MỤC LỤC
Cạnh tranh được thừa nhận là yếu tố đảm bảo duy trì tính năng động và
hiệu quả của nền kinh tế. Cạnh tranh bình đẳng luôn là một nhân tố khách quan
trong mọi hoạt động kinh doanh, kể cả trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng.
Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng ở
Việt Nam thật sự sôi động. Chỉ trong vòng chục năm trở lại đây, nhiều ngân hàng
thương mại (NHTM) đã ra đời và đi vào hoạt động dưới nhiều hình thức khác
nhau, tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Điều đó dẫn đến cạnh tranh là điều tất yếu. Trên lý thuyết, khi có nhiều NHTM
hoạt động trên một phân đoạn thị trường thì cạnh tranh sẽ giúp cho thị trường
ngày càng phát triển, làm lợi cho nền kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trong lĩnh vực này đang xuất hiện
những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Các ngân hàng thương mại đang
tự làm suy yếu lẫn nhau và đang dần làm mất niềm tin từ phía khách hàng. Một
khi làm mất niềm tin này thì cái giá phải trả có thể sẽ rất lớn, không chỉ đối với
hệ thống ngân hàng mà còn với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Do vậy, chúng em lựa chọn đề tài “Thực trạng và hệ quả từ cạnh tranh
không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng”, để nêu ra một số biểu hiện, nguyên
nhân và những hệ lụy của vấn đề cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời đưa ra các quy định, chế tài
xử phạt mà cơ quan chức năng đang áp dụng để xử lý vấn đề này và đề xuất một
số giải pháp.
Về nội dung, đề tài có 3 phần chính:
- Chương 1: Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng Việt Nam
- Chương 2: Nguyên nhân và hậu quả của các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm chống hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Trong quá trình phân tích và tìm hiểu, chúng em rất mong nhận được
những lời góp ý từ cô giáo và các bạn trong lớp.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng
- Cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh. Về mặt
hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp. Mục
đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng cạnh tranh giành thị
trường mua hoặc bán sản phẩm.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi của
các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động ngân hàng trái với những
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp khác của tổ chức tín dụng, đến việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng.
1.2. Biểu hiện, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
1.2.1. Trong hoạt động huy động vốn
Lãi suất là giá cả của vốn vay, là công cụ để dẫn dắt nguồn vốn đến đúng
nơi có nhu cầu vốn và hoạt động thực sự hiệu quả, từ đó sẽ phát huy hiệu quả
nguồn vốn đang khan hiếm trong các nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng tốc
như Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm qua, lãi suất huy động vốn của các NHTM Việt
Nam diễn biến phức tạp, thậm chí vượt trần lãi suất quy định của Ngân hàng
Nhà nước. Sau đây, ta sẽ điểm lại diễn biến lãi suất huy động vốn từ 2010 tới
nay:
Những biến động nửa đầu năm 2010 đã đẩy lãi suất huy động VND lên
quanh 11%/năm. Trước xu hướng biến động mạnh vào cuối năm, Hiệp hội và
Ngân hàng Nhà nước đã họp với các thành viên, đồng thuận không quá
12%/năm được đưa ra vào ngày 5/11. Tuy nhiên, sau đó nhiều thành viên “phá
rào”, lãi suất lần lượt tăng lên 13%, 14%, 15%/năm… Đỉnh điểm, sự kiện 3 ngày
vàng của Techcombank diễn ra ngày 8/12/2010, mức lãi suất được nâng lên mức
17%/năm, cùng chính sách tặng ngay 500.000 đồng khi giới thiệu khách hàng
gửi tiết kiệm mới từ 1 tỷ trở lên đã gây chấn động thị trường. Phản ứng cạnh
2
tranh ghi nhận ở sự kiện này là SeABank cũng lập tức nâng lên 18%/năm.
Những lãi suất gây sốc này nhanh chóng bị chấm dứt, lãnh đạo Techcombank bị
Ngân hàng Nhà nước khiển trách.
Nếu năm 2010, các đồng thuận lãi suất 11%, 12% rồi 14%/năm được đặt
ra, thì đến đầu 2011 nó tiếp tục bị phá vỡ. Và ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước ban
hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN, chính thức áp trần 14%/năm, và ngay sau
đó là những xáo trộn từ các thỏa thuận ngầm hoặc mặc cả lãi suất với khách
hàng. Ví dụ, khi một khách hàng tới ngân hàng gửi tiền, ngân hàng sẽ vẫn có thể
trả cho khách hàng phần lãi suất cao hơn mức trần cho phép. Đồng thời, phần
chênh lệch này được ngân hàng chi trả bằng tiền mặt.
Nửa cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiêm quy định
trần, một số ngân hàng bị xử lý mà lần đầu tiên trong hệ thống có cụm từ “ngân
hàng gài bẫy lẫn nhau”. Đơn cử là nghi án giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) -
chi nhánh Tây Ninh tố giác giám đốc Ngân hàng Đông Á chi nhánh Tây Ninh
vượt trần lãi suất, làm cho dư luận không khỏi băn khoăn về đạo đức kinh doanh
trong lĩnh vực này.
Từ những diễn biến phức tạp trong lãi suất huy động, để kiểm soát cuộc
chạy đua lãi suất trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra nhiều giải
pháp xử lý, trong đó có “trần lãi suất” huy động. Tới 08/06/2012, Ngân hàng
Nhà nước ban hành thông tư số 19/2012/TT-NHNN quy định: “Lãi suất tối đa áp
dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 2%/năm. Lãi
suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là
9%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối với
tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9,5%/năm”.
Nhưng trong thực tế, những thông tư quy định trần lãi suất của Ngân hàng
nhà nước đã không được các NHTM tuân thủ nghiêm túc, biểu hiện là các
NHTM vẫn tìm cách lách trần lãi suất bằng cách thưởng hết sức tinh vi. Bản tin
tài chính trưa ngày 28/12/2011 đưa tin về việc một ngân hàng tìm cách lách luật
đưa lãi suất huy động vượt trần quy định, lên 19%/năm.
Việc lách luật được thực hiện bằng cách mời chào khách hàng mua trái
phiếu doanh nghiệp với lãi suất 19%/năm. Ngân hàng này sẽ bán cho khách hàng
một lượng trái phiếu doanh nghiệp, sau một thời gian cam kết, ngân hàng này sẽ
mua lại trái phiếu đấy với mức lãi suất là 19%/năm, điều kiện để khách hàng có
thể sử dụng dịch vụ này là số tiền “mua trái phiếu” phải từ 1 tỉ đồng trở lên.
Nhân viên tín dụng của ngân hàng trên đưa ra lý do cho việc này là do
ngân hàng nhà nước đặt trần lãi suất huy động 14%, nên buộc phải lách luật để
có mức phí huy động hấp dẫn hơn. Mặc dù trên giấy tờ ghi lãi suất là 13%/năm,
nhưng ngân hàng này vẫn cam kết khoản tiền mà khách hàng được hưởng từ 17-
3
19%/năm. Nguy cơ mất tiền của người gửi tiền sẽ tăng lên vì khi người gửi tiền
tiết kiệm trở thành người mua trái phiếu, đồng nghĩa rằng người gửi tiền tiết tiết
kiệm trở thành chủ nợ của doanh nghiệp đó. Khi doanh nghiệp này hoạt động
thua lỗ, nhiều khả năng người mua trái phiếu sẽ không thu hồi được vốn của
mình.
Thậm chí, các NHTM còn dùng một số kỹ thuật tinh vi khác để lách trần
lãi suất như dùng lãi suất kép. Theo điều tra của phóng viên báo Pháp luật thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 21/3/2012, khi điện thoại đến ABBank trong vai trò
người gửi tiền, phóng viên thực hiện đã được tổng đài ngân hàng này cho hay
khách hàng gửi tiết kiệm kỳ hạn ngày hay tuần đều hưởng lãi 5%. Vì vậy, tiền
gửi tiết kiệm ngắn hạn sẽ có lợi hơn dài hạn. Cụ thể, với kỳ hạn một ngày, khách
hàng được hưởng lãi suất là 5%. Nhưng ngày thứ hai, khách hàng lại được tính
như ngày đầu cũng là 5%. Với lãi kép này, tính đến cuối tháng lãi suất của người
gửi sẽ được nhận vượt quá trần 13% theo quy định.
Ngoài công cụ chính là lãi suất, các ngân hàng liên tục đưa ra các chương
trình khuyến mãi để khuyến khích khách hàng gửi tiền. Hiện nay, hầu hết ngân
hàng lớn nhỏ đều có các chính sách khuyến mãi theo hướng khách gửi nhiều tiền
được ưu đãi lớn, người ít vốn cũng được tặng món quà nhỏ. Thậm chí, có ngân
hàng còn treo giải cho khách là 3 chiếc xe Mercedes trị giá hàng tỷ đồng hoặc
thẻ tiết kiệm trị giá 1 tỷ đồng Đặc biệt, một số nhà băng còn đánh vào tâm lý
khách hàng là cứ gửi tiền sẽ nhận ngay thẻ cào trúng thưởng 100% với trị giá
giải thưởng lên đến tiền triệu. Một số chuyên gia cho rằng, cho dù đây là hình
thức khuyến mại đã được Bộ Công thương cấp phép nhưng cũng có dấu hiệu của
một cuộc đua cạnh tranh không lành mạnh nhằm hút vốn của nhau.
Tóm lại, trong một thời gian dài vừa qua, một số không nhỏ các ngân
hàng đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt để kích thích người dân gửi
tiền vào ngân hàng của mình. Tuy vậy, không ít các chính sách ưu đãi đó lại
chính là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và trái các quy định của Nhà
nước trong hoạt động huy động vốn.
1.2.2. Trong hoạt động cấp tín dụng
- Cho vay vượt khung lãi suất quy định:
Thông tin từ phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 11/2012 cho thấy,
Chính phủ đang xem xét việc áp dụng trần lãi suất cho vay và giảm lãi suất cho
vay để giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn phục
vụ sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng với doanh
nghiệp hiện nay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ dao động quanh mức 10% - 13%/năm, đối với
lĩnh vực kinh doanh khác ở mức 12% - 15%/năm. Tuy vậy có một số ngân hàng
4
vẫn có những khoản cho vay doanh nghiệp với lãi suất lên tới 16% -17,5%/năm
như ACB, VpBank,…. Giám đốc một Công ty dệt may ở Hưng Yên phàn nàn
“Hợp đồng đã ký với khách hàng thì không thể lùi. Bây giờ vay lãi suất phải là
18%, trong khi trước đây chỉ 12-13,5%. Như vậy, doanh nghiệp đã mất đi
khoảng 5-6 tỷ đồng lợi nhuận”.
- Cho vay không đảm bảo các điều kiện tín dụng:
Điều kiện tín dụng là những yêu cầu bắt buộc mà khách hàng phải thỏa
mãn khi có nhu cầu vay vốn ngân hàng như hồ sơ vay vốn, tài sản đảm bảo, tư
cách pháp lý của người đi vay,…. Tuy nhiên, hiện nay, trong cuộc cạnh tranh gay
gắt để tồn tại vào thời buổi kinh tế khó khăn, các ngân hàng thường đặt ra những
chỉ tiêu cho vay cụ thể nhằm đạt được mức lợi nhuận tối đa. Để đạt được những
chỉ tiêu này, nhiều ngân hàng đã bất chấp rủi ro tín dụng để cho vay mà không
đảm bảo các điều kiện tín dụng. Những hành vi thuộc hoạt động này có thể là
tiến hành quá trình thẩm định cho vay sơ sài dẫn đến ngân hàng vẫn quyết định
giải ngân mặc dù tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đủ điều
kiện cho phép trả nợ đúng hạn, lâu dài dẫn đến tình trạng nợ xấu, tài sản đảm
bảo đang trong quá trình tranh chấp,
Hơn nữa, hệ thống Ngân hàng thương mại tại Việt Nam như là một cộng
cụ cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước và kể cả Chính phủ. Các hoạt
động cho vay không được xét duyệt trên các tiêu chí khách quan, do vậy rất
nhiều dự án kém hiệu quả cũng như doanh nghiệp ốm yếu vẫn được vay vốn.
Bên cạnh đó thì việc sử dụng nguồn vốn không được kiểm soát một cách chặt
chẽ nên gây tham ô, lãng phí lớn nguồn vốn vay. Hậu quả tất yếu là nhiều doanh
nghiệp, dự án không đủ khả năng để trả nợ.
Chẳng hạn Vinashin, Vinalines, EVN… được chỉ định cho vay với số tiền
hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn tỷ đồng bất chấp hiệu quả của doanh
nghiệp này, trở thành những khoản nợ xấu cho ngân hàng. Ngoài ra, còn rất
nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước khác cũng rơi vào khó khăn và nhiều
khả năng không trả được nợ. Điển hình như các công ty sắt thép, xi măng trong
hai năm qua đã lỗ lên tới hàng nghìn tỷ đồng và phải cầu viện nguồn cứu trợ từ
phía Chính phủ.
Không chỉ có khu vực nhà nước rơi vào tình trạng “cha chung không ai
khóc”, để tình trạng nợ xấu tăng mạnh mà ngay cả các ngân hàng tư nhân cũng
không thoát khỏi. Nhiều ngân hàng tư nhân do thiếu các biện pháp quản trị rủi
ro, cho những khách hàng không đảm bảo điều kiện vay vốn. Hơn nữa, tình
trạng tiêu cực trong xét duyệt tín dụng cũng khá phổ biến.
Tuy nhiên, ngay cả đối với những ngân hàng được xem là “tử tế” và có hệ
thống kiểm soát rủi ro tốt cũng không thoát khỏi tình trạng nhóm lợi ích chi
5
phối. Những cổ đông lớn, lãnh đạo của ngân hàng sử dụng ngân hàng như là một
công cụ để huy động vốn từ người dân rồi cấp tín dụng cho doanh nghiệp của
mình, người thân… Điều này là rất rủi ro vì việc cho vay này đã bỏ qua những
đánh giá rủi ro khách hàng.
- Cho vay vượt tỷ lệ tối đa của Ngân hàng nhà nước:
Theo khoản 2 điều 5 của thông tư TT15/2009/TT- NHNN quy định về tỷ
lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn
đối với tổ chức tín dụng, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để
cho vay trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng như sau: Ngân hàng thương mại:
30%, Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính: 30%, Quỹ tín dụng nhân
dân trung ương: 20%. Tuy nhiên, trong cuộc chiến cạnh tranh gay gắt vẫn tồn tại
những thực trạng tiêu cực khi một số ngân hàng thương mại cho vay vượt quá
hạn mức tín dụng này bất chấp những rủi ro thanh khoản có thể xảy ra.
Ngày 18/7/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có văn bản
số 4315/NHNN-TTGSNH thông báo ý kiến của NHNN tới các tổ chức tín dụng
nước ngoài về việc cấp tín dụng cho một khách hàng vượt 15% vốn tự có theo
hình thức Rollover (hợp đồng tín dụng được ký trước ngày 01/01/2011). Tuy
nhiên, danh tính tổ chức tín dụng vi phạm không được NHNN nêu tên cụ thể.
1.2.3. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác
Ngoài một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động tín
dụng và huy động vốn kể trên, sự ganh đua không lành mạnh giữa các ngân hàng
còn có thể có một số biểu hiện như sau:
- Sử dụng các tên gọi, logo, chỉ dẫn địa lý dễ gây nhầm lẫn với các tổ chức tín
dụng nước ngoài, khiến cho khách hàng tưởng nhầm dịch vụ đó do tổ chức tín
dụng uy tín hoặc nổi tiếng cung cấp; cung cấp thông tin sai sự thật về các chiến
lược trong tương lai với các đối tác nước ngoài như: đối tác nước ngoài mua cổ
phần, ký kết hợp đồng hợp tác cung cấp dịch vụ… khiến cho khách hàng lầm
tưởng vào khả năng tài chính, khả năng kinh doanh của tổ chức tín dụng.
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
• Quảng cáo sai sự thật: Trong lĩnh vực ngân hàng, hành vi quảng
cáo sai sự thật có thể được thể hiện như tổ chức tín dụng quảng cáo
sai sự thật về khả năng tài chính, số lượng chi nhánh, mạng lưới
phục vụ, chất lượng và số lượng dịch vụ, đội ngũ nhân viên…
• Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể là hành
vi so sánh dịch vụ mình cung cấp với dịch vụ của các tổ chức tín
dụng khác theo hướng làm giảm uy tín của các tổ chức tín dụng
khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng để nhằm mục đích làm giảm
lượng khách hàng của các tổ chức tín dụng này.
6
• Ngoài ra, bắt chước sản phẩm quảng cáo của một tổ chức tín dụng
khác cũng thuộc nhóm hành vi này. Việc bắt chước như vậy sẽ làm
cho khách hàng nhầm lẫn về dịch vụ mình cung cấp là dịch vụ mà
khách hàng đã biết và tín nhiệm trước đó do tổ chức tín dụng khác
cung cấp.
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: Hoạt động khuyến mại là hoạt
động xúc tiến thương mại bình thường của các tổ chức tín dụng. Thực tế thời
gian qua cho thấy, trong cuộc chiến lãi suất, nhiều ngân hàng đưa ra các chương
trình khuyến mãi (bắt thăm trúng thưởng) hoặc tặng quà nhằm thu hút người gửi
tiền. Mặc dù vậy, vẫn có những hoạt động khuyến mãi có thể bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh và bị pháp luật cấm theo điều 46 Luật cạnh tranh:
• Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng (ví dụ: tổ chức
khuyến mãi không được phép, không công khai, không có sự hiện
diện của đại diện Sở thương mại, tổ chức khuyến mãi mà những
người trúng thưởng toàn là người nhà của nhân viên ngân hàng).
• Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa để
lừa dối khách hàng (ví dụ: khuyến mãi phát hành thẻ thanh toán
miễn phí nhưng không giải thích rõ cho khách hàng khiến khách
hàng tưởng lầm thẻ tín dụng).
• Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến
mại (ví dụ: các chi nhánh đưa ra các mức thưởng khác nhau).
• Cung ứng dịch vụ trong chương trình khuyến mãi với giá rẻ hơn
giá thành với thời gian vượt quá 45 ngày. Đây có thể là hiện tượng
bán phá giá dịch vụ, nếu kéo dài trong một thời gian dài sẽ ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng có ít khả năng tài
chính hơn.
- Gièm pha các ngân hàng khác: Trong hoạt động ngân hàng, hành vi gièm pha
các tổ chức tín dụng khác có thể được thể hiện như: nói xấu tổ chức tín dụng
khác, tung tin không chính xác về tình hình tổ chức hoặc hoạt động kinh doanh
của tổ chức tín dụng khác nhằm gây khó khăn cho hoạt động của tổ chức này. Để
minh họa cho trường hợp này có thể kể đến vụ ngân hàng ACB bị tung tin là
Tổng giám đốc bỏ trốn vào mấy năm trước khiến khách hàng gửi tiền đồng loạt
kéo đến ngân hàng đòi rút tiền.
- Ngoài ra, còn có một số hành vi khác như: xâm phạm bí mật kinh doanh của các
tổ chức tín dụng; ép buộc khách hàng…
7
2. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA CÁC HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN
HÀNG
2.1. Nguyên nhân của tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
2.1.1. Nhóm nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, bản chất và đặc điểm kinh tế vốn có của hoạt động ngân hàng trong
nền kinh tế thị trường
Những yêu cầu về đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, ứng xử -
cách thức cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng luôn gắn liền với mặt bằng kinh
tế - xã hội. Khi trình độ phát triển chung của xã hội tăng lên thì những biểu hiện
của cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng giảm đi và ngược
lại. Trình độ phát triển còn ở mức rất thấp nên những biểu hiện cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là tất yếu. Tình trạng này do sự tác động
tổng hợp của nhiều yếu tố:
(i) Vốn tự có thấp so với tổng tài sản Có theo quy định về Tỷ lệ an toàn tối
thiểu. Thông thường thì với các loại hình doanh nghiệp khác vốn tự có luôn phải
đáp ứng ở mức từ 60 - 70% so tổng vốn kinh doanh, nhưng với loại hình kinh
doanh ngân hàng thì vốn tự có thường chỉ chiếm khoảng 8% so tổng tài sản được
quy đổi theo rủi ro (Quy định về tỷ lệ an toàn tối thiểu). Nhiều ý kiến cho rằng
điều này là không bình đẳng và luôn khiến các NHTM kinh doanh mạo hiểm.
Chính sự mạo hiểm này tạo điều kiện cho những quyết định cạnh tranh ngược
với thông lệ về đạo đức kinh doanh.
(ii) Kinh doanh của các NHTM có phạm vi rộng và liên quan đến hầu hết
các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Việc đảm bảo lợi ích nhóm trong một số
trường hợp có thể xâm phạm các quy định về pháp lý và chuẩn mực kinh doanh.
Nếu như hệ thống ngân hàng hoạt động mạo hiểm, vì mục tiêu lợi nhuận mà bất
chấp pháp luật thì cái giá phải trả thường rất lớn. Các nghiên cứu cho thấy rằng
các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính những năm qua có nhiều nguyên nhân,
song nguyên nhân chủ yếu vẫn thuộc về hệ thống ngân hàng và khi khủng hoảng
bùng phát thì hậu quả nặng nề nhất vẫn thuộc về hệ thống ngân hàng.
(iii) Mỗi một sự biến động của các chính sách tiền tệ đều tác động mạnh
đến tính chất rủi ro của hệ thống ngân hàng. Và để giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh thì hệ thống ngân hàng luôn cần đến sự hậu thuẫn của hệ thống pháp luật.
Nếu như hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ và kém hoàn thiện sẽ luôn khiến các
NHTM phải đối mặt với nguy cơ rủi ro to lớn. Môi trường kinh doanh nhiều rủi
8
ro cũng được xem là “mảnh đất” thuận lợi cho các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
- Thứ hai, hành lang pháp luật chưa đồng bộ và hoàn thiện, tính pháp lý chưa
cao, chưa kiên quyết trong thực thi pháp luật
Việt Nam đã có một số cơ sở pháp lý nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nói chung cũng như trong hoạt động ngân hàng nói riêng như
Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010. Tuy nhiên,
để những cơ sở pháp lý này có hiệu lực trong thực tế thì đòi hỏi cụ thể hóa bằng
nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật, ví dụ: “Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh quy
định: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh…”. Vậy như thế nào là “các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh” trong hoạt động ngân hàng? Phạm trù “đạo đức kinh
doanh” nếu không được giải thích và lượng hoá phù hợp trên phương diện pháp
luật sẽ không thể áp dụng trong thực tế.
Trong bản thân hệ thống ngân hàng thì các văn bản pháp luật cũng chưa
đồng bộ và hoàn thiện, một số loại giao dịch trong kinh doanh, nhất là các loại
giao dịch tài chính mới, còn thiếu chế tài xử lý hiệu quả. Một số văn bản pháp
luật rất hay thay đổi và tính khả thi rất kém do quá trình xây dựng văn bản pháp
lý chưa có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và do vậy, không phù hợp với thực tiễn và
không thể triển khai trong thực tiễn. Hơn nữa, bản thân các NHTM luôn tìm
cách “lách luật” nên nhìn chung, tính khả thi của một số quy định pháp luật
trong việc chế định các hoạt động kinh doanh ngân hàng chưa cao, tình
trạng“nhờn luật” là khá phổ biến tại Việt Nam những năm qua. Điều này luôn
khiến môi trường kinh doanh ngân hàng tiềm ẩn rủi ro quá cao.
- Thứ ba, hệ thống giám sát tài chính còn yếu, hoạt động thụ động, năng lực cảnh
báo kém
Tại Việt Nam những năm qua, ta nhận thấy một thực tế là công tác thanh
tra, giám sát còn khá bất cập, có xu hướng chạy theo vấn đề riêng lẻ và nhìn
chung vẫn đi sau thực tiễn, kiểm tra các vấn đề bất cập nảy sinh từ thực tiễn hoạt
động kinh doanh của hệ thống ngân hàng, hầu như chưa đưa ra được nhiều các
cảnh báo để giúp phát hiện và ngăn chặn kịp thời các nguy cơ rủi ro và giúp toàn
hệ thông tránh được những hậu quả xấu, nhất là các hậu quả đến từ bên ngoài
gắn liền với các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu.
- Thứ tư, thị trường tài chính chưa phát triển, các nhu cầu về dịch vụ tài chính
trong nền kinh tế tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng
9
Tại Việt Nam hiện nay, do thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự
hiệu quả nên hầu hết các nhu cầu về vốn trong nền kinh tế chủ yếu vẫn do hệ
thống NHTM cung cấp. Trong điều kiện năng lực tài chính của hầu hết các
NHTM còn khá yếu thì để đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế
- xã hội ngày càng tăng cao luôn tạo ra các áp lực rất lớn đối với tất cả các
NHTM. Sự giới hạn về phạm vi, sản phẩm trong cạnh tranh sẽ làm cho tính chất
cạnh tranh trên thị trường truyền thống càng khốc liệt và tạo môi trường cho
những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh.
Thực tế là những năm qua, do nhu cầu vốn tín dụng tăng cao nên để đáp
ứng các nhu cầu này trong điều kiện khả năng da dạng hóa nguồn vốn ở hầu hết
các NHTM rất kém, đã dẫn tới các cuộc chạy đua nâng lãi suất huy động, gây
nhiều bất ổn đối với môi trường tín dụng, đồng thời cũng làm bất ổn môi trường
kinh tế vĩ mô, khiến Chính phủ rất khó khăn trong việc ổn định giá cả, kiểm soát
lạm phát.
- Thứ năm, tác động của hội nhập tài chính - ngân hàng quốc tế
Hội nhập tài chính quốc tế, về nguyên tắc, sẽ giúp hệ thống ngân hàng
Việt Nam hoạt động ngày càng hoàn thiện và hiệu quả trên cơ sở tiếp thu các
kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiếp cận kỹ thuật công nghệ và kỹ năng quản
lý kinh doanh ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, mục tiêu trong kinh doanh ngân
hàng là lợi nhuận, mục tiêu này luôn được các NHTM quốc tế hướng tới khi
thâm nhập các thị trường tài chính quốc tế và vì lợi nhuận, một số ngân hàng sẽ
bất chấp tất cả, kể cả xuyên thủng hàng rào pháp luật. Chính vì thế, nếu như các
quốc gia với nền tảng pháp lý còn bất cập mà đã vội vã mở cửa hội nhập thì cái
giá phải trả thường là lớn. Hơn nữa, sự hội nhập tài chính khu vực và toàn cầu sẽ
khiến các quốc gia phải đối mặt với các tác động tiêu cực từ các cuộc khủng
hoảng tài chính quốc tế, các cuộc khủng hoảng tài chính luôn khiến cho môi
trường kinh doanh của hệ thống ngân hàng bất ổn và để tự phòng vệ và chiến
thắng trong cạnh tranh, các NHTM luôn có xu hướng tìm cách “lách luật”, điều
này không chỉ diễn ra tại các nước đang phát triển, mà là vấn đề chung toàn cầu
nếu như các chế tài pháp luật không đủ mạnh.
2.1.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan về phía các NHTM
- Thứ nhất, các NHTM Việt Nam khó khăn trong việc triển khai các loại hình dịch
vụ mới
Hiện tại hầu hết các NHTM Việt Nam đang có khó khăn trong việc triển
khai các dịch vụ mới do các loại hình dịch vụ này luôn đòi hỏi nền tảng kỹ thuật
công nghệ hiện đại, đòi hỏi chi phí lớn, năng lực quản lý cao nhưng vốn chủ sở
hữu của hầu hết các NHTM Việt Nam thì đều quá nhỏ.
10
Thực trạng trên đây cho thấy rằng hầu hết các NHTM Việt Nam chỉ có thể
triển khai các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống do năng lực tài chính
quá. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng này đều mới được thành lập và hoạt động
trong vòng trên dưới 10 năm trở lại đây, kinh nghiệm kinh doanh cũng như uy
tín thương hiệu chưa cao, nên rất khó khăn trong việc mở rộng thị trường.
- Thứ hai, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao ở một số NHTM
Kinh doanh của các NHTM có mức độ rủi ro cao nên rất cần có sự chấp
hành tốt các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực trạng tại Việt Nam những
năm qua, một số NHTM không tuân thủ nghiêm túc luật pháp, kinh doanh quá
mạo hiểm làm cho môi trường kinh doanh luôn trong tình trạng bất ổn. Các
NHTM không những không tuân thủ khung lãi suất, tỷ giá do NHNN ban hành,
mà luôn tìm cách lách khung quy định. Hầu hết các quy định về tỷ lệ tăng trưởng
tín dụng chung cũng như trong một số lĩnh vực về bất động sản, chứng khoán
không được tuân thủ nghiêm túc.
- Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập
Bên cạnh nguyên nhân hạ tầng kỹ thuật không đáp ứng được yêu cầu triển
khai các loại hình dịch vụ mới thì một nguyên nhân khác không thể không tính
tới đó là chất lượng nguồn nhân lực tại hầu hết các NHTM Việt Nam còn khá bất
cập.
Trình độ
Toàn hệ
thống
NHNN
NHTM
NN
NHTM
CP
NHLD,
NNg
Tổ chức
khác
Tiếnsỹ 0,28 0,67 0,31 0,26 0,11 0,2
Thạc sỹ 3,48 6,3 4,61 2,97 2,9 1,2
Đại học/Cao
đẳng
62,59 64,28 62,46 66,83 78,24 73,6
Trung cấp 20,08 8,68 17,83 20,38 0,84 2,1
Sơ cấp và chưa
qua đào tạo
13,57 20,07 14,79 9,56 17,91 22,9
Bảng 1: Cơ cấu trình độ nhân lực của hệ thống NH Việt Nam tính đến
31/12/2009 (Đơn vị: %)
Bảng 1 cho thấy: nếu tính chung cho toàn hệ thống NH Việt Nam đến cuối
năm 2009 thì vẫn có tới trên 33% lực lượng lao động đào tạo ở mức thấp và
chưa qua đào tạo. Đối với lực lượng đào tạo từ đại học/cao đẳng trở lên thì có tới
11
gần 63% mới qua đào tạo bậc đại học/cao đẳng. Số lượng cán bộ được đào tạo
trên đại học quá thấp. Trong đó, đặc biệt đối với khối NHTM cổ phần thì chỉ
khoảng 3% được đào tạo trên đại học.
Các nước phát triển Các nước đang phát triển
Anh Nhật
CHLB
Đức
Malaysia Thailand
% ĐH và
trên ĐH
78 75 77 62
65
Bảng 2: Cơ cấu lao động ở một số ngân hàng các nước năm 2004
Bảng 2 đưa ra các tư liệu so sánh và thấy rằng chất lượng nguồn nhân lực
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2009 chỉ tương đương các nước khu
vực của năm 2004 và kém khá xa so với chất lượng nguồn nhân lực các NHTM
các nước phát triển. Đi sâu xem xét cơ cấu đào tạo thì thấy rằng, số cán bộ được
đào tạo theo đúng chuyên ngành tài chính - ngân hàng chỉ chiếm khoảng trên
dưới 43%. Có tới trên dưới 40% được đào tạo chuyên ngành khác (Xem Bảng 3)
Tài chính - ngânhàng Kinh tế Đào tạo khác
NHNN 41,0 15,0 44,0
NHTM 43,0 18,0 39,0
Bảng 3: Cơ cấu chuyên ngành đào tạo đến 31/12/2009 (Đơn vị: %)
Với thực trạng chất lượng nguồn nhân lực như vậy thì sẽ rất khó khăn cho
các NHTM mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng mới, và có thể nói, nếu các
NHTM càng mở ra các loại hình dịch vụ mới thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Đồng
thời, một thực trạng cũng phải được nhìn nhận là chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực đa phần các trường đại học tại Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu kinh doanh
ngân hàng. Sự yếu kém về kỹ năng tác nghiệp trong kinh doanh ngân hàng là
khá phổ biến hiện nay. Trong điều kiện như vậy, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh,
không được quản trị đúng mức không có gì là khó hiểu cả. Nghĩa là sự cạnh
tranh thiếu lành mạnh hiện nay tại hầu hết các NHTM Việt Nam có nguyên nhân
từ sự hiểu biết chưa sâu về hoạt động ngân hàng của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, nhân viên trong các NHTM. Sự nhận thức chưa thấu đáo về lĩnh vực kinh
doanh, đặc biệt phần lớn cán bộ lại chưa có nhận thức đúng về vai trò và sự tác
động của kinh doanh ngân hàng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội chung, có
12
thể sẽ gây những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế - xã hội trên nhiều phương
diện.
- Thứ tư, hạ tầng kỹ thuật công nghệ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam nhìn
chung còn khá lạc hậu, gây khó khăn cho việc triển khai các loại hình dịch vụ
mới
Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh bậc cao, nó luôn đòi hỏi hệ
thống hạ tầng cơ sở phải ở mức tương xứng thì mới có thể triển khai hoạt động
được, đặc biệt là đối với các loại hình dịch vụ mới. Theo tính toán và kinh
nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm
76% chi phí hoạt động ngân hàng. Nhưng đây là một lĩnh vực đòi hỏi sự đầu tư
rất lớn (ví dụ như để xây dựng hệ thống thông tin quản lý cho một NHTM NN
cần phải chi phí tới 500 - 600 tỷ đồng). Nhận thức được vai trò của hạ tầng kỹ
thuật trong hoạt động của hệ thống ngân hàng nên những năm qua, các NHTM
Việt Nam rất chú trọng đầu tư đổi mới kỹ thuật nên nhìn chung, hạ tầng kỹ thuật
của hệ thống ngân hàng đã được nâng cấp và cải thiện về căn bản. Tuy nhiên,
như đã đề cập thì do vốn tự có của các NHTM Việt Nam khá thấp, đặc biệt đối
với các NHTM cổ phần nhỏ, nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ luôn bị hạn
chế. Chính vì thế, hạ tầng kỹ thuật của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Theo WB, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp
kém. Chỉ số công nghệ ngân hàng ở Việt Nam mới chỉ là -0,47. Trong khi ở
Trung Quốc là -0,35; Thái Lan là -0,07, Indonesia là -0,07, Malaysia là 1,08 và
của Singapore là 1,95.
2.2. Hậu quả của tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống ngân
hàng
2.2.1. Hậu quả đối với nền kinh tế - xã hội
Như đã đề cập và phân tích thì tình trạng cạnh tranh không lành mạnh sẽ
khiến cho thị trường tài chính bất ổn, và sự bất ổn của thị trường tài chính sẽ tác
động xấu đến sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiệu lực và hiệu quả của các chính
sách (nhất là chính sách tiền tệ) trong ngắn hạn và dài hạn bị ảnh hưởng nghiêm
trọng trong bối cảnh nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng xuất hiện. Những ảnh hưởng không tốt của cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng làm giảm lòng tin của xã hội đối với nhiều
chính sách của Nhà nước. Hơn nữa, những biểu hiện trên thị trường ngân hàng
Việt Nam trong những tháng đầu năm 2011 cho thấy dấu hiệu của sự suy giảm
chất lượng, trình độ phát triển thị trường.
13
Thực tế những năm qua tại Việt Nam phản ánh rất rõ tác động của sự cạnh
tranh không lành mạnh thể hiện trên 2 phương diện chính:
- Lãi suất tăng cao:
Để thu hút khách hàng, các NHTM đã biến tấu theo rất nhiều cách thức
khác nhau nhằm tăng lãi suất huy động theo các kỳ hạn, theo hạn mức gửi tiền,
kết quả là lãi suất huy động ở một số NHTMCP xấp xỉ 19%/năm vào năm 2008.
Do tăng lãi suất huy động nên lãi suất cho vay ở không ít NHTM đã xấp xỉ
25%/năm. Đây là mức lãi suất vượt quá sức chịu đựng của hầu hết các doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Việc tăng lãi suất huy động và cho vay đã làm cho chi
phí vốn trên thị trường tài chính lên quá cao và điều này có nghĩa là các NHTM
đang làm mất đi vai trò của mình với tư cách là một trung gian tài chính và thông
qua đòn bẩy lãi suất để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
- Tỷ giá biến động phức tạp:
Trong các năm 2008- 2010, mặc dù NHNN đã đưa ra tỷ giá giao dịch
chính thức và biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ cho các TCTD, tuy nhiên, hầu
như các TCTD không chấp hành các qui định này và thường thông qua các biện
pháp: tính phí giao dịch, yêu cầu khách hàng phải mua ngoại tệ trực tiếp trên thị
trường sau đó đem gửi vào NHTM mới được thực hiện các giao dịch trong thanh
toán quốc tế kết quả là mọi rủi ro đều do khách hàng tự gánh chịu, đồng thời,
cũng tự đánh mất đi vai trò của mình là người “tạo giá sơ cấp” trên thị trường
hối đoái. Có thể nói trong giai đoạn vừa qua các NHTM Việt Nam chưa làm
được vai trò là thế lực dẫn dắt thị trường, mà luôn đi sau thị trường và có vẻ như
đang tìm cách trục lợi nhờ cơ chế “2 giá” trên thị trường hối đoái. Điều này đã
gây những khó khăn và tổn thất lớn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và làm
mất đi vai trò của tỷ giá với tư cách một công cụ giúp kích hoạt và điều tiết các
hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam.
2.2.2. Hậu quả đối với các khách hàng của NHTM
Nhìn bên ngoài, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh có vẻ như tạo
cơ hội tốt hơn cho khách hàng ví dụ như trong những trường hợp “giành giật”
khách hàng của các NHTM. Tuy nhiên, những lợi ích đó chỉ là ngắn hạn và
không có lợi về dài hạn cho khách hàng. Những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nếu tiếp tục sẽ tác động không tốt đối với khách hàng: họ không có được
thông tin đáng tin cậy, họ được hưởng những dịch vụ ngân hàng ít có cải thiện về
chất lượng, mối quan hệ gắn bó dài hạn với các NHTM ít được quan tâm và khó
thiết lập…
14
Về nguyên lý thì khi thị trường tài chính có mức độ cạnh tranh cao luôn là
cơ hội cho khách hàng của họ - với tư cách là những người hưởng lợi nhờ chi phí
giảm. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam những năm qua lại không cho thấy điều
này, thậm chí ngược lại, các khách hàng lại đang phải gánh chịu những chi phí
giao dịch ngày càng tăng lên. Các phân tích trên đây đã chỉ ra thực trạng này. Sở
dĩ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam vẫn phải chấp nhận vay vốn
với lãi suất cao tại các NHTM bởi vì thực tế họ cũng không có cách nào khác để
có thể tiếp cận được nguồn vốn do thị trường tài chính hoạt động kém hiệu quả.
Có thể nhìn nhận rằng các NHTM Việt Nam đang thể hiện vai trò quá mờ
nhạt trên thị trường tài chính. Và một khi các NHTM chưa thực sự thể hiện được
vai trò, chức trách của một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trên thị
trường thì luôn đem đến những hệ quả không có lợi đối với các khách hàng nói
riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung.
2.2.3. Hậu quả đối với các NHTM
Sự cạnh tranh, suy cho cùng, là để các NHTM tự khẳng định uy tín,
thương hiệu của trên thị trường. Kết quả của sự cạnh tranh được đo lường bằng
các chỉ số về thị phần, kết quả kinh doanh nhưng để đạt được hiệu quả lâu dài thì
uy tín, thương hiệu là nhân tố có tính quyết định. Tuy nhiên, nếu là sự cạnh tranh
thiếu lành mạnh thậm chí bất chấp pháp luật, thì các kết quả nếu có đạt được thì
cũng chỉ là ngắn hạn, suy cho cùng cũng chỉ là kinh doanh theo kiểu “hớt váng”
mà thôi. Hậu quả cuối cùng sẽ không chỉ là các khách hàng của NHTM phải
gánh chịu, mà gián tiếp tác động đến chính các NHTM. Lý do là: Một khi các
doanh nghiệp gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ sẽ tác động đến chất lượng các
khoản tín dụng cũng như các khoản mà NHTM đã thực hiện bảo lãnh. Cũng
tương tự như vậy, một khi các khách hàng khó khăn trong tiếp cận vốn ngoại tệ
và phải đi mua trực tiếp trên thị trường tự do thì cũng tác động xấu tới hiệu quả
hoạt động kinh doanh và điều này lại tác động xấu tới uy tín, thương hiệu của
chính các NHTM.
Việc lách luật, đặc biệt là lách trần lãi suất gây ra cho các ngân hàng
thương mại rủi ro tín dụng nghiêm trọng, và cụ thể là tỷ lệ nợ xấu trong toàn
ngành ngân hàng nói chung, và trong từng ngân hàng thương mại nói riêng liên
tục tang cao và trở thành một trong những hệ quả rõ ràng nhất mà chúng ta thấy
trong bối cảnh hiện nay. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối
năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là 3,3%. Tuy nhiên,
theo báo cáo của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu thực sự có thể cao gấp 4 lần so với
số liệu công bố, nghĩa là khoảng 13%. Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các
TCTD báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín
dụng. tăng mạnh so với con số cùng kỳ năm ngoái. Đến tháng 8, Thống đốc
15
Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình công bố, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống đã
lên tới khoảng 10%. Tuy
nhiên, theo quan sát quốc tế,
tình hình nợ xấu của Việt
Nam còn tồi tệ hơn nhiều.
Theo các chuyên gia phân
tích của Fitch Ratings, con
số này đã lên tới 15%. Hãng
xếp hạng tín dụng Fitch
Ratings cảnh báo chất lượng
tài sản của các ngân hàng có
thể xấu hơn và khả năng hấp
thụ các khoản nợ xấu của Chính phủ là không rõ ràng. Các chuyên gia nước
ngoài nhận định nợ xấu của các ngân hàng là nguy cơ lớn nhất đối với hệ thống
tín dụng.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động yếu kém của hệ thống ngân
hàng nói chung và tác động xấu từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng nói riêng đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề
đối với không chỉ những khách hàng trực tiếp của ngân hàng mà còn đối với
chính các NHTM và cả toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, để ngăn ngừa sự suy yếu,
thậm chí sụp đổ của hệ thống NHTM- mạch máu của nền kinh tế thì hoạt động
cạnh trang của hệ thống ngân hàng phải được quản lý chặt chẽ hơn, với những
biện pháp cụ thể và hiệu quả hơn.
3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM CHỐNG HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về chống hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng, xuất phát từ thực trạng cạnh tranh không lành
mạnh và hệ thống kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng Việt Nam thời gian qua, nhóm chúng em đề xuất các giải pháp và kiến nghị
nhằm chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
Việt Nam như sau:
3.1. Giải pháp nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng tại Việt Nam
3.1.1. Hệ thống giải pháp thuộc các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm chống hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
16
Hình 2.1. Tỉ lệ nợ xấu của một số ngân hàng năm
- Ban hành và áp dụng các quy định pháp lý nhằm xử lý nghiêm các hành vi trên
cơ sở đánh giá tác động thực tế hoặc nguy cơ tác động thực tế từ hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
Hiện tại, Liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh hiện nay Điều 39 của
Luật cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 14/12/2004 quy định về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; Xâm phạm bí mật kinh
doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp khác; Gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh; Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Phân biệt đối xử của
hiệp hội; Bán hàng đa cấp bất chính; Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khác. Đồng thời, Chính phủ ban hành Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày
30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Do
hoạt động ngân hàng mang tính chất đặc thù, nhiều hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng chưa được cụ thể hoá trong Luật Cạnh
tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP, cho đến nay các vụ việc liên quan đến
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng gần như chưa
được thanh tra, điều tra phát hiện và xử lý.
Ngoài ra, hoạt động của các ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng
nói chung còn chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng số
47/2010/QH12 ngày 16/6/2010. Theo điều 9 của Luật này, “Tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động
ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật; Nghiêm
cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các
hành vi này.”
Tuy vậy, có thể thấy rằng cả 2 Luật trên đều chưa quy định cụ thể, chi tiết
các hành vi không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cũng như chế tài xử lý
các hành vi đó. Tháng 6/2011, Ngân hàng Nhà nước đã trình dự thảo ban hành
Nghị định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
với những quy định rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này. Do vậy, Chính phủ cần
mau chóng chỉnh sửa và thông qua dự thảo để Nghị định sớm được ban hành và
đi vào thực tiễn.
Mục đích của giải pháp này là tăng cường tính răn đe về phương diện
pháp luật và tài chính nhằm hạn chế ý định cũng như xử phạt các tổ chức thực
hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
17
- Chỉ định/ thành lập cơ quan chịu trách nhiệm chính về chống cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
Hiện nay, mới chỉ một phần rất nhỏ trong các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng mới chỉ được phát hiện. Nguyên nhân là
vì chưa có một cơ quan nào được thành lập chuyên trách để đảm nhiệm vai trò
quản lý vấn đề này. Những sự việc như Ngân hàng Nhà nước "tuýt còi"
Techcombank vì vượt trần lãi suất huy động vào cuối năm 2010 hay “tuýt còi”
ngân hàng ngoại vi phạm cho vay vượt 15% vốn tự có theo hình thức Rollover
(hợp đồng tín dụng được ký trước ngày 01/01/2011) chỉ là những là số ít những
hành động can thiệp đối với các ngân hàng có hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bởi nhiệm vụ chính của NHNN là điều hành chung chính sách tiền tệ. Do
đó, NHNN khó có thể theo dõi sát sao để kịp thời nhận diện và đưa ra can thiệp
kịp thời đối với tất cả các hành vi vi phạm trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Mục tiêu căn bản của giải pháp này là nhằm đảm bảo trách nhiệm rõ ràng,
cụ thể và tập trung đối với việc chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng thời gian tới ở Việt Nam.
- Xây dựng, áp dụng bộ tiêu chí nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và quy trình chuẩn đánh giá tác động thực tế của các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
Mục tiêu chính của giải pháp này là chuẩn hoá việc nhận diện và đánh giá
tác động thực tế hoặc tác động có thể có của mỗi hành vi cạnh tranh, tạo cơ sở/
minh chứng quan trọng cho việc ngăn chặn hoặc xử lý hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
- Ban hành và ứng dụng khung quy tắc về đạo đức nghề nghiệp/ đạo đức kinh
doanh trong lĩnh vực ngân hàng
Mục tiêu của giải pháp này là tạo nền tảng dài hạn để ngăn ngừa hành vi,
căn cứ nhận diện/ xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và định hướng
phát triển đạo đức kinh doanh cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch
vụ ngân hàng ở Việt Nam.
3.1.2. Hệ thống giải pháp đối với các NHTM nhằm chống hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được kết hợp hiệu quả từ sức mạnh thị
trường, hiệu quả trong hoạt động và sự lành mạnh về tài chính.
18
Theo kết quả được công bố trong báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm
Việt Nam 2012 do Văn phòng Chủ tịch nước, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Công ty Cổ phần Xếp hạng tín nhiệm doanh
nghiệp (CRV) tổ chức, có 32 ngân hàng trong tổng số hơn 40 ngân hàng thương
mại trong nước đã được nghiên cứu xếp hạng năng lực cạnh tranh. Kết quả có 9
ngân hàng xếp hạng A, 9 ngân hàng hạng B, 11 ngân hàng hạng C và 3 ngân
hàng hạng D. Những ngân hàng còn lại không có mặt trong danh sách như
LienViet PostBank, TienPhong Bank, VietCapital Bank, Agribank, SeaBank,
SCB, TrustBank và GPBank… do thiếu một phần hoặc toàn bộ thông tin cần
thiết để xếp hạng.
Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh giữa các ngân hàng trên thực tiễn chính là do năng lực cạnh tranh của
nhiều ngân hàng còn chưa cao (chủ yếu là các ngân hàng nhỏ). Do đó, họ phải sử
dụng các phương thức cạnh tranh không lành mạnh để thu hút nguồn vốn huy
động như chạy đua lãi suất, quảng cáo không trung thực, khuyến mãi Để ngăn
chặn từ gốc rễ của vấn đề này, các ngân hàng phải tự mình nâng cao năng lực
cạnh tranh trên mọi phương diện: năng lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực,
trình độ công nghệ, thị phần, hệ thống kênh phân phối, phát triển các sản phẩm
mới và quảng bá thương hiệu.
Mục tiêu của giải pháp này là ngăn chặn nguồn gốc sâu xa của việc sử
dụng hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại các NHTMVN trong những năm
tới trên cơ sở năng lực cạnh tranh được phát triển tốt và kiểm soát hiệu quả trong
thực tế.
- Nâng cao quản lý điều hành
Những năm gần đây, liên tục xuất hiện các thông tin như cách chức
trưởng chi nhánh của một ngân hàng nào đó vì có hiện tượng chi nhánh huy
động vượt trần lãi suất hay thậm chí là bị bắt do lợi dụng quyền hạn của mình để
thực hiện các hợp đồng tín dụng, bảo lãnh trái với các quy định. Ví dụ như:
Sáng 15/9/2011, Giám đốc ngân hàng Đông Á đã công bố quyết định tạm đình
chỉ chức vụ giám đốc chi nhánh Tây Ninh của ông Nguyễn Thái Hậu vì lý do
không tuân thủ chỉ đạo về trần lại suất huy động tiền. Mới đây, ngày 18/5, Cơ
quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Đỗ Đức
Hưng (56 tuổi, nguyên giám đốc chi nhánh Hồng Hà, thuộc ngân hàng Agribank
Hà Nội) về hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ.
Ông Hưng được cho là đã lợi dụng quyền hạn ký 8 bảo lãnh thanh toán
không có hồ sơ, không hạch toán, không thu phí bảo lãnh cho một số công ty,
19
với tổng số tiền hơn 345 tỷ đồng. Hiện các công ty này còn nợ ngân hàng hơn
180 tỷ đồng.
Những sự việc này xảy ra thể hiện rõ ý thức trách nhiệm và năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý ở các NHTM là chưa cao. Do vậy, công
tác nâng cao quản lý điều hành trong các NHTM cần phải được đặc biệt chú
trọng trong thời gian tới.
Do đó, mục tiêu của giải pháp này là nâng cao ý thức trách nhiệm và năng
lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý của các NHTM nhằm chống sử dụng
hoặc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Minh bạch thông tin
Về lý thuyết, hiện tượng thông tin bất cân xứng chính là nguyên nhân dẫn
tới rủi ro lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trên thực tế, đối với các ngân
hàng, các thông tin về khả năng thanh khoản, tình hình tài chính hiếm khi được
công bố chính thức và dù công bố thì tính xác thực cũng còn nhiều điều đáng
nghi vấn. Điều này được thể hiện rõ khi tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng
Việt Nam do các tổ chức nước ngoài đưa ra luôn cao gấp 2-3 lần so với số liệu
do NHNN cung cấp.
Do đó, mục đích của giải pháp này nhằm chống lại những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thông qua việc sử dụng các thông tin không đúng và gây
dựng niềm tin dài hạn đối với công chúng và các cơ quan quản lý Nhà nước.
Giải pháp này nhằm hạn chế những rủi ro thông tin bất cân xứng trong hoạt động
của hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống Tài chính nói chung.
3.2. Kiến nghị
Về dài hạn, nhóm nghiên cứu chúng em xin đưa ra những kiến nghị đối
với Chính phủ và các bộ ngành liên quan như sau:
- Chính phủ tiếp tục phát huy các giải pháp nhằm ổn định vĩ mô và môi
trường cạnh tranh. Kiên định áp dụng các nguyên tắc thị trường, các
chính sách phát triển cạnh tranh minh bạch và ổn định.
- Phát triển thị trường vốn hơn nữa để giảm sự phụ thuộc thái quá vào
hệ thống ngân hàng như hiện nay.
- Chính phủ và các bộ ngành kiên quyết ủng hộ xử lý nghiêm, công bố
công khai những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Chính phủ yêu cầu các cơ quan trực thuộc thực hiện đúng và đủ trách
nhiệm giải trình và công bố thông tin về chính sách phát triển kinh tế-
20
xã hội. Yêu cầu các cơ quan này có báo cáo đánh giá tác động của
chính sách về phương diện thị trường, phương diện cạnh tranh
- Công tác giám sát an toàn hoạt động của hệ thống TCTD cần phải
nâng cao hơn nữa để để sớm phát hiện các rủi ro hệ thống, có nguy cơ
mất ổn định hệ thống nhằm triệt tiêu từ xa các nguyên nhân đằng sau
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
21
KẾT LUẬN
Qua những phân tích như trên, ta có thể thấy được những hệ quả khôn
lường mà cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho nền kinh tế - xã hội, cho khách
hàng của ngân hàng và cho chính các ngân hàng thương mại.
Do thị trường chứng khoán Việt Nam còn chưa phát triển ổn định, nên
ngân hàng thương mại là kênh dẫn vốn chủ yếu từ người thừa vốn tới người
thiếu vốn, giúp cho nguồn lực trong xã hội được sử dụng hiệu quả - nguồn lực
vốn đã khan hiếm đối với nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng tốc như nước ta
hiện nay.
Chính vì các ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt như vậy, việc làm
trong sạch, minh bạch các thông tin trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng là điều
hết sức cần thiết, để giữ lại uy tín cho chính ngân hàng và giữ vững được niềm
tin cho khách hàng - là những người quyết định sự sống còn của các ngân hàng.
Lựa chọn đề tài như trên đây, nhóm chúng em đã trình bày những biểu
hiện về cuộc cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM ở Việt Nam, nêu ra
một số nguyên nhân cho những hành vi này và kiến nghị một số giải pháp mà
chúng em cho là cần thiết và có thể hữu ích để ngăn chặn vấn đề nhức nhối này.
Chúng em hi vọng rằng, bài phân tích sẽ đưa ra những cái nhìn sơ lược về
vấn đề, và giúp cho các sinh viên đang học ngành Tài chính - Ngân hàng có thể ý
thức được những nguy cơ mà vấn đề đem lại. Họ sẽ là những người sau này, khi
ra làm việc, sẽ góp phần xây dựng hệ thống ngân hàng lành mạnh, phát triển bền
vững.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NSUT, TS. Kiều Hữu Thiện, “Cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống
ngân hàng và những hệ quả đối với nền kinh tế- xã hội”, Tạp chí Ngân
hàng số 9- tháng 5/2012.
2. Đặng Hữu Mẫn, Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại Việt Nam, Tạp chí khoa học và công nghệ- Đại học Đà Nẵng, số 5 2010.
/>3. Luật cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004.
4. Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
5. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Tờ trình chính phủ về việc ban hành nghị
định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng,
tháng 6 năm 2011.
6. NHNN, Thông tư TT15/2009/TT- NHNN
7. />suat.htm
8.
duc-ngan-hang/26479.bld
9.
mot-nghi-dinh-de-quan-ly/126/6839647.epi
10.
giam-12902916.html
11. Tin-dung Ngan-
hang/Thong-tu-19-2012-TT-NHNN-cua-Ngan-hang-Nha-nuoc aspx
23