Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

vấn đề điều chỉnh lãi suất tại các ngân hàng thương mại theo quy định của ngân hàng nhà nước trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.58 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG
KHOA KẾ TỐN - TÀI CHÍNH
Tiểu Luận Tài chính Tiền tệ

Tiểu luận
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI: Vấn đề điều chỉnh lãi suất tại các ngân hàng thương mại theo

quy định của ngân hàng nhà nước trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay

Giáo viên hướng dẫn:

Trần Việt Trang

Sinh viên thực hiện:

Lương Đức Thành

Lớp

Tài chính- Ngân hàng K10A

Hải Phòng, tháng 11 năm 2011

1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu:
Như chúng ta đã biết lãi suất là một công cụ quan trọng của thị trường tiền
tệ, là biến số luôn gắn liền với nhịp thở của nền kinh tế và nó được chính phủ sử


dụng làm cơng cụ điều tiết lượng cung ứng tiền tệ. Không những thế, sự thay
đổi của lãi suất có tác động sâu sắc đến các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ
chức tín dụng và tồn bộ nền kinh tế
Vì vậy, lãi suất nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó
là cơng cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do ngân hàng nhà nước
(NHNN) điều hành. Nó có tác động rất lớn đến việc tăng hoặc giảm lượng tiền
lưu thơng, quy mơ tín dụng, quy mơ huy động vốn, kích thích hay hạn chế đầu
tư và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các ngân hàng. Một chính sách lãi
suất đúng đắn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tuy nhiên nếu
áp đặt chính sách lãi suất khơng linh hoạt sẽ gây tác dụng xấu tạo nguy cơ dẫn
đến khủng hoảng kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO đã có khơng ít những
thay đổi sâu sắc, trong đó hệ thống ngân hàng bên cạnh nhưng thách thức
những khó khăn đã đạt được nhiều thành tựu nhất định góp phần vào sự thay
đổi bộ mặt chung của đất nước. Điều này một phần suất phát từ sự đúng đắn
trong quá trình quản lý của các ngân hàng nhưng một phần rất lớn do các chính
sách lãi suất hợp lý trong thời gian qua của NHNN. Tuy nhiên trong bối cảnh
nền kinh tế đất nước còn chưa thực sự bắt nhịp với nền kinh tế thế giới, tiềm lực
của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn chưa đủ mạnh để cạnh tranh trực tiếp với
đối thủ thì việc chú trọng đến vấn đề điều chỉnh lãi suất cho hệ thông ngân hàng
là một yêu cầu tất yếu của NHNN trong thời gian tới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này em xin chọn đề tài “Vấn đề điều chỉnh
lãi suất tại các ngân hàng thương mại theo quy định của ngân hàng nhà
nước trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay” để tìm hiểu về sự điều chỉnh
chính sách lãi suất của NHNN trong thời gian qua và xin đề suất một số giải
pháp nhắm hoàn thiện hơn nữa chính sách lãi suất trong giai đoạn tiếp theo.
2. Mục tiêu
- Về lý luận: tìm hiểu sâu hơn những khái niệm có liên quan đến chính sách
lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Về thực tiễn: Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hồn thiện chính sách

điều chỉnh lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: vấn đề điều chỉnh lãi suất tại các ngân
hàng thương mại theo quy định của ngân hàng nhà nước trong giai đoạn từ năm
2010 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Tính chất lịch sử.
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1 lý luận chung về lãi suất.
2


Chương 2 Thực trạng điều chỉnh lãi suất tại các ngân hàng thương mại theo
quy định của ngân hàng nhà nước từ năm 2010 đến nay.
Chương 3 đánh giá và đề suất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống lãi
suất ở Việt Nam.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô giáo Trần Việt Trang đã giúp đỡ
em hồn thành đề án này. Trong q trình nghiên cứu vấn đề trên, do trình độ
và khả năng cịn hạn hẹp nên bài viết này không thể tránh khỏi những sai sót.
Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, các cơ để hồn thành tốt bài tiểu
luận này.

3


CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1.1 khái niệm lãi suất
Nền kinh tế xã hội loài người đã trải qua một quá trình phát triển đi lên từ
thấp đến cao và trong q trình này ln ln tồn tại hai trạng thái đối lập nhau
của các chủ thể đó là thừa vốn và thiếu vốn. Ở trình độ thấp khi nền kinh tế

hàng hóa chưa có sự phát triển cao, các chủ thể sẽ tìm cách dung hịa hai trạng
thái này một cách trực tiếp. Khi mức độ phân công lao động xã hội ngày càng
cao, nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, xuất hiện trở ngại về khơng gian và
thời gian khiến cho việc tìm đến nhau của các chủ thể trở nên khó khăn dẫn đến
sự ra đời của các tổ chức tín dụng, những người có nhiệm vụ dung hịa nhu cầu
vốn của các chủ thể
Như vậy, nhờ có hoạt động tín dụng mà có một bộ phận lớn nguồn vốn trong
nền kinh tế được huy động, tập trung và phân phối từ nơi tạm thời dư thừa sang
nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.
Cơng cụ của hoạt động tín dụng là lãi suất. Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa
tiền lãi (hay chi phí phải trả) trên một lượng tiền nhất định để được sở hữu và
sử dụng lượng tiền ấy trong khoảng thời gian đã thoả thuận trước. Như vậy, lãi
suất chính là giá cả trả cho việc sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín
dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan đến
gửi tiền và vay tiền.
1.2 Phân loại lãi suất
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng : lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành ba
loại đó là.
+ Lãi suất tín dụng ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn
+ Lãi suất tín dụng trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn
+ Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
- Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất : thì lãi suất được chia thành :
+ Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi lên xuống.
+ Lãi suất cố định là lãi suất được áp dụng trong suốt thời hạn tín dụng.
- Căn cứ vào các quan hệ điều tiết vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
: lãi suất được chia thành nhiều loại khác nhau :
+ Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, lãi suất này có nhiều
mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi.
+ Lãi suất tiền vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng, nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà

khách hàng phải trả cho ngân hàng.
+ Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết
khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh tốn của
khách hàng, nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và được khấu trừ ngay khi
ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng tái cấp vốn cho các ngân
hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn
4


hạn chưa đến hạn thanh tốn của ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ %
trên mệnh giá của các giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTƯ
cấp tiền vay cho ngân hàng thương mại (NHTM ).
+ Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau
vay trên thị trường liên ngân hàng, nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu
tiền của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối của lãi suất tái cấp vốn của
NHTƯ.
+ Lãi suất cơ bản là lãi suất được các NHTM sử dụng làm cơ sở để ấn định
mức lãi suất kinh doanh của mình.
- Căn cứ vào giá trị thực của lãi xuất : lãi suất được chia thành hai loại :
+ Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa thường được cơng bố chính thức trong các quan hệ tín
dụng, trên các phương tiên thơng tin đại chúng.
+ Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi dự tính về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được khái quát thành
phương trình sau đây:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
hay

Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.
Vì được điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát nên lãi suất
thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật
của việc cho vay.
1.3 Vai trò và tác động của lãi suất trong nền kinh tế.
- Lãi suất đối với quá trình huy động vốn :
lãi suất là giá cả trả cho việc sử dụng vốn cho nên nó có tác động trực tiếp
đến quá trình huy động vốn. Đây là mối quan hệ tỷ lệ thuận, cụ thể nếu duy trì
một chính sách lãi suất cao có thể huy động lượng vốn lớn. Thực tiễn con
đường phát triển của các nước đi trước đã chứng minh vốn là nhân tố quan
trọng đóng góp vào sự phát triển của một quốc gia. Vì vậy chính sách lãi suất
có vai trị hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội và các tổ chức kinh tế phải đảm bảo đúng định hướng vốn cho công cuộc
kiến thiết đất nước, đặc biệt nguồn vốn nước ngoài là một bộ phận quan trọng
trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi
suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm
bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Bởi lẽ trong nền kinh tế luôn
tồn tại một tỷ lệ lạm phát nhất định khiến cho giá trị của tiền tệ giảm theo thời
gian Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận
bình quân.
+ Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).
- Lãi suất đối với quá trình đầu tư.
5


Lãi suất có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp bởi lẽ
trong cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp có một phần vốn đi vay. Cụ thể Nếu
lãi suất của tiền vay lớn sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu lãi suất xuống thấp sẽ là cơ hội để doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Vì vậy

trong quá trình dự tính đầu tư các doanh nghiệp thường dùng lãi suất để đưa ra
quyết định của mình có nên đầu tư không hay dùng tiền để gửi vào ngân hàng
kiếm khoản lời phi rủi ro. Ở đây lãi suất và đẩu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch với
nhau cho nên những thay đổi của lãi suất sẽ ảnh hưởng một cách trực tiếp đến
quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
- Lãi suất đối với tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu
dùng và tiết kiệm.Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu
nhập, vấn đề hàng hố lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm
trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp chi
phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá
nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiều để
dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
- Đối với tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối cũng là một nhân tố chịu tác động của chính sách lãi suất. Nếu
thực hiện một chính sách lãi suất cao đối với đồng nội tệ sẽ thu hút dịng tiền
trong lưu thơng vào hệ thống các ngân hàng từ đó làm cho tỷ giá của đồng nội
tệ tăng. Đây là mối quan hệ tỷ lệ thuận. Mối quan hệ này được thể hiện thông
qua đồ thị sau :

i2
i1
Tỷ giá 1

Tỷ giá 2

Tỷ giá

Ta có : i1 < i2 và tỷ giá 1 < tỷ giá 2
Khi lãi suất ở mức “i1’ thì sẽ tác động lãi tỷ giá ở mức “tỷ giá 1”

Khi lãi suất ở mức “i2” thì sẽ tác động lãi tỷ giá ở mức “tỷ giá 2”
Ta thấy mối quan hệ này là tỷ lệ thuận khi i tăng thì tác động làm tỷ giá tăng
- Lãi suất đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
hoạt động xuất nhập khẩu chịu tác động gián tiếp của lãi suất thơng qua tỷ
giá hối đối. Biểu hiện của sự tác động này là khi lãi suất tăng làm cho tỷ giá
6


tăng đấy giá cả trong nước cao hơn so với giá cả của hàng hóa nước ngồi, vì
vậy làm giảm xuất khẩu ròng.
Và ngược lại nếu lãi suất giảm sẽ làm cho tỷ giá giảm và làm tăng xuất khẩu
ròng.
Mối quan hệ này được biểu hiện thông qua đồ thị sau :
Lãi suất

i2
i1
NX 1

NX2

Xuất khẩu ròng

- Lãi suất với lạm phát.
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm
phát. Nhà kinh tế học Fishes đã chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm
phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát cụ thể tăng lãi suất,
thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kìm chế
Tuy nhiên, dùng lãi suất để chống lạm phát khơng thể duy trì lâu dài vì nó sẽ
làm giảm đầu tư, tổng cầu, sản lượng trong dài hạn. Do vậy phải kết hợp nó

với các cơng cụ khác.
- Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực.
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ
và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị
trường cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các
nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả,
nghĩa là lãi suất có vai trị phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã
hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế một dự án hay một tài sản nào
đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu
được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem việc đầu tư này có
mang lại lợi nhuận hay khơng và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản
tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay khơng. Khi quyết định đầu tư
vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản ta phải quan tâm tới chênh
lệch giữa lợi nhuận đem lại và số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch này là
dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự phân bổ hiệu quả.
- Lãi suất đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính với
nghiệp vụ chính là đi vay và cho vay vậy nên chính sách lãi suất có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan
7


trọng thúc đẩy sản xuất lưu thơng hàng hố phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi
suất Ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước vừa là công cụ điều
hành vi mô của các NHTM.
Bởi lẽ thế, khi huy động tiền gửi với lãi suất thấp thì khơng khuyến khích
doanh nghiệp và dân cư gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng và dẫn đến hậu quả là
NHTM không đủ vốn để cho vay đáp ứng yêu cầu vay vốn của khách hàng.
Đây là nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng ở nhiều nước trên thế giới
hiện nay. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh

doanh khơng có lãi hoặc lãi q thấp sẽ thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động
để gửi vốn vào ngân hàng. Hoạt động này có ảnh hưởng xấu đến tổng sản lượng
của nền kinh tế trong tương lai cũng như gánh nặng về lãi suất đối với các ngân
hàng.
1.4 Các nhân tố tác động đến lãi suất
* Chính sách tiền tệ.
Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến lãi suất trên thị trường. Bên cạnh
việc quy định chính sánh lãi suất cho hoạt động của các ngân hàng thương mại,
Chính sách tiền tệ của chính phủ được ban hành cịn nhằm mục đích kiểm sốt
lượng cung ứng tiền tệ và kiềm chế lạm phát trong khoảng lạm phát dự tính. Mà
hai chỉ tiêu trên là hai nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi lãi suất thực tế
trên thị trường nên vì vậy cho nên chính sách tiền tệ là yếu tố tác động mạnh mẽ
đến sự thay đổi của lãi suất.
* Ảnh hưởng của sự thay đổi của tổng cầu(GNP).
Khi GNP tăng lên, nền kinh tế đòi hỏi phải tăng khối tiền cung ứng( nếu tốc
độ lưu thông tiền tệ không thay đổi) để đảm bảo cung cầu tương ứng. Nếu trong
điều kiện đó, khối lượng cung ứng tiền(M1 hoặc M2) tăng quá cầu thì MV>PQ,
cung vốn đầu tư lớn hơn cầu vốn đầu tư làm cho lãi suất giảm. Ngược lại, khi
GNP giảm thì khối lượng tiền cung ứng thực tế cũng giảm theo, nếu tốc độ lưu
thông tiền tệ không thay đổi mà giảm khối cung ứng tiền tệ xuống quá thấp sẽ
đưa đến tình trạng MVthì lãi suất sẽ tăng.
* Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng:
Khi chính phủ đưa ra mức lạm phát dự tính của nền kinh tế, lãi suất sẽ có xu
hướng tăng. Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực khơng đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi
suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Mặt khác, khi xuất hiện tỷ lệ lạm phát
nó sẽ tác động trực tiếp vào tâm lý công chúng. Lạm phát tăng sẽ làm cho giá trị
thực của đồng nội tệ giảm. Người dân thay vì cất giữ đồng nội tệ sẽ dành phần
tiết kiệm của mình cho việc dự trữ các loại hàng hoá hoặc những dạng thức phi

tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể.
Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất
trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng
trưởng của nền kinh tế.
8


* Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hàng hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng đặt mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu chung hàng đầu của mình. Vì vậy cho
nên tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất của
các khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ
các dự án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn
chính sách lãi suất phù hợp của chính phủ sẽ phải dựa trên cơ sở ước lượng tỷ
suất lợi tức trung bình của nền kinh tế.
* Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư.
Trong thực tế khi nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng sẽ hút lượng tiền
trong hệ thống ngân hàng ra thị trường. Thực chất của hoạt động này chính là
cầu về tiền tăng lên làm cho giá cả của việc đi vay tăng lên, giá cả của việc đi
vay chính là lãi suất. Và ngược lại khi nhu cầu này giảm đi thì sẽ làm giảm lãi
suất. Cũng tương tự như vậy, khi nhu cầu về đầu tư tăng, người ta đổ xô vào
đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận thì nhu cầu về tiền, tài sản là rất lớn sẽ dẫn
tới lãi suất tăng.
* Ảnh hưởng từ sự thay đổi tỷ giá hối đoái
Tỷ giá cũng là nhân tố tác động đến sự thay đổi của lãi suất. Ở đây ta đang
xét đến chính sách quy định tỷ giá hối đối của chính phủ. Khi tỷ giá tăng làm
cho giá trị của đồng nội tệ giảm, tức là giá cả của hàng hóa mua được trong
nước so với nước ngồi sẽ tăng lên. Tác động này làm cho tăng suất khẩu thu
hút lượng ngoại tệ lớn. Cung ngoại tệ tăng tác động trở lại làm cầu nội tệ tăng

từ đó làm lãi suấtt tăng lên.

9


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT TẠI CÁC
NHTM THEO QUY ĐỊNH CỦA NHNN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY
2.1 Thực trạng điều chỉnh lãi suất.
2.1.1 Giai đoạn sáu tháng đầu năm 2010.
* những định hướng của chính phủ giai đoạn sáu tháng đầu năm 2010.
Sau nhiều năm đổi mới hoạt động và liên tục đổi mới cơ chế điều hành lãi
suất tuy còn nhiều những sự bất hợp lý nhưng về cơ bản chính phủ đã thực hiện
tốt vai trị trong cơng tác quản lý nền kinh tế. Và trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam đang hội nhập rất sâu vào nền kinh tế thế giới trong giai đoạn này thì
việc ban hành một chính sách lãi suất hợp lý là điều rất cần thiết. Cụ thể trong
giai đoạn này các mức lãi suất chủ yếu như : lãi suất cơ bản bằng Việt Nam
đồng, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, Lãi suất cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán
bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng đều được quy
định một cách cụ thể, trong khi đó lãi suất tiền gửi bằng đơ la Mỹ được thực
hiện theo cơ chế thỏa thuận. số liệu cụ thể như sau :
STT
1
2
3
4
5

Lãi suất
Lãi suất cơ bản bằng Việt nam đồng

Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng
Lãi suất tiền gửi bằng Đô la Mỹ

Số liệu
8,0%/năm
: 8,0%/năm
6,0%/năm
8,0%/năm

theo cơ chế thoả
thuận

* thực trạng điều chỉnh lãi suất giai đoạn sáu tháng đầu năm 2010.
Trong khi đó chỉ số CPI tháng 01/2010 tăng 1,36% và tháng 02/2010 tăng
1,96% đã tác động đến tâm lý thị trường nên mặt bằng lãi suất huy động VND
trong Quý I/2010 có xu hướng tăng, lãi suất cho vay VND thực tế ở mức khá
cao. Tác động không nhỏ đến tâm lý người dân và các doanh nghiệp đây là tác
động mang tính hệ thống. Nó có tác động khơng nhỏ đến thị trường tài chính
việt Nam. Việc thực hiện một loại các giải pháp về lãi suất trong giai đoạn này
của ngân hàng trung ương được xem là rất cần thiết. Theo nhận định của các
chuyên gia kinh tế, đây là những biện pháp đồng bộ, quyết liệt từ phía NHTƯ
nhằm ổn định và giảm mặt bằng lãi suất.
Lãi suất huy động và cho vay VND từ đầu tháng 4/2010 đã giảm, tuy mức
giảm chưa mạnh vì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu tăng trưởng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên tác động tích cực của nó
khơng hề nhỏ :

+ Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế của 4 ngân hàng thương mại
nhà nước và 7 ngân hàng thương mại cổ phần có quy mơ lớn khoảng 13,3%;
10


Lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu
ở mức 12,5% - 13%/năm, cho vay trung và dài hạn khoảng 14%/năm (tương
ứng với lãi suất cùng kỳ năm 2006, 2007)
+ Lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng giảm
1,3 - 3,5%/năm và duy trì ở mức 0,2 - 1%/năm; lãi suất tiền gửi USD của dân
cư và lãi suất cho vay USD tăng nhẹ so với cuối năm 2009.
+ Từ đầu năm 2010, nguồn cung ngoại tệ trên thị trường đã được cải thiện
đáng kể. Từ giữa tháng 4/2010, cung - cầu ngoại tệ đã trở lại cân bằng, tính
thanh khoản của thị trường ở mức cao, các tổ chức tín dụng tự cân đối được
ngoại tệ và khơng có nhu cầu mua ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước, nhiều tổ
chức tín dụng do lượng ngoại tệ mua được từ khách hàng tăng lên đã tiếp tục
bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước.
+ Nhờ những diễn biến tích cực của thị trường ngoại hối, tỷ giá giao dịch
USD/VND của các ngân hàng thương mại từ tháng 4/2010 luôn thấp hơn trần
cho phép, tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do xoay quanh tỷ giá giao dịch
của các ngân hàng thương mại. Giá vàng trong nước diễn biến phù hợp với giá
vàng thế giới, có thời điểm giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới.
+ Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng huy động vốn và dư nợ tín
dụng tăng dần, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm
phát. So với cuối năm 2009, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước
tăng 10,82%, dư nợ tín dụng ước tăng 10,52%.
2.1.2 Giai đoạn sáu tháng cuối năm 2010
* những định hướng của chính phủ giai đoạn sáu tháng cuối năm 2010
Định hướng của chính phủ trong giai đoạn này là điều tiết mặt bằng lãi suất
thị trường theo hướng giảm dần, ổn định các mức lãi suất cơ bản và lãi suất tái

cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất hoán đổi ngoại tệ; Tăng thêm khối lượng
vốn giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở với kỳ hạn và lãi suất hợp lý, Tiếp
tục cho vay tái cấp vốn để hỗ trợ các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng
đối với nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Phối
hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam thúc đẩy các ngân hàng thương mại thực
hiện đồng thuận về lãi suất huy động và cho vay theo hướng giảm, phù hợp với
chỉ đạo của Chính phủ.
Để thực hiện mục tiêu này chính phủ đã có những chính sách cụ thể thông
qua một loại các quy định như quyết định số 1311/QĐ-NHNN ngày 31 tháng
05 năm 2010, số 1565/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 06 năm 2010, số 2281/QĐNHNN ngày 27 tháng 09 năm 2010, số 2281/QĐ-NHNN, số 2561/QĐ-NHNN
ngày 27 tháng 10 năm 2010, số 2619/QĐ-NHNN ngày 05 tháng 11 năm 2010,
số 2868/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 11 năm 2010
Thơng qua đó lãi suất cơ bản bằng Việt Nam đồng được duy trì ở mức
8,0%/năm, những tháng cuối năm 2010 được điều chỉnh lên mức 9,0%/năm.
Các loại lãi suất khác cũng được quy định một cách cụ thể.

11


STT

Lãi suất

Giai đoạn
trước ngày 05
tháng 11 năm
2010

Giai đoạn
sau ngày 05

tháng 11 năm
2010

1

Lãi suất cơ bản bằng Việt nam đồng

8,0%/năm.

9,0%/năm.

2

Lãi suất tái cấp vốn

: 8,0%/năm

: 9,0%/năm

3

Lãi suất tái chiết khấu

6,0%/năm

: 7,0%/năm.

: 8,0%/năm.

9,0%/năm


1,0%/năm

1,0%/năm

4

5

Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu
hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đối với các ngân hàng
Lãi suất tiền gửi bằng Đô la Mỹ

Trong nửa cuối năm 2010, NHNN đã ban hành thông tư số 03/2010/TTNHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép
TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thoả thuận. Tuy
nhiên, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi
chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mơ của
Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều
hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN. Bên cạnh đó trước sức ép của lạm
phát gia tăng vào giai đoạn cuối năm đã buộc chính phủ phải đấy lãi suất cơ bản
từ mức 8,0% lên mức 9,0%/năm
* Thực trạng điều chỉnh lãi suất giai đoạn sáu tháng cuối năm 2010
Trong giai đoạn này, tuy chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp với mục
đích ổn định thị trường tài chính nhưng lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến
động theo chiều hướng gia tăng, cả lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay.
Lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ 11 - 11,5%/năm lên đến trên 17%/năm ở
một số NHTM đối với một số kỳ hạn ngắn, đồng thời lãi suất cho vay VND
cũng “leo thang” từ 13-14%/năm lên tới 19 - 21%/năm tùy từng loại khoản vay.

Một mặt, khơng ít NHTM đua nhau áp dụng các hình thức hấp dẫn để thu hút
tiền gửi tiết kiệm, mặt khác, một số không nhỏ NHTM lại dừng cho vay ra
trong bối cảnh thị trường liên ngân hàng lại “lặng sóng” với lãi suất giao dịch
thấp và hạn mức tín dụng của nhiều NHTM đã hết khi tổng tín dụng ngân hàng
cho nền kinh tế có thể đã tăng vượt mục tiêu 25% cho cả năm ngay từ tháng 11.
Hơn nữa, tốc độ cho vay bằng ngoại tệ đã lớn hơn rất nhiều tốc độ cho vay bằng
VND.
* Nhận xét chung về tình hình thực hiện chính sách lãi suất trong năm
2010 của hệ thống NHTM :
 Lãi suất thị trường vẫn ở mức cao đặc biệt là giai đoạn cuối năm :
12


- Đối với lãi suất huy động VND: Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi
suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ
bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II,
quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng
12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm
2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai
mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng
bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến
mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng
thưởng được xem là hình thức cạnh tranh khơng lành mạnh, các NHTM đã từng
bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng
12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh
ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho
vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận vì vậy đến
tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị
trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm

lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất
của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với
vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc
tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu
năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở
mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10.
Cho đến ngày 15/10/201, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải
thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay
vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân
hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 –
11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi
suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi
NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy
động mới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có
thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%.
Trước tình trạng leo thang khó có điểm dừng của lãi suất huy động dưới
nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các ngân hàng giảm
mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình
thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân
hàng được áp dụng lãi suất thoả thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất,
NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính. Mặt bằng lãi suất huy
động trung bình một số thời điểm năm 2010 như sau:

13


Đối với lãi suất ngoại tệ: Lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong
năm 2010 tiếp tục tăng nhẹ qua tất cả các tháng (tính đến cuối tháng 12, lãi suất

huy động USD tăng khoảng 0,82 – 1,36% cho các kỳ hạn so với đầu tháng
1/2010).

14


Lãi suất huy động USD một số kỳ hạn tại một số thời điểm năm 2010 (đơn
vị: %)

Như vậy, có thể thấy rằng, mặt bằng lãi suất huy động chịu sức ép tăng trong
năm do một số nguyên nhân chính: Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu sức
ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm
2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8, các
tháng còn lại biến động tăng cao đã ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu kinh tế vĩ
mơ của Chính phủ và các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN);
Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của
người dân. Mặc dù mặt bằng lãi suất có nhiều biến động nhưng vẫn đảm bảo
được lợi ích của người tiền trong bối cảnh lạm phát gia tăng vào cuối năm, vì
vậy tốc động huy động vốn trong năm 2010 đã được cải thiện rõ rệt so với
những năm trước.

15


Lãi suất cho vay tuy đã có sự điều chỉnh giảm ở một số lĩnh vực, ngành
nghề, nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao.
Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể hiện hai điểm nóng là trong những
tháng đầu năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất thoả thuận theo Thơng tư số
07/2010/TT-NHNN) và hai tháng cuối năm thì lãi suất cho vay ở mức khá cao

(khoảng 14,5 – 18%).

Các tháng giữa năm, bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị
Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương
hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12% và điều
hành tỷ giá ở mức hợp lý. Tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thơng qua việc
tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Để thực hiện nhiệm
vụ này, NHNN đã tích cực hỗ trợ vốn cho các NHTM thông qua hoạt động của
thị trường mở và thị trường liên ngân hàng nên mặt bằng lãi suất cho vay VND
có xu hướng giảm dần (giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành nghề kinh
doanh có mức giảm lớn hơn (giảm 2 - 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất
nông – lâm – ngư nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí sản xuất của doanh
nghiệp nhỏ và vừa... Tuy nhiên, trước những diễn biến không thuận lợi của kinh
tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất đã tăng cao trở lại trong hai tháng cuối năm, giao
động trong khoảng 13,5 – 18,5%.
Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một
số điểm đáng chú ý như sau:
+ Diễn biến của lãi suất đi theo đúng kịch bản của năm 2009: lãi suất điều
hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm
kiếm chế lạm phát.
+ Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt các tháng
cuối năm.
+ Khơng cịn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn, thậm
chí những tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn.
+ TCTD tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp nhằm hợp lý hố các chi phí
phục vụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng thơng qua các
chương trình khuyến mại, các loại phí...
Vấn đề cần đặt ra cho nền kinh tế trong năm 2011, cũng như một số năm
tiếp theo là giải quyết được những tồn tại nêu trên. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu
quả các giải pháp thì việc bám sát mục tiêu, định hướng vĩ mơ của Quốc hội,

Chính phủ, NHNN... và sự tham gia phối hợp của các bộ ngành có liên quan là
16


rất cần thiết, qua đó sẽ từng bước xử lý được những vướng mắc, tồn tại của năm
2010.
2.1.3 Giai đoạn năm 2011
* Những định hướng của chính phủ trong giai đoạn năm 2011
Với định hướng ưu tiên ổn định vĩ mơ, NHNN đã đưa ra mục tiêu tăng
trưởng tín dụng cho năm 2011 là 23%. Đây cũng là thông điệp cho thấy NHNN
sẽ quản lý chặt tăng trưởng tín dụng. Cùng với các biện pháp đồng bộ nhằm
nâng cao chất lượng hệ thống, kiểm sốt rủi ro, có thể kỳ vọng hệ thống ngân
hàng sẽ dần tăng cường về chất lượng. Cùng mục tiêu kiểm soát lạm phát, kỳ
vọng mặt bằng lãi suất sẽ được giữ ổn định và từng bước hạ trong năm 2011.
Lạm phát tại Việt Nam nằm nhiều ở yếu tố đầu tư công chưa hiệu quả, và nội
tại cơ cấu nền kinh tế còn bất hợp lý. Vì vậy, để tận dụng được những cơ hội
phục hồi sau khủng hoảng chúng ta cần thiết phải có một chính sách tiền tệ cởi
mở hơn nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, điều hành lãi suất sẽ diễn ra một cách thận trọng chứ khơng thể nhanh
chóng nới lỏng.
Luật Ngân hàng mới bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2011 sẽ có nhiều quy định
mới, trong đó quan trọng nhất là quy định về lãi suất: tách lãi suất điều hành
chính sách tiền tệ và lãi suất làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp và chống
cho vay nặng lãi. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm
lãi suất cơ bản theo hướng không công bố “trước” lãi suất cơ bản để định hướng
lãi suất thị trường mà thực hiện cơ chế công bố “sau” về lãi suất đã được hình
thành trên thị trường của các tổ chức tín dụng để làm cơ sở cho việc phòng,
chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Như vậy, cơ chế điều hành lãi suất đã
mang tính thị trường hơn, hạn chế được sự áp đặt mang tính hành chính, ép lãi
suất phải gị bó theo mục tiêu kiềm chế lạm phát như đã thực hiện một cách giật

cục trong năm 2010. Từ đó, các NHTM cũng chủ động hơn trong việc điều
chỉnh lãi suất sát với thực tế thị trường, các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong
việc cân đối nguồn vốn và tiếp cận với vốn ngân hàng.
Để thực hiện những mục tiêu đã đặt ra, trong năm 2011 ngân hàng nhà
nước đã đưa ra những quy định về lãi suất rất cụ thể :
NHNN ban hành thơng tư Số: 02/2011/TT-NHNN quy định : Tổ chức
tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi;
lãi suất chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu) dưới mọi hình thức
khơng vượt q 14%/năm; các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất
huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Áp dụng đối
với phương thức trả lãi cuối kỳ; đối với các phương thức trả lãi khác, phải được
quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động
vốn tối đa.
Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1
tháng là 6%/năm.

17


Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là
14%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối
với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 14,5%/năm.
Với mức lãi suất này nhìn chung đã giảm so với những tháng cuối năm
2010 đây là dấu hiệu tích cực của chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô
liềm chế lạm phát.
* Tình hình thực hiện chính sách lãi suất trong năm 2011 của hệ thống
NHTM :
Trong những tháng đầu năm tình hình thực hiện lãi suất tại hệ thống
ngân hàng như sau :
Về lãi suất huy động và lãi suất cho vay:

- Lãi suất VND:
+ lãi suất huy động phổ biến ở mức 13,5-14%/năm và hầu hết các TCTD
không khuyến mại bằng tiền mặt và lãi suất.
+ Lãi suất cho vay ngắn hạn nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu ở mức 12,514,5%/năm; đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác 15-18%/năm; đối
với lĩnh vực phi sản xuất 18-20%/năm.
- Lãi suất USD : Lãi suất huy động tiết kiệm không kỳ hạn 0,2-0,5%/năm, dưới
12 tháng 3,5-5,2%/năm, trên 12 tháng 4,2-5,6%; lãi suất cho vay phổ biến ở mức
5,5-6,5%/năm đối với ngắn hạn, 6-8%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất huy động niêm yết và cho vay phục vụ sản xuất - kinh doanh của
các Ngân hàng thương mại phổ biến ở mức:
Đơn vị: %/năm
Lãi suất
huy động
niêm yết

Loại tiền
VND

Nhóm
NHTMNN

USD
(áp dụng đối với
TCKT)
USD
(áp dụng đ/v cá nhân)
VND

Nhóm
NHTMCP


USD
(áp dụng đối với
TCKT)
USD
(áp dụng đ/v cá nhân)

1
Không
tháng trở
kỳ hạn
xuống

3
tháng

6
tháng

12
tháng

2,4–3,0

10-14

13,514

13,514


13,514

0,2-0,3

1,0

1,0

1,0

1,0

0,2-0,3

3,5-3,7

2,4-4,2

12-14

3,73,9
13,514

4,04,5
13,514

0,2-0,5

1,0


1,0

1,0

0,25-1,0

3,6-4,2

3,95,0

4,05,1

Lãi suất
cho vay phục
Loại tiền
vụ SX – KD
Nhóm
- VND áp dụng đ/v sản
NHTMNN xuất kinh doanh thông
thường

4,4-4,8
13,514
1,0
4,2-5,2

Ngắn hạn
14-15

18


15,5-17

12,5-14,5

- VND áp dụng đ/v
nông nghiệp, nông thôn và
xuất khẩu

Trung, dài hạn

15-16


USD
- VND áp dụng đ/v sản
xuất kinh doanh thơng
thường
Nhóm
NHTMCP

5,5-6,0
15-16

- VND áp dụng đ/v
nông nghiệp, nông thôn và
xuất khẩu
USD

6,0-7,0


14-15

17-18

16-17
5,5-6,5

6,5-8,0

Về lãi suất bình quân liên ngân hàng:
- Đối với các giao dịch bằng VND: Lãi suất giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng bằng VND kỳ này có xu hướng giảm nhẹ ở một số kỳ
hạn (1 tuần, 6 tháng, 12 tháng và không kỳ hạn). Mức giảm của các kỳ hạn
tương đối nhỏ, từ 0,01% đến 0,60%/năm. Lãi suất bình qn các kỳ hạn 1 tháng
và 3 tháng khơng đổi so với kỳ trước; lãi suất bình quân các kỳ hạn qua đêm, 2
tuần tăng so với kỳ trước lần lượt là 0,06% và 0,07%/năm.
Lãi suất bình quân qua đêm tuần này ở mức 10,56%/năm, tăng 0,06% so với
kỳ trước. Lãi suất các kỳ hạn từ 2 tuần đến 3 tháng khá cao, trên 13%/năm
trong khi lãi suất bình quân các kỳ hạn dài (6 tháng, 12 tháng) đã giảm xuống
mức 12,81% -12,88%/năm. Lãi suất cho vay, gửi tiền cao nhất trong tuần là
14,5%, lãi suất thấp nhất là 5%/năm (không kể lãi suất không kỳ hạn).
- Đối với các giao dịch bằng USD : lãi suất bình quân các kỳ hạn qua đêm, 1
tháng, 12 tháng tuần này có xu hướng tăng; lãi suất bình qn các kỳ hạn 2 tuần
và 6 tháng có xu hướng giảm; lãi suất bình qn kỳ hạn 1 tuần khơng đổi. Lãi
suất bình quân qua đêm ở mức 0,50%/năm; lãi suất bình quân các kỳ hạn còn
lại dao động từ 0,69% đến 4,36%/năm.
Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần qua cụ thể như sau:
Kỳ hạn
VND

USD

Qua
đêm

1
tuần

2
tuần

1
tháng

3
tháng

10,56

12,70

13,37

13,19

13,4
1

0,50


0,69

0,76

1,68

1,92

6
tháng

Đơn vị: %/năm
12
KKH
tháng

12,88

12,81

2,06

1,26

4,36

-

Trong những tháng cuối năm tình hình thực hiện lãi suất tại hệ thống
ngân hàng như sau :

Về lãi suất:
- Lãi suất huy động:
+ Lãi suất huy động VND ít biến động, các TCTD huy động với mức lãi
suất phổ biến sát 6%/năm đối với tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1
tháng, 14%/năm ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên.
+ Lãi suất huy động USD phổ biến 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và
0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế.
- Lãi suất cho vay:
19


+ Lãi suất cho vay VND tiếp tục ổn định. Hiện lãi suất cho vay đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 17-19%/năm; lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh khác phổ biến ở mức 18-21%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản
xuất 22-25%/năm. Riêng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày
18/10/2011 điều chỉnh giảm lãi suất cho vay 1-2%/năm, cụ thể là cho vay sản xuất
kinh doanh thông thường tối đa 17%/năm, cho vay xuất khẩu tối đa 15,7%/năm,
cho vay nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho vay khắc phục bão
lụt tối đa 15%/năm.
+ Lãi suất cho vay USD: Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối
với ngắn hạn; 7,5-8%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất cho vay phổ biến của TCTD đối với khách hàng cụ thể như sau:
Đơn vị: %/năm
Nhóm NHTM
NHTM
Nhà nước
NHTM
Nhà nước

NHTM
cổ phần


Đối tượng

Ngắn hạn
- Phổ biến: 18-19
- Thấp nhất: 17
- Phổ biến: 16,5-17
- Thấp nhất: 15
6,0-6,5

VND:
- Sản xuất kinh doanh
thông thường
- Nông nghiệp, nông
thôn và xuất khẩu
USD
VND:
- Sản xuất kinh doanh
thông thường
- Nông nghiệp, nông
thôn và xuất khẩu
USD

Trung, dài hạn
18,5-19

- Phổ biến: 18-19
- Thấp nhất: 17
- Phổ biến: 17-19
- Thấp nhất: 16

6,0-7,5

17-18
6,5-7,0
19-21

18-20
7,5-8,0

Về doanh số giao dịch liên ngân hàng:
Theo báo cáo của các TCTD, tính đến ngày 19/10, tổng doanh số giao dịch
trên thị trường liên ngân hàng trong kỳ bằng VND đạt xấp xỉ 165.553 tỷ đồng,
bình quân đạt khoảng 33.110 tỷ đồng/ngày; bằng USD quy ra VND đạt 129.328
tỷ đồng, bình quân đạt khoảng 25.866 tỷ đồng/ngày.
Trong tuần, các giao dịch VND tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn với
doanh số qua đêm chiếm 42% tổng doanh số; tổng doanh số 1 tuần và 2 tuần
chiếm 37% tổng doanh số. Các giao dịch bằng USD vẫn chủ yếu tập trung vào
kỳ hạn qua đêm, với doanh số kỳ hạn này chiếm 63% tổng doanh số.
Về lãi suất bình quân liên ngân hàng:
Lãi suất bình quân liên ngân hàng đến ngày 19/10 cụ thể như sau:
- Đối với các giao dịch bằng VND: Lãi suất giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng bằng VND có xu hướng tăng đối với tất cả các kỳ hạn;
với các mức tăng từ 0,20% đến 2,97%. Trong đó tăng mạnh nhất thuộc về kỳ
hạn 12 tháng và 6 tháng, lần lượt tăng 2,97% và 2,03% so với kỳ trước.

20


Lãi suất bình quân qua đêm tuần này ở mức 13,98%/năm, tăng 1% so với
mức bình quân tuần trước. Lãi suất bình qn các kỳ hạn cịn lại dao động từ

13,22% đến 16,47%; trong đó lãi suất bình qn cao nhất rơi vào các kỳ hạn 6
tháng, 12 tháng và trên 12 tháng (lần lượt ở mức 15,81%; 16,47% và 15,99%).
Kỳ này, các kỳ hạn đều rải rác xuất hiện các mức lãi suất cao như 15%,
16%. Đặc biệt, đối với kỳ hạn 6 tháng, các ngày từ 14/10 đến ngày 19/10 lãi
suất giao dịch bình quân đều ở mức từ 15,18% đến 17,06%. Kỳ hạn 12 tháng
xuất hiện lãi suất giao dịch bình quân cao ở các ngày 17 và 18/10, lên tới trên
20,5%. Lãi suất giao dịch bình quân của kỳ hạn trên 12 tháng ngày 18/10 cũng
lên tới 23%.
- Đối với các giao dịch bằng USD: Lãi suất giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng bằng USD tuần này cũng có xu hướng tăng đối với hầu
hết các kỳ hạn; với các mức tăng từ 0,01% đến 0,58%. Riêng kỳ hạn 6 tháng lãi
suất giảm 0,03% so với bình quân kỳ trước.
Lãi suất bình quân qua đêm ở mức 0,63%/năm, tăng 0,05%/năm so với tuần
trước; lãi suất bình qn các kỳ hạn cịn lại dao động từ 1,37% đến 3,11%/năm.
Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần qua cụ thể như sau:
Kỳ hạn
VND
USD
Kỳ
hạn
VND
USD

Qua đêm

13,83
2,11

2 tuần


13,98
0,63

1 tháng

1 tuần
14,55
1,97

Đơn vị: %/năm
3 tuần

14,28
1,77

2
tháng
13,37
1,64

3 tháng

6 tháng

9 tháng

13,22
3,11

15,81

2,65

14,16
-

13,45
1,37

12
tháng
16,47
-

Trên
12 tháng
15,99
2,62

2.2 Nguyên nhân điều chỉnh lãi suất.
2.2.1 Trong giai đoạn năm 2010.
Có nhiều lý giải khác nhau về tình trạng lãi suất tăng cao trong giai đoạn
này:
+ Lãi suất tăng do lạm phát tăng : khi CPI đến tháng 11/2010 đã tăng tới
9,6% so với cuối năm trước và tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2009. Theo đó,
đầu tháng 11/2010, NHNN phải tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% sau khi đã cố
định nó suốt từ tháng 12/2009 với kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm
sốt lạm phát.
+ Mặt khác, tín hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ phát ra dường như chưa đủ
mạnh và rõ ràng, tín hiệu này lại phát ra đúng vào thời điểm cầu tín dụng tăng
mạnh theo tính “mùa vụ” của sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản

xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế ,
tăng tín dụng ngân hàng cả năm cơ bản đã hết.

21


+ Hơn nữa, tính thanh khoản của các NHTM nước ta khơng tương đồng,
thậm chí rất khác nhau nên các NHTM có thanh khoản khơng tốt (thường là
NHTM qui mơ nhỏ và trung bình) buộc phải đẩy lãi suất huy động lên khi giảm
sự trông cậy vào thị trường liên ngân hàng, do đó, kéo theo các NHTM có thanh
khoản tốt hơn vào cuộc đua lãi suất.
+ Bên cạnh đó, biến động liên tục của thị trường nguyên nhiên vật liệu cơ
bản, của thị trường tài chính tiền tệ quốc tế càng làm cho việc kiểm sốt lạm
phát nói chung và ổn định lãi suất nói riêng của hệ thống thêm khó khăn.
+ Tỷ giá hối đối giữa các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như USD, EURO,
JPY, RMB,... liên tục chao đảo dưới tác động của các yếu tố bất định như sự
phục hồi của kinh tế toàn cầu hay khả năng “khủng hoảng kép”, khủng hoảng
nợ công của khu vực EURO có thể giải quyết hay sẽ lan rộng từ Hy Lạp,
Ireland sang Bồ Đào Nha và cả Tây Ban Nha,...là nguyên nhân gây tác động
mạnh mẽ đến sự tăng trưởng lãi suất.
+ Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng
của người dân.
2.2.2 Trong giai đoạn năm 2011.
Nguyên nhân làm cho tình hình lãi suất trong giai đoạn này giảm so với năm
trước :
+ Trong giai đoạn này chính phủ đã duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt. Đưa
ra một loạt quy định hướng dẫn về khung lãi suất cho hệ thống ngân hàng, xử lý
nghiêm khắc các TCTD vi phạm, với mục tiêu giảm lãi suất để kiềm chế lạm
phát. Đây là nguyên nhân quan trọng tác động tới hướng giảm của lãi suất trong
khoảng thời gian này.

+ Thực hiện chính sách của chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát, Các
ngân hàng tiếp tục cải thiện thanh khoản và việc hạ nhiệt CPI giúp lãi suất huy
động giảm dần xuống mức 14% trong giai đoạn này.
+ Nền kinh tế thế giới đang trên đà hồi phục, tuy nhiên cịn nhiều bất ổn trên
thị trường chứng khốn và thị trường vàng đây là nguyên nhân khiến cho dòng
vốn chảy từ hai thị trường trên dịch chuuyển vào hệ thống ngân hàng làm cho
lãi suất huy động tiếp tục giảm.
+ Hơn thế nữa do trong năm 2010 lãi suất thị trường Việt Nam cao, nền
kinh tế ổn định hơn các nước trong khu vực dẫn tới sự dịch chuyển của dòng
vốn đầu tư từ các nước về thị trường Việt Nam. Khi cung về vốn lớn cầu về vốn
tăng không đáng kể đã tác động tới việc lãi suất giảm trong giai đoạn này

22


CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN HỆ THỐNG LÃI XUÂT Ở VIỆT NAM.
3.1 Đánh giá về vấn đề điều chỉnh lãi suất trong thời gian qua :
- Trong giai đoạn 2010
+ Mặt bằng lãi suất nhìn chung cao và có tốc độ tăng cao.
Mặc dù chính phủ đã có nhưng biện pháp chấn chỉnh song do nhiều tác động
từ cả bên trong và bên ngoài hệ hống ngân hàng đã đẩy mặt bằng lãi suất lên
cao trên dự tính.
+ Kết hợp với tình hình lạm pháp trong giai đoạn cuối năm đã tăng trưởng
tín dụng thiếu ổn định, khơng những gây khó khăn cho doanh nghiệp mà cịn
gây áp lực cho việc kiểm sốt CPI. So với cuối năm 2009, tổng tín dụng chỉ
tăng 5,58% trong 4 tháng đầu năm, bình quân 1,4%/tháng và trong 5 tháng tiếp
theo tăng 13,92%, bình quân 2,78%/tháng, riêng tháng 9 lại tăng tới 4,5%. Làm
cho mức tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 19,5%.
+ Tốc độ tăng tín dụng tăng cao trong quí IV để đáp ứng yêu cầu tăng

trưởng kinh tế cũng như phù hợp với chủ trương giảm lãi suất tín dụng trong
q IV. Bên cạnh đó NHNN Việt Nam tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 8%
như từ tháng 12/2009 đến tận tháng 10/2010 nhằm phát tín hiệu về ổn định
chính sách lãi suất trong khi thực thi chính sách tín dụng nới lỏng với mặt bằng
lãi suất cho vay bình quân đã giảm xuống còn 13,27%/năm từ cuối tháng
9/2010 (giảm 0,7% so với bình quân 8 tháng trước) nhưng vẫn cao hơn so với
năm 2006 (bình quân 12,92%/năm) và năm 2007 (13,02%/năm). Xu thế lãi suất
trên thị trường tiền tệ tín dụng vẫn khơng thể vận động theo u cầu của Chính
phủ là đưa lãi suất huy động xuống mức 10%/năm và lãi suất cho vay xuống
12%/năm nhất là khi lạm phát cả năm tiệm cận 10%/năm.
+ Lãi suất tín dụng ngân hàng trong giai đoạn này vẫn phải vận động dựa
trên các qui luật thị trường trong khi NHNN chưa có chính sách tiền tệ nào để
can thiệp mạnh vào thị trường. Từ đầu tháng 7, lãi suất huy động VND từ
khoảng 11,5% - 12%/năm đã giảm xuống còn 11,2%/năm, từ 15/10/2010, dự
kiến sẽ xuống 11%/năm và lãi suất cho vay từ 12,5% - 15%/năm tùy theo các
đối tượng doanh nghiệp và chính sách ưu đãi cụ thể.
- Trong giai đoạn 2011
+ Cùng mục tiêu kiểm soát lạm phát, mặt bằng lãi suất được giữ ổn định và
từng bước hạ trong năm 2011. Về ngắn hạn đây được xem là một giải pháp tối
ưu trong bối cảnh nền kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro, tuy nhiên một vấn đề đặt
ra cùng với việc giảm lạm phát là suy giảm đầu tư kìm hãm tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn. Cho nên giảm lãi suất sẽ là một vấn đề không phải trong
một sớm một chiều.
+ Tách bạch lãi suất điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất làm cơ sở cho
việc giải quyết tranh chấp và chống cho vay nặng lãi. Đây được xem là cơ sở
pháp lý quan trọng để NHNN điều hành nền kinh tế và là hướng đi phù hợp với
định hướng kinh tế thị trường. Tuy nhiên lộ trình này cũng chưa thực sự đạt
hiệu quả và còn để lại nhiều bất cập.
23



+ Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng bằng VND kỳ
này có xu hướng giảm nhẹ
+ Lãi suất huy động VND ít biến động, các TCTD huy động với mức
lãi suất phổ biến sát 6%/năm đối với tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1
tháng, 14%/năm ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên.
3.2. Giải pháp.
- Xây dựng được một chính sách lãi suất hợp lý trong giai đoạn tới, để thực
hiện điều này cần phải phải chú ý những vấn dề sau :
Việc điều chỉnh lãi suất cần căn cứ vào định hướng chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ.
Khi xây dựng lãi suất phải đặt trong tương quan với tỷ giá của VND so với
các đồng tiền mạnh trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là đồng USD, đồng
EURO, đồng Yên, đồng Nhân dân tệ... Bởi lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, một khi có sự tăng giảm, chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ, ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế.
Việc công bố lãi suất cơ bản phụ thuộc vào lợi nhuận bình quân của xã hội.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân này được hình thành trong quá trình cạnh tranh
giữa các nền kinh tế.
Lãi suất phải được đặt trong mối tương quan với lãi suất tín phiếu kho bạc,
trái phiếu kho bạc để làm sao có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực trong xã
hội.
Cần xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và doanh lợi chứng khốn để xác
định chính sách lãi suất. Khi thị trường chứng khoán hoạt động, việc duy trì
một mức lãi suất hợp lý là một điều kiện cần thiết, bằng khơng những biến động
trong chính sách lãi suất của NHNN tất yếu sẽ dẫn đến những biến động trên thị
trường tài chính.lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát
hành và mua bán chứng khốn trên thị trường tài chính. Nếu lãi suất ngân hàng
trả cho người tiết kiệm cao, người gửi sẽ thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng
lãi suất cao và rủi ro thấp, hơn là mua chứng khoán với lãi suất thấp nhưng rủi

ro cao.
Do xu hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực nên việc điều chỉnh lãi suất
phải căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường quốc tế và khu vực.
Việc điều chỉnh lãi suất phải tuỳ thuộc vào tập quán và thói quen của người
dân cũng như các yếu tố tâm lý của dân chúng trong thời kỳ nhất định.
- Phải xây dựng một môi trường để lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Trước hết, phải xây dựng hệ thống ngân hàng hoạt động năng động và chủ
động trong cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh tốt, lãi suất của các TCTD
sẽ dao động gần sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN. Hơn thế nữa, trong môi
trường cạnh tranh, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp cho nền kinh tế và dân cư
các sản phẩm và dịch vụ ngày càng tốt hơn. Do vậy, để nâng cao tính chủ động
trong cạnh tranh, các NHTM trong nước cần phải chủ động cải tiến chất lượng,
quy trình tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàngquốc tế, cải tiến chất lượng phục
vụ.
24


Đồng thời phải nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong hoạt động ngân
hàng, cải tiến các vấn đề nhân sự, chi phí quản lý...để giảm tối đa chi phí kinh
doanh.
Chú trọng công tác tiếp thị trong hoạt động ngân hàng, hiểu rõ nhu cầu của
khách hàng truyền thống, tổ chức tốt công tác tư vấn về dự án đầu tư, thanh
toán quốc tế... cho khách hàng cũng như thường xuyên lắng nghe, tìm hiểu
những đề nghị, phản ánh của khách hàng.
Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và ngân hàng trên cơ sở
hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng,
đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những
khu vực mà mức độ cạnh tranh còn thấp và đang cần vốn như khu vực sản xuất
nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Mặt khác, các NHTM cần nâng cao vai trị cơng tác cân đối tín dụng: Đa

dạng hố các loại hình tín dụng như cho vay tiêu dùng cho cán bộ công nhân
viên, cho vay mua cổ phần, cho vay phục vụ chương trình nhà ở, tham gia các
dự án kích cầu, cho vay hợp vốn, để tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng trưởng
vốn. Tổ chức cơng tác điều hồ vốn trong nội bộ hệ thống các chi nhánh ngân
hàng đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn chi
phí rẻ trên thị trường liên ngân hàng để cho vay.
Tăng cường đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác như góp vốn, mua cổ
phần của các doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức bao
gồm thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường các chứng từ có giá theo quy định
của pháp luật. Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính - tiền
tệ, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp
luật nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng tín dụng.
Hai là, phải xây dựng một thị trường tiền tệ và hoạt động thị trường mở phát
triển mới có mơi trường cho lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Ba là, phải có hệ thống thanh tốn tốt, đặc biệt là thanh toán tổn tức thời mới
hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành
thông suốt thị trường tiền tệ và lãi suất cơ bản.
- Thúc đẩy phát triển thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, lấy đó làm
căn cứ để xây dựng và thiết lập mặt bằng lãi suất chung, làm cơ sở cho các mức
lãi suất thị trường tự do sau này.
- Cải tiến và tăng cường tác động của NHNN bằng các công cụ của chính
sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các
NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết khấu
khế ước nợ và tín dụng thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lượng.
- Để NHNN công bố lãi suất cơ bản và để nó có thể đi vào cuộc sống thuận
lợi thì phải giải quyết căn bản các tồn đọng cũ của hệ thống NHTM. Hiện nay
đang cịn hàng nghìn tỷ đồng vốn cho vay của hệ thống NHTM đóng băng
trong núi nợ quá hạn và tài sản phát mại phải có biện pháp hữu hiệu để giải
quyết dứt điểm. Nếu chưa lành mạnh hố tình hình tài chính - tiền tệ cho hệ
thống NHTM thì cịn khó khăn trong việc thực hiên bất kỳ một chính sách mới

25


×