Mục Lục
Trang
mở đầu 1
Chơng 1: một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
4
1.1. Khái niệm chứng cứ 4
1.2. Khái niệm về chứng minh 13
1.3. Một số nét về lịch sử hình thành các quy định và chứng minh
trong tố tụng dân sự Việt Nam
23
Chơng 2: quy định của bộ luật tố tụng dân sự về
chứng cứ và chứng minh
28
2.1. Quyền và nghĩa vụ của đơng sự trong việc cung cấp chứng
cứ và chứng minh
28
2.2. Trách nhiệm của Tòa án nhân dân 35
2.3. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung
cấp chứng cứ
47
Chơng 3: thực tiễn áp dụng và phơng hớng hoàn
thiện chế định chứng cứ và chứng minh
trong bộ luật tố tụng dân sự
51
3.1. Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự
51
3.2. Thực tiễn xét xử 56
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện 67
Kết luận 70
1
danh môc tµi liÖu tham kh¶o 72
2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủy ban Thờng vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết
trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, ngời
tiến hành tố tụng và ngời tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ hạn
chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy
phạm nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định
đầy đủ về chế định này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng
cứ làm ảnh hởng không nhỏ trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện
hơn, ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam. Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ
pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh vực nh dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động
và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2005 đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau cần phải sáng tỏ nh:
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngợc nhau
về chứng cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều
luật, từ Điều 79 đến Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát,
luật s có cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng
3
cứ và vấn đề chứng minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ
án, cùng một loại chứng cứ, có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại
xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật s có quan điểm, nhìn nhận trái ngợc
nhau.
Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một
cách đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ
việc dân sự, tác giả chọn đề tài: "Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ
luật Tố tụng dân sự" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trớc khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mọi thủ tục tố tụng phi
hình sự đều thực hiện theo ba Pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết, luận
văn đợc nghiên cứu dựa theo các Pháp lệnh đó. Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 205 vấn đề chứng minh và chứng cứ
mới chỉ có một số bài viết nh "Chế định chứng cứ và chứng minh trong Bộ
luật Tố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Công Bình, Tạp chí Nhà nớc và
Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ luật Tố
tụng dân sự" tác giả Tởng Duy Lợng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004. Những
bài viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ,
chứ cha nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả cha có đủ điều
kiện nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ
việc dân sự theo phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả
chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ
án dân sự truyền thống (dân sự và hôn nhân gia đình), còn trong các lĩnh vực
khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này
trong các công trình nghiên cứu sau này.
4
4. Phơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đợc nghiên cứu theo phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và một số phơng pháp cụ thể nh: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng
minh, tổng hợp và phơng pháp xã hội, phơng pháp khảo sát thăm dò v.v
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực
tiễn của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này,
nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu đa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc
nhận thức một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vớng mắc trong thực tiễn
đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh
trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.
- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vớng mắc về chứng
cứ và chứng minh trong thực tiễn cần phải giải quyết và nêu những kiến nghị
cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
5
Chơng 1
một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm chứng cứ
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể
nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ
thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn
nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đơng sự có cơ
sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan
tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ
việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công
dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò quan trọng
nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận
thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà
nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tợng có
mối liên hệ phổ biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật đợc coi là chứng cứ
cũng là một dạng vật chất, nó phản ánh vào đầu óc con ngời và lu lại trong đầu
óc, trí nhớ.
Do vậy, nếu đơng sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong
các nguồn của chứng cứ. Để làm rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc dân
sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ kiện nh: Việc xác
6
lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào? Các đơng sự đã cung cấp đợc các
chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm đợc một số chứng cứ gì khác? Từ
đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện pháp để nhằm thu
thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng cứ mà
pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc
dân sự.
Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nớc trên thế giới: Trong
Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố
tụng dân sự là những sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để
Tòa án giải quyết vụ án dân sự"; hay Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định
nghĩa: "Chứng cứ là một t liệu thông qua đó một tình tiết đợc Tòa án công
nhận và là một t liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án đợc thuyết phục là một tình
tiết nhất định tồn tại hay không".
Về nội hàm của khái niệm một số nớc trên tựu chung là khẳng định:
Chứng cứ là sự thật khách quan.
ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ đợc xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng
dân sự ở các nớc, đó là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ
không lệ thuộc vào ý thức con ngời; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện
chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn
tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng
dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ nh sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật đợc đơng
sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do
Tòa án thu thập đợc theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định
mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối
của đơng sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng nh những tình
7
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự (Điều
81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật đợc thu thập theo
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng
đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận d-
ới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm này cần đợc xem xét kỹ hơn. Qua
thực tiễn xét xử và các loại chứng cứ đợc quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng
dân sự, theo tác giả có một số quan điểm sau:
Cụm từ "những gì có thật" cha thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học.
Cụm từ này trừu tợng khó hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý
đòi hỏi trong sáng, minh bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trớc đó, đã có quan
điểm góp ý dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những
tin tức có thật". Có thể cụm từ này sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể
hơn, sát với thực tế cuộc sống hơn. Nó giúp cho các chủ thể nhận thức về
chứng cứ dễ dàng hơn vì chứng cứ là những cái có thể xác định đợc, nghe đ-
ợc, nhìn đợc, thậm chí chiếm giữ đợc trên thực tế. Tóm lại, dù tồn tại dới
dạng vật hay vật có giá trị mang tin thì nó đều tồn tại dới dạng vật chất cụ
thể, tựu chung nó mang một thông tin, một số thông tin khách quan có thật.
Việc quy định " do Tòa án thu thập đợc theo trình tự thủ tục do Bộ
luật này quy dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản
đối của đơng sự ", quy định này còn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau " cũng nh những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc
của định nghĩa. Khái niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản:
phản ánh toàn diện về đối tợng; phản ánh tơng đối chính xác về đối tợng; là sự
hiểu biết tơng đối có hệ thống về đối tợng.
8
Trên lập trờng, quan điểm thế giới quan duy vật, xem xét chứng cứ
xuất phát từ thực tế khách quan của chính bản thân nó chứ không lệ thuộc vào
ý thức của con ngời.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự
vận động, phát triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều
có nguồn gốc, có nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ
không ở dạng tĩnh lặng, bất động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Từ những ý kiến bình luận trên, tác giả xin đa ra định nghĩa nh sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức
phản ánh sự thật khách quan do đơng sự, ngời bảo vệ quyền lợi của đơng
sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngời tham gia tố tụng giao nộp hoặc Tòa án
thu thập theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó
để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trớc hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con ngời. Đơng sự và các cơ quan tiến hành tố
tụng không đợc tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó
không thể coi là chứng cứ. Con ngời phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ,
con ngời nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998:
"Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự đợc hiểu là các tình tiết, sự kiện
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải
quyết.
9
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có
liên quan đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn
lọc và đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan
của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối
quan hệ dựa vào đó có thể xác định đợc ngay những tình tiết, theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng
minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm đợc tình tiết, sự
kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ
nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa
án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc
dân sự mà không để xảy ra trờng hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải đợc thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá,
nghiên cứu theo thủ tục luật định, có nh vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ.
Trớc hết, chứng cứ phải đợc pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ đợc
coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong các loại
nguồn của chứng cứ. Vật chứng phải luôn là vật gốc có tính đặc định, liên
quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại
vật chứng thì không đợc coi là vật chứng. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu thập
đúng trình tự mà phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ,
toàn diện để đảm bảo đúng đắn tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ đợc xác định cụ thể:
- Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định.
- Phải từ phơng tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định.
10
- Phải đợc giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân
sự đang để trống quy định này).
- Phải đợc công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Phải đợc thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thờng đợc phân thành các loại khác nhau.
Những tình tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dới
hai dạng sau:
- Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự đợc phản ánh vào đầu óc con ngời, từ đó con ngời ghi lại, chụp lại
và phản ánh có ý thức lại chính nó.
- Các dấu vết, vật chứng là vật chất.
Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau nh: chứng cứ
gián tiết, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định,
chứng cứ khẳng định, chứng cứ viết ; nhng dù có gọi nh thế nào thì cũng không
làm thay đổi giá trị của nó. Việc phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban
hành các quy định về chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự có hệ thống và minh
bạch.
- Chứng cứ theo ngời: Là chứng cứ đợc rút ra từ lời khai của đơng sự, ng-
ời làm chứng.
- Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ đợc rút ra từ những vật nh vật chứng,
tài liệu, giấy tờ.
1.1.4. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn đợc thu thập, cung
cấp theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và đợc liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố
11
tụng dân sự thì đợc coi là nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ
không chứng minh làm sáng tỏ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao
gồm: "Các tài liệu đọc đợc, nghe đợc, nhìn đợc; các vật chứng; lời khai của đơng
sự, lời khai của ngời làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm
định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có
quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự). Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là
nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại nguồn chủ yếu là nguồn vật và tài
liệu. Nguồn chứng cứ và phơng tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau; nh-
ng thực tế là thờng đợc hiểu chung. Vì một số trờng hợp các phơng tiện chứng
minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức và vụ việc dân sự nh vật chứng,
tài liệu chứa đựng chứng cứ tức cũng là nguồn của chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng
cứ. Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ
nhất định; nhng không có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì
nhất định trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh
giá, sử dụng. Ví dụ, vật chứng đơng sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhng là
vật chứng đợc đơng sự làm giả, gian dối thì không thể coi vật chứng này là
nguồn đợc; hay kết luận giám định là nguồn chứng cứ nhng kết luận giám
định sai thì không thể coi là nguồn của chứng cứ đợc.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
- Các tài liệu đọc đợc, nghe đợc, nhìn đợc
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng
thực hợp pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính
có thể là bản gốc hoặc bản đợc dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu
nghe đợc, nhìn đợc phải xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài
liệu đó hoặc văn bản và sự liên quan tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu
này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh Nếu đơng sự không xuất
12
trình đợc các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn đợc mà đơng sự giao
nộp không thể đợc coi là chứng cứ.
- Các vật chứng
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự, nếu
không phải là hiện vật gốc nhng phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Do
vậy, vật chứng phải luôn có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới
có giá trị pháp lý. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu thập vật chứng theo trình tự
luật định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo đảm giá trị đặc tính của vật chứng.
Nếu đơng sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải lập biên bản miêu tả chi tiết
hình thức cũng nh đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu vết thể hiện trên vật
chứng đó. Đối với vật không thể di chuyển đợc thì phải xem xét tại chỗ; vật
mau hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét
nh ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để lu.
- Lời khai của đơng sự
Đơng sự là ngời có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ tham
gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp hay giải quyết của mình
tại Tòa án. Lời khai của đơng sự dựa trên trí nhớ và sự kiện, tình tiết nên thờng
mang tính chủ quan. Tâm lý trong lời khai của đơng sự thờng thiên về bảo vệ cái
quyền lợi cá nhân, nên xem xét yếu tố này để Tòa án thận trọng khi đánh giá.
Lời khai của đơng sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo
đúng trình tự và ký tên của mình. Lu ý tuổi của đơng sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của ngời làm chứng
Ngời làm chứng là ngời biết rõ những thông tin liên quan đến vụ kiện
nhng lại không có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của ngời làm
chứng thờng thể hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó
nh bị dụ dỗ, bị mua chuộc, bị đe dọa, hành hung mà đa ra những lời khai sai
lệch, thiếu chính xác. Lời khai của ngời làm chứng theo quy định phải đợc ghi
13
bằng văn bản hoặc ghi âm, ghi hình, nhng phải ký tên xác nhận. Ngời làm
chứng phải đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi dân sự; nếu bị hạn chế hoặc mất
năng lực hành vi dân sự phải có ngời đại diện.
- Kết luật giám định
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ
quan chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu
của một bên đơng sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đơng sự, Thẩm phán ra
quyết định trng cầu giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan
trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ kiện có thể quyết định toàn bộ vụ án. Ví
dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả mạo, nếu xác
định của cơ quan giám định t pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ
án. Bởi vậy, các kết luận giám định có thể đợc giám định lại, giám định bổ
sung ở các cơ quan có chức năng giám định khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định đợc tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên
tham gia thẩm định. Cụ thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có
đại diện của cơ quan sở tại có thẩm quyền. Tòa án phải báo cho đơng sự biết
trớc để họ chứng kiến việc xem xét, thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất
và đợc công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán đợc coi là chứng cứ trong
một vụ án cụ thể thì Thẩm phán phải yêu cầu đơng sự trình bày rõ nguồn gốc
của tập quán đó và chứng minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn
bản thể hiện việc cả cộng đồng dân c nơi có tập quán đó thừa nhận, nh xác
nhận vào văn bản cả cộng đồng dân c và đợc chứng thực cũng nh xác nhận của
ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tập quán đó đợc thừa nhận.
14
Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi
lẽ, nó không có giới hạn cụ thể, rạch ròi, ở một mức độ nào đó nó có tính ớc lệ và
suy đoán. Ví dụ, ở một cộng đồng dân c, tính cục bộ tại địa phơng đó dẫn đến vì
giúp cho một cá nhân nào đó mà cộng đồng dân c có thể ký và xác thực vào văn
bản mà việc này vẫn không trái với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ bản, tập quán
không đợc trái với các nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã hội và đơng
nhiên tập quán đó cha đợc khái quát để cụ thể hóa trong luật.
- Kết quả định giá tài sản
Định giá có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Định giá có
thể do đơng sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận thấy cần định giá.
Kết quả định giá là nguồn của chứng cứ nên việc định giá do Hội đồng
định giá đợc lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Khi định giá tài sản, Hội đồng định giá tiến hành định giá riêng từng
tài sản. Để xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự phải căn cứ vào
mức phố biến giá cả thị trờng địa phơng tại thời điểm định giá mà có vật, tài
sản cần định giá.
1.2. Khái niệm về chứng minh
1.2.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178:
"Chứng minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay
không đúng".
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr. 192 ghi: "Chứng
minh là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thờng chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên đơng sự nên rất phực tạp. Để giải quyết đợc vụ
15
việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng phải đợc làm
rõ trớc khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Vú dụ, trong vụ án
thừa kế yêu cầu chia di sản theo di chúc thì làm rõ có di chúc không? Ngời
viết di chúc đã chết cha? Di chúc có hợp pháp hay không?
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự
của Tòa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của
các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi ngời thấy rõ là có thật,
là đúng với thực tế. Do đó, các phơng thức đợc các chủ thể chứng minh sử
dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhng để thực hiện đợc mục đích, nhiệm vụ
của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra đợc tất cả
các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Quá trình chứng minh đợc diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó,
hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa
của các chủ thể là chủ yếu và mang tính quyết định:
- Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu là do đơng sự giao nộp cho
Tòa án, đơng sự muốn làm rõ đợc yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có
căn cứ hợp pháp thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng cứ
cho Tòa án để chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đơng sự, hoặc một số trờng
hợp Tòa án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng
minh trong giải quyết vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng
minh. Nó là một quá trình lôgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù
16
hợp của các chứng cứ - sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa
những tình tiết, sự kiện đã thu thập đợc với thực tế khách quan. Thông qua
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tòa án hình thành các đối tợng chứng minh
và sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Việc suy đoán chứng cứ có
thể đợc sử dụng trong quá trình đánh giá chứng cứ, nhng việc suy đoán này
phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ
sơ chứ không đợc theo nhận thức chủ quan của ngời đánh giá.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự
kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc
dân sự. Chứng minh là biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự.
Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và
các chủ thể khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự đợc giải
quyết. Đối với các đơng sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đơng
sự làm rõ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa bảo
vệ. Trớc Tòa án, nếu đơng sự không chứng minh đợc sự tồn tại quyền, lợi ích
hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ không đợc Tòa
án bảo vệ. Trên thực tế, Tòa án có thể sai lầm trong việc xác định, đánh giá
chứng cứ, không làm sáng tỏ đợc các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Điều đó dẫn đếu việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật và làm
cho đơng sự không đợc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Chứng minh
không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa
án, mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đơng sự bảo vệ đợc quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
Để giải quyết bất kỳ một vụ việc dân sự thì đều đợc phải làm rõ những
sự việc, tình tiết về cơ bản trớc khi Tòa án tiến hành giải quyết. Mà thực chất
của hoạt động chứng minh phần lớn bao gồm việc cung cấp chứng cứ của đ-
ơng sự và việc Tòa án xem xét toàn bộ hệ thống văn bản, tài liệu liên quan đợc
17
áp dụng nhằm có cơ sở giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
công dân và của Nhà nớc.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của
các chủ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ
các sự kiện, tình tiết của vụ việc là cần thiết; trong đó còn bao gồm cả hoạt
động áp dụng luật của Tòa án đối với vụ việc dân sự cụ thể cần giải quyết.
1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự để giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Nhng ở đây phải xác định ai thực hiện việc
chứng minh? Nói rõ hơn, ai là ngời đứng ra để nghiên cứu, thu thập, giao nộp,
đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự?
Trong tố tụng dân sự, đơng sự tham gia tố tụng là chủ thể trung tâm.
Tuy vậy, chứng minh không chỉ giới hạn ở việc xác định chứng cứ, chứng
minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đơng sự mà còn phải làm rõ đợc
tất cả các vấn đề liên quan đến vụ việc dân sự Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
Khi đa ra yêu cầu, đơng sự không chỉ phải đa ra những tình tiết, sự kiện dựa
vào đó mà họ yêu cầu, mà còn đa ra cả những căn cứ pháp lý của các yêu cầu.
Khi quyết định giải quyết vụ việc dân sự, trong bản án, quyết định giải quyết
vụ việc dân sự của mình Tòa án cũng phải chỉ rõ quyết định đợc dựa trên
những căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý nào.
Vấn đề xác định rõ chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ nh
thế nào? Vì mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục
đích, nhiệm vụ khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau.
Trong đó, xác định nghĩa vụ chứng minh của đơng sự, ngời đại diện của đơng
sự, ngời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơng sự và Tòa án trong việc
làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án dân sự.
18
Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đơng sự, ngòi đại
diện cho đơng sự, ngời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đơng sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác và Tòa án. Trong đó, đơng sự có vai trò chủ
yếu để chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình
tự thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230
của Bộ luật Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm đơng
sự và Tòa án cũng nh cá nhân, cơ quan, tổ chức, ngời bảo vệ quyền lợi cho đ-
ơng sự, ngời đại diện hợp pháp của đơng sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc về đơng sự. Đây là một trong những
nguyên tắc xuất phát từ quyền tự định đoạt của đơng sự đối với việc khởi kiện.
Đơng sự có yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó là hợp pháp. Ngợc lại, nếu đơng sự phản
đối yêu cầu của ngời khác thì phải đa ra chứng cứ để phản đối. Theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh đặt ra cho cả hai bên đơng
sự, bên khởi kiện, bị kiện và ngời có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của đ-
ơng sự. Mỗi bên đơng sự tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đa ra yêu cầu hay phản đối
yêu cầu cầu của ngời khác. Trớc hết, nguyên đơn phải chứng minh trớc, nghĩa
là bên có yêu cầu phải đa ra các chứng cứ để đợc Tòa án xem xét chấp thuận
thụ lý vụ việc dân sự. Sau đó bị đơn, ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới
phải chứng minh bằng việc đa ra chứng cứ phải đối lại yêu cầu của nguyên
đơn (khoản 1, 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Ngoài các đơng sự, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
ngời khác cũng phải chứng minh (khoản 3 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).
19
Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự nh đơng sự, nhng
các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích nhà nớc hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khác nếu không
thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đơng sự.
Đối với ngời đại diện hợp pháp của đơng sự, trong Bộ luật Tố tụng dân
sự không có quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ. Nhng
tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định ngời đại diện của đơng sự thay
mặt tố tụng của đơng sự nên quyền và nghĩa vụ của họ đợc hình thành trên cơ
sở và nghĩa vụ của đơng sự. Bởi vậy, nên ngời đại diện cho đơng sự nào thì họ
có nghĩa vụ chứng minh của đơng sự đó. Ngời đại diện theo pháp luật, ngời
đại diện do Tòa án chỉ định có quyền và nghĩa vụ thực hiện tốt các nghĩa vụ
chứng minh đơng sự họ đại diện. Ngời đại diện theo ủy quyền của đơng sự
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đơng sự trong phạm vi ủy quyền.
Ngời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đơng sự tham gia tố tụng với
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơng sự cũng có quyền và
nghĩa vụ chứng minh (khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự). Ngoài việc
giúp đơng sự về mặt pháp lý để đơng sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ
thì ngời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơng sự chứng minh bằng việc
đa ra các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho các yêu cầu hoặc phản đối các
yêu cầu là có cơ sở.
Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự không có
nghĩa vụ chứng minh. Tuy vậy, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, trong
một số trờng hợp, Tòa án vẫn phải chứng minh để làm rõ. Ví dụ, đối với trờng
hợp đơng sự không thể thu thập đợc chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa án có thể
tiến hành thu thập chứng cứ (khoản 2 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tòa án
thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trớc khi sử dụng (Điều
96, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự). Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ cơ sở của
quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Nh vậy, việc chứng minh của Tòa án
20
mang tính hỗ trợ cho việc chứng minh của đơng sự và phục vụ cho việc giải
quyết vụ việc đúng đắn của Tòa án.
Việc thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của một
chủ thể có ảnh hởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định các chủ thể chứng minh phải chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ.
1.2.3. Quá trình chứng minh
Chứng minh đợc diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Nh hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
tại Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định
trong quá trình tố tụng. Kết quả giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn
vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá trình này đòi hỏi phải thận trọng, tỷ
mỷ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất.
Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi
khởi kiện thụ lý vụ án, đơng sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh
bằng việc nguyên đơn gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình; bị đơn, ngời có nghĩa vụ liên quan nhận đ-
ợc thông báo về việc thụ lý vụ án phải gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối
với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo. Trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự, đơng sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho
Tòa án (Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tại phiên tòa, các bên đơng sự tham
gia tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận
của họ không hạn chế (Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi có kháng cáo,
ngời kháng cáo phải gửi cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để
21
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp (khoản 3 Điều
244 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự, trong trờng hợp đơng sự không
thể tự mình thu thập chứng cứ và họ có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến
hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ. Khi áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ, Thẩm phán phải ra quyết định bằng văn bản, trừ việc
lấy lời khai của đơng sự, ngời làm chứng theo quy định của Điều 95, Điều 96 Bộ
luật Tố tụng dân sự. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy
đủ và chính xác; Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ; mọi chứng cứ phải đợc
công bố và sử dụng công khai nh nhau, trừ trờng hợp có liên quan đến bí mật
nhà nớc, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời t của cá nhân theo yêu
cầu chính đáng của đơng sự (Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự).
1.2.4. Đối tợng chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 274 ghi: Đối
tuợng, đợc hiểu: 1- Cái ngời ta nhằm tới để tìm hiểu, hành động. 2- Ngời đang
tìm hiểu để kết hôn hoặc kết nạp vào tổ chức.
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2003, tr. 328 ghi: Đối
tợng là ngời, vật, hiện tợng mà con ngời nhằm vào trong suy nghĩ và hành
động.
Trong tố tụng dân sự, đối tợng chứng minh là một vấn đề hết sức
quan trọng, do đó khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định đợc
tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan, những tình tiết này là đối tợng chứng
minh trong việc việc dân sự.
Đối tợng chứng minh là tổng hợp những tình tiết sự kiện liên quan đến
vụ việc dân sự, dùng nó làm cơ sở giải quyết vụ kiện dân sự.
Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất đa dạng nên
các tình tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ việc dân sự cụ thể rất
22
phong phú. Do vậy, trong quá trình giải quyết, việc xác định những tình tiết,
sự kiện nào cần phải chứng minh. Để xác định đợc đối tợng chứng minh của
mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa vào yêu cầu hay phản đối của đơng sự. Đ-
ơng sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có yêu cầu, hay phản đối yêu cầu. Nói
tóm lại, đối tợng chứng minh bao gồm những tình tiết, sự kiện khẳng định của
bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên phản lại yêu cầu
liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Để giải quyết đúng đợc các vụ việc dân sự theo quy định tại khoản 1,
2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự, đơng sự phải đa ra các chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu đó là hợp pháp. Đơng sự phản đối yêu cầu của ngời khác
đối vói mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đa ra
chứng cứ để chứng minh. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích nhà nớc hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của ngời khác phải đa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện,
yêu cầu cvủa mình là có căn cứ và hợp pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định tại Điều 80 về những tình tiết, sự kiện có tính rõ ràng thì không phải
chứng minh nh: tình tiết sự kiện mọi ngời đều biết; những tình tiết, sự kiện
đã đợc xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền; những tình tiết, sự kiện đã đợc ghi trong văn bản đợc công
chứng, chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi ngời đều
biết thì không phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện không
phải chứng minh phải đợc Tòa án thừa nhận. Do đó, khi giải quyết các vụ
việc dân sự, trách nhiệm của Tòa án phải xem xét từng tình tiết, sự kiện trong
các trờng hợp cụ thể và trên cơ sở yêu cầu phải công khai, minh bạch trong
các hoạt động xét xử mà đồng ý, thừa nhận hay không về các tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh. Ví dụ, sự thừa nhận của đơng sự phía bên này
đối với các chứng cứ mà đơng sự phía bên kia có yêu cầu đa ra xem nh có
giá trị miễn nghĩa vụ chứng minh đối với bên có yêu cầu. Một trong vấn đề
23
thuộc bản chất của chứng minh là làm cho đơng sự bên kia thấy đợc sự tồn
tại của tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự để họ thừa nhận hay
không thừa nhận; quyết thừa nhận còn là quyết tự định đoạt của đơng sự.
1.2.5. Các phơng tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 610, phơng
tiện đợc hiểu: "cái dùng để tiến hành công việc gì". Mỗi vụ việc dân sự đều có
đối tợng chứng minh riêng. Việt sử dụng phơng tiện chứng minh nào trong vụ
việc dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tợng chứng
minh của vụ việc dân sự cần giải quyết. Một số công cụ thờng đợc thực hiện
nh lấy lời khai của đơng sự, lời khai của ngời làm chứng, kết luện của cơ quan
giám định gọi là phơng tiện chứng minh.
Phơng tiện chứng minh là những công cụ đợc sử dụng để làm rõ các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh thực
hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Hoạt động chứng minh có quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc
dân sự. Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, Bộ luật Tố tụng
dân sự quy định những phơng tiện chứng minh cụ thể để các chủ thể lấy đó
làm công cụ chứng minh cho mình: Các tài liệu đọc đợc phải là bản chính, các
tài liệu nghe đợc, nhìn đợc phải có văn bản xác định xuất xứ; các vật chứng,
lời khai của đơng sự; ngời làm chứng phải đợc ghi lại dới một hình thức nhất
định theo luật định.
Trong một vụ việc dân sự cụ thể, các đơng sự có thể dùng nhiều phơng
tiện chứng minh trong đó đợc làm rõ các sự kiện, tình tiết phải đợc xác định
đúng, rõ ràng và cần thiết.
1.3. một số nét về lịch sử hình thành các quy định và chứng
minh trong tố tụng dân sự việt nam
24
- Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời. Thời kỳ đó chính quyền cách mạng còn non trẻ, nền
t pháp của nớc ta bắt đầu hình thành, việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật rất khó khăn, nhng nhận thức đợc vai trò, ý nghĩa của pháp luật
trong đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 90/SL ngày
10-10-1945 cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ trừ những điều khoản trái
với nền độc lập và dân chủ của nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau khi Hiến pháp đầu tiên (1946) của nớc ta ra đời thì nguyên tắc cơ
bản về quyền và nghĩa vụ của công dân đã đợc chính thức ghi nhận tại chơng
II Hiến pháp 1946. Thời gian này, văn bản pháp luật tố tụng dân sự đã đợc ban
hành; chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự đã đợc quy định
trong một số văn bản luật. Tại Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14-
7-1960 quy định: "Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử của nớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân
sự trừng trị những kẻ phạm tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự
trong nhân dân". Trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 15-7-1960
có quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân; tại khoản
g Điều 3 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố, hoặc tham gia tố
tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích nhà nớc và của
nhân dân. Thông t số 2386-NCPL ngày 19-12-1961 của Tòa án nhân dân tối
cao quy định:
Trong bản án sơ thẩm dân sự phải chỉ ra: nguyên đơn yêu
cầu đợc giải quyết những quyền lợi cụ thể gì và nêu ra những bằng
chứng gì làm căn cứ - ý kiến của bị đơn đối với lời thỉnh cầu của bên
nguyên đơn: có chấp nhận hay là không lời thỉnh cầu ấy, hoặc chỉ
chấp nhận đến mức độ nào thôi, dẫn những bằng chứng gì làm căn
cứ cho ý kiến đó
25