các công cụ
này tác động đến hai đầu mối chủ yếu là ngân hàng trung gian và thị trường
mở.
1. Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi của lãi suất sẽ
kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay
mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong
những công cụ chủ yếu của CSTT. Thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 5 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, NHTƯ có thể sử dụng công
cụ lãi suất để điều hành CSTT theo các chính sách:
- NHTƯ kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các
loại lãi suất như: Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc
sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn;
hoặc công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch…
- NHTƯ áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thành theo cơ
chế thị trường, NHTƯ có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách:
công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường; hoặc sử dụng công
cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và
điều chỉnh lãi suất thị trường.
Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan
trọng của CSTT. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những
điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực
tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng
như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với
cán cân thanh toán quốc tế. Ngược lại, nếu sử dụng nó cứng nhắc không phù
hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất trở thành vật cản kìm hãm,
trói buộc nền kinh tế.
2. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM phải đưa vào dự trữ
theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp tùy thuộc vào tỷ lệ DTBB – do
NHTƯ quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng
tiền gửi mà NHTM huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi
ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt
buộc. Qua đó, việc tăng hay giảm tỷ lệ DTBB, NHTƯ có thể hạn chế hoặc
bành trướng khối lượng tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng
cho nền kinh tế.
Khi tỷ lệ DTBB tăng hoặc giảm thì hệ số tạo tiền của hệ thống NHTM
giảm hoặc tăng dẫn đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc
tăng. Đây là công cụ mang tính hành chính của NHTƯ. Ưu điểm của nó là có
thể tác động đến tất cả các NHTM như nhau và tác động một cách đầy quyền
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 6 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
lực. Bên cạnh đó việc thay đổi tỷ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu
doanh lợi của các NHTM.
3. Hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính
hành chính của NHTƯ. Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHTƯ quy định cho
các NHTM một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho
phép NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế
trong một thời gian nhất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng
kể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định như:
- Có thể làm tăng lãi suất, bởi vì cung hạn chế.
- Làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng.
- Gây ra tiêu cực trên thị trường vốn.
- Hạn mức tín dụng cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì
các ngân hàng thường chọn doanh nghiệp lớn dể cho vay nhằm giảm chi phí
và bảo đảm an toàn trong giới hạn tín dụng được phép.
4. Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHTƯ sẽ cung ứng tiền
cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTM trên cơ sở nhận
tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các NHTM .
NHTƯ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hoặc
tăng lượng tiền trong lưu thông. Nếu chính sách của NHTƯ là muốn bành
trướng khối tiền tệ, NHTƯ khuyến khích các NHTM trong việc đi vay bằng
cách hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu cũng dễ
dãi. Ngược lại, khi NHTƯ muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ
thực hiện nâng lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo
hướng khó khăn hơn.
NHTƯ cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt
lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.
5. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch, mua bán các chứng
khoán của NHTƯ với các đối tác được lựa chọn trên thị trường tiền tệ, ảnh
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 7 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động trực tiếp đến khả
năng cung ứng tín dụng của các NHTM và gián tiếp đến lãi suất thị trường
nhằm điều tiết mức cung tiền thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và
giá.
Khi NHTƯ đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền
mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu
thông giảm, dự trữ của các NHTM giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín
dụng của các NHTM và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt
hơn. Bên cạnh đó, việc NHTƯ bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng
cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng
khoán này sẽ hạ, và do vậy, lãi suất chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng
khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh
trình trạng công chúng khỏi rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng
khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.
Ngược lại khi NHTƯ đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị
trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, đự trữ của các NHTM
tăng lên. Mặt khác, việc NHTƯ mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng
khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng,
dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích
thích doanh nghiệp đi vay, khối tiền tệ tăng lên.
Với cách vận hành như trên, thì nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu
điểm hơn các công cụ khác trong CSTT là: NHTƯ có thể can thiệp chủ động
vào thị trường tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng
của các NHTM. Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức
độ nào. Dễ dàng thay đổi tình thế khi có quyết định sai lầm trong việc sử dụng
công cụ này. Việc thực hiện có thể được tiến hành nhanh chóng ngay trong
phiên giao dịch.
Tuy nhiên, công cụ này còn có mặt hạn chế là tính tự nguyện tham gia
của các đối tác chưa cao.
6. Tỷ giá hối đoái
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 8 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa
hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ
nước này được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt
động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa. Do vậy, tỷ giá hối đoái là
một công cụ để NHTƯ thực thi CSTT của mình. Tuy nhiên, khi vận dụng
công cụ này, NHTƯ không đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà là
ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của quốc gia
trong từng giai đoạn.
Khi vận hành tỷ giá hối đoái, NHTƯ có thể ấn định tỷ giá cố định, hoặc
thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Các
loại tỷ giá như: tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá thả nổi có sự
quản lý của Nhà nước.
Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ
bản. Cụ thể, cung – cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu NHTƯ
ấn định một mức tỷ giá cố định thì tác động đến quy luật cung – cầu trên thị
trường. Còn nếu thả nổi tỷ giá thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế, có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng có thể đưa
nền kinh tế lâm vào trình trạng khoảng hoảng trầm trọng.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ
cung – cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết NHTƯ có thể can thiệp bằng những
biện pháp thích hợp, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quan hệ
cung - cầu ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ giá.
Biện pháp chủ yếu mà các NHTƯ thường dùng để can thiệp vào cung –
cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái.
Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng cao, NHTƯ tung ngoại tệ ra bán, làm
cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, thì tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm,
NHTƯ hút ngoại tệ về bằng cách mua vào, trong khi các yếu tố khác vẫn
không đổi thì tỷ giá sẽ dần tăng lên. Để áp dụng biện pháp này hiệu quả, đòi
hỏi quốc gia phải có khối lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn. Vì vậy, đối với
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 9 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
những nước đang phát triển, chẳng hạn như nước ta thì việc áp dụng công cụ
này có những hạn chế nhất định.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 10 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT
Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. Khái quát chung về quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong
những năm qua
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHTƯ là cực kỳ khó khăn
bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn
trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ
yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dù vậy, về cơ bản, điều
hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng
kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008,
thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn
đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị
trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi
hỏi NHTƯ tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang
tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những
thách thức phải đối mặt.
Năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
chưa từng có trong hơn 20 năm đổi mới. Một năm mà diễn biến kinh tế hàm
chứa cả hai thái cực nóng và lạnh, sự chuyển đổi giữa hai thái cực này cũng
diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6
tháng đầu năm 2008, NHTƯ đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ
và quyết liệt về điều hành CSTT thắt chặt nhằm kìm chế lạm phát có hiệu quả
và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ CSTT được điều hành linh hoạt để hút
tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều
hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. NHTƯ đã tăng cường công tác
thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín
dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống
của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn sự suy
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 11 - Lớp NHA-K3O
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
giảm kinh tế, CSTT thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận
trọng.
Trong năm, NHTƯ đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ
chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/- 0,75% lên +/- 3%; tỷ giá bình quân liên ngân
hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối tháng 12. Bên cạnh đó, đã
thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các giải
pháp điều hành tiền tệ của NHTƯ có thời điểm còn thiếu đồng bộ; thị trường
tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó
khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; chất
lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với
nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác
động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHTƯ đã thực thi CSTT một
cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị
trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư
trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần
của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHTƯ đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ
14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
II. Thực trạng sử dụng các công cụ của CSTT trong những năm qua
Mục tiêu năm 2007 là phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế cao ở mức
8,5%; triển khai điều hành tốt CSTT để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát
lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có
những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ
vỡ trên tổng thể. Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực
tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - 12 - Lớp NHA-K3O