Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đầu năm 2012 tới nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.22 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
oOo
BÀI TẬP NHÓM
Môn: Tiền tệ – Ngân hàng
Đề tài: Vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ
đầu năm 2012 tới nay
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hiền
Sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Phương Anh – MSV: 1001030020
2. Trần Trang Anh – MSV: 1001010065
3. Vũ Quỳnh Liên – MSV: 1001030196
4. Nguyễn Minh Huệ – MSV: 1001010385


5. Chu Minh Châu – MSV: 1001030058
Lớp tín chỉ: TCH303(1-1213)_LT.3
Hà Nội ngày 17 tháng 12 năm 2012
1
A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Tính thanh khoản của các ngân hàng là vấn đề vô cùng quan trọng, tác động
mạnh mẽ tới lợi nhuận cũng như sự tồn tại của các ngân hàng. Mục tiêu thanh khoản
không chỉ là một trong ba mục tiêu lớn của quản trị vốn của ngân hàng thương mại mà
hơn thế nữa, nó còn được coi là mục tiêu hàng đầu. Sở dĩ tính thanh khoản có vị thế
cao như vậy bởi nó chính là vấn đề trung tâm đáp ứng nghĩa vụ cơ bản nhất của ngân
hàng, một là đáp ứng nhu cầu rút tiền, thanh toán của khách hàng, hai là thỏa mãn nhu

cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng và cộng đồng. Ngân hàng sẽ mắc phải rủi ro
thanh khoản nếu không thỏa mãn kịp thời mỗi nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt.
Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh bị đình trệ, nặng thì làm mất
khả năng thanh toán dẫn tới việc phá sản ngân hàng, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ toàn hệ
thống.
Một ví dụ minh chứng cho tác động to lớn của rủi ro thanh khoản đối với ngân
hàng chính là sự sụp đổ của ngân hàng Northern Rock. Trước thời điểm gặp nạn,
Northern Rock là ngân hàng cỡ trung bình ở Anh, đứng thứ 5 trong lĩnh vực cho vay
thế chấp nhà ở (mortgage), và kết quả kinh doanh của Northern Rock được coi là khá
lành mạnh. Tuy nhiên, sau những thông tin cho rằng Northen Rock cho vay thế chấp
tràn lan và đang khan hiếm tiền mặt, thanh khoản kém, hàng ngàn người gửi tiền tiết
kiệm tại ngân hàng này đã xếp hàng từ sáng tới tối tại toàn bộ 76 chi nhánh của ngân

hàng này để rút bằng được lượng tiền gửi của mình. Điều này đã dẫn tới việc sụt giảm
ngay lập tức 31,46% giá cổ phiếu của Northern Rock trên thị trường chứng khoán và
cả hệ lụy là đồng bàng Anh bị giảm giá nghiêm trọng. Sự hỗ trợ từ việc bơm tiền cũng
như những phát biểu trấn an dân chúng của ngân hàng Trung ương Anh (BOE) cũng
không thể cứu giúp cho ngân hàng này, dẫn tới việc bị quốc hữu hóa vào ngày
22/03/2008.
2
Sự sụp đổ của Northern Rock là bài học đáng giá cho không chỉ các ngân hàng
của Anh mà là cho tất cả các ngân hàng trên thế giới. Tại Việt Nam, năm 2012 là một
năm khó khăn của hệ thống ngân hàng trong việc đáp ứng tính thanh khoản. Khủng
hoảng tài chính do nền bong bóng bất động sản đã gây ra tình trạng nợ xấu cao cho
toàn hệ thống ngân hàng khiến các ngân hàng mất khả năng thu hồi vốn vay, dẫn đến

tính thanh khoản sụt giảm. Trong sự khó khăn đó, tài chính Việt Nam đã chứng kiến
một số biến cố về nhân sự, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng, mà điển
hính là ngân hàng ACB. Điều này đã gây ra sự biến động trong lãi suất liên ngân hàng
cũng như hoạt động bơm hút vốn của NHTW trên thị trường OMO.
Nhận thấy sự phức tạp của vấn đề thanh khoản các ngân hàng Việt Nam trong
thời gian qua và ảnh hưởng sâu sắc của nó tới toàn bộ nền kinh tế, nhóm chúng em xin
được nghiên cứu đề tài “Vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng từ đầu năm
2012 đến nay” để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quan về vấn đề thanh khoản của
toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam trong năm qua, từ đó đưa ra một số giải pháp phần
nào khắc phục hiện trạng này.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
- Đưa ra những vấn đề lý thuyết cơ bản về rủi ro thanh khoản và các vấn đề liên

quan đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
- Phân tích đánh giá thực trạng tính thanh khoản của toàn hệ thống thông qua
những diễn biến trên hai thị trường OMO và liên ngân hàng, chính sách của ngân hàng
nhà nước từ năm đầu năm 2012 đến nay.
- Đề xuất nhóm giải pháp tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống và thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
3
Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU 2
I. Tính cấp thiết của đề tài 2
II. Mục tiêu nghiên cứu: 3
3. Các ngân hàng thương mại: 14

3.2. Nợ xấu: 16
2. Chiến lược quản trị rủi ro của các NHTM: 17
C. KẾT LUẬN 20
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
B. NỘI DUNG
I. Lý thuyết về rủi ro thanh khoản:
1. Khái niệm tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản
1.1.Khái niệm tính thanh khoản:
Tính thanh khoản là một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một tài sản
bất kì có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng gì đến giá tri
thị trường của tài sản đó. Các cách gọi thay thế cho tính thanh khoản là tính lỏng, tính
lưu động.

Ví dụ: chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu có khả năng đổi thành tiền
mặt dễ dảng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu.
1.2.Khái niệm rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có hả năng cung ứng đầy
đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời, hoặc cung ứng đủ nhưng với chi
phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu
khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể
vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản
Tính thanh khoản của một ngân hàng gặp vấn đề có thể do những nguyên nhân
cơ bản sau:
I.1 Mất cân đối kì hạn nguồn vốn và sử dụng vốn

4
Tình trạng mất cân đối kì hạn nguồn vốn và sử dụng vốn xảy ra khi ngân hàng
vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính
khác, sau đó chuyển hóa chúng thành những tài sản dài hạn, dẫn đến dòng tiền thu về
đầu tư nhỏ hơn dòng tiền chi ra đẻ trả cho các khoản tiền gửi đến hạn.
2.2 Ảnh hưởng của lãi suất
Sự tác động của lãi suất có thể tác động đến cả người gửi tiền và người vay vốn.
Khi lãi suất giảm, một số người gửi tiền rút vốn khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có
tỷ suất sinh lời cao hơn, còn những người đi vay lại tích cực tiếp cận các khoản tín
dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước. Như vây, lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến trạng
thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng của sự thay đổi lãi suất
còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để

tăng thêm nguồn cung thanh khoản và trưc tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên
thị trường tiền tệ.
2.3 Chiến lược quản trị rủi ro của ngân hàng
Ngân hàng có những chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và
kém hiệu quả như: các chứng khoán đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của
ngân hàng không đủ cho nhu cầu tri trả
II. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng từ đầu năm 2012 tới nay
1. Thị trường Liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng vốn là thị trường cứu cánh giữa các ngân hàng với
nhau. Tuy nhiên những dư âm ảm đạm từ cuối 2011 đã khiến người ta có viễn cảnh
không mấy lạc quan về giới ngân hàng nói riêng và về nền kinh tế nói chung trong
năm 2012.

Áp lực thanh khoản đã được Ngân hàng Nhà nước nhìn thấy từ tháng 6/2011, khi
mà hầu như toàn bộ cơ cấu kỳ hạn tiền gửi của hệ thống ngân hàng trong tình trạng
“giật gấu vá vai” bởi kỳ hạn “tiền vào” chỉ vài tháng, còn “tiền ra” tới hàng năm, thậm
chí 5, 10 năm. Lãi suất vượt trần: lãi suất huy động tiền gửi có khi lên đến 19-20%.
“Cá biệt, có ngân hàng phải gọi vốn lãi suất lên tới 21%/năm” (vượt xa trần quy định
14%/năm). Rồi từ quý 4/2011, thị trường liên ngân hàng xuất hiện tình trạng các ngân
hàng giao dịch vốn với nhau áp cơ chế phải thế chấp, có tài sản đảm bảo. Không khí
thị trường trở nên ngột ngạt và vấn đề thanh khoản càng trở nên căng thẳng.
5
Tuy nhiên khác với những kịch bản u ám dự đoán, diễn biến lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng năm qua theo chiều hướng mong muốn, vấn đề thanh khoản “dễ
thở” một cách đáng ngạc nhiên. Thậm chí, tại thời điểm hiện tại, NHNN lại đang phải

đi giải quyết dư thừa thanh khoản thay vì nghĩ bài toán tiếp cận vốn công bằng cho các
ngân hàng nhỏ. Do các giao dịch trên TTLNH trong năm qua chủ yếu tập trung vào
thời hạn ngắn, tổng kết số liệu từ 1/1 – 7/12/2012, nhóm chúng em trình bày được biểu
đồ diễn biến lãi suất kì hạn qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng thị trường LNH như sau:
Qua quan sát biểu đồ, ta thấy có thể chia thành 2 thời kì phân tích với các đặc
điểm tương ứng:
 Lãi suất giảm dần trong 6 tháng đầu năm. Các giao dịch chủ yếu diễn ra với
thời hạn ngắn.
- Ngày 12/1 (trước Tết Nguyên Đán), Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho
biết tốc độ tăng lạm phát giảm xuống, tuy nhiên đây mới là điều kiện cần, chưa phải
điều kiện đủ để hạ lãi suất. Thanh khoản của hệ thống vẫn là vấn đề hết sức quan trọng
và nhức nhối.

- Trong dịp Tết, NHNN đã bơm ra một lượng tiền lớn nhằm giúp các tổ chức tín
dụng đảm bảo được khả năng chi trả cho người dân chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị
trường mở kỳ hạn ngắn (7 ngày và 14 ngày). Do vậy, đã tránh được đầu năm có một
6
lượng tiền quá lớn gây khó khăn trong việc xử lý vấn đề thanh khoản của hệ thống.
Nhìn chung, thanh khoản của các tổ chức tín dụng đã được đảm bảo.
- Tuần từ 30/1 - 3/2 (sau Tết Nguyên đán), tiền đã quay trở lại các ngân hàng và
thanh khoản của các tổ chức tín dụng rất dồi dào. Việc hút tiền về thông qua kênh
nghiệp vụ thị trường mở cũng đã được triển khai tốt. Số liệu từ giới đầu tư cũng cho
thấy NHNN đã bơm ra thị trường mở hơn 23.200 tỷ đồng và hút về hơn 80.000 tỷ
đồng. Mức hút ròng trong tuần là 56.843 tỷ đồng.
Lãi suất liên ngân hàng ngày 4/2 cũng cho thấy điều này, lãi suất qua đêm giảm

còn 12,33 %, kì hạn 1 tuần là 13,51%, 2 tuần là 12,82% và 1 tháng là 13,08%. Tuy
nhiên, đây vẫn chỉ là khởi đầu của cả 1 năm dài và với mức lãi suất này thì các doanh
nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận được nguồn vốn. Để giải quyết bước tiếp theo, đã có
những đề xuất yêu cầu NHNN can thiệp nhằm lấy lại lòng tin thị trường nhanh chóng
như bơm tiền, tăng dự trữ bắt buộc, cho phép xuất khẩu vàng tài khoản.
- Ngày 18/6/2012, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 21/2012/TT-
NHNN. Nội dung thông tư đã chính thức lái hoạt động gửi tiền trên liên ngân hàng
sang cho vay. Đó cũng là quy định quan trọng nhất của Thông tư 21, tiền gửi liên ngân
hàng được xác định lại thành tiền vay liên ngân hàng. Những ngân hàng trước nay đi
gửi sẽ chuyển thành người cho vay và buộc phải trích lập dự phòng rủi ro. Điều kiện đi
vay và cho vay bị thắt chặt khiến qui mô giao dịch trên thị trường giảm hẳn.
Nhìn chung, tính đến tháng 6 lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-9% so với đầu

năm phản ánh thị trường tiền tệ đã ổn định hơn nhiều so với năm 2011. Nguồn thu trên
liên ngân hàng cho các NH lớn vẫn tốt cho đến cuối quý 1/2012. Nhưng từ tháng 4, cả
quy mô giao dịch và lãi suất thu được sụt giảm nhanh chóng cho đến hết quý 2/2012.
Quy mô giao dịch bình quân bằng VND trên liên ngân hàng giảm nhanh và ổn định từ
22.000 - 26.000 tỷ đồng/ngày, không còn phổ biến trên 30.000 - 50.000 tỷ đồng/ngày
như trước đó. Đặc biệt lãi suất bình quân nhận được giảm rất mạnh, nhất là trong tháng
5, chỉ xoay quanh 3 - 5%/năm ghi nhận ở các kỳ hạn ngắn (nhóm kỳ hạn chiếm tỷ
trọng chi phối). Thậm chí có nhiều giao dịch được gọi là “như cho không”, khi lãi suất
7
dưới cả 1%/năm, hay mốc 0,5%/năm mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn
Văn Bình dẫn chứng khi giải trình trước Quốc hội.
Quy mô giao dịch bình quân mỗi ngày bằng VND trên thị trường liên ngân hàng (đơn

vị: tỷ đồng; tính trên cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước)
 6 tháng cuối năm thanh khoản dư thừa. Các giao dịch vẫn tập trung kì hạn
ngắn
- Diễn biến lãi suất giảm trên thị trường liên ngân hàng còn tiếp tục sang quí III
sau đó. Cụ thể, ngày 12/7 lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng được chào
giảm về 3,5%/năm, từ mức 4%/năm một ngày trước đó; lãi suất kỳ hạn 1 tuần về 4-
4,2%/năm, từ mức 4,5%/năm; lãi suất kỳ hạn 1 tháng về 6-7%/năm. Lãi suất trên thị
8
trường liên ngân hàng giảm mạnh cho thấy vốn khả dụng và thanh khoản của ngân
hàng tốt lên.
- Tháng 9, lạm phát tăng vọt lên 2,2% so với tháng 8 là mức tăng cao nhất trong
vòng 16 tháng trước đó. Lãi suất huy động có dấu hiệu vượt trần qui định, là chỉ báo

cho thấy một số ngân hàng có thể có khó khăn về thanh khoản. Khối lượng giao dịch
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng chậm lại khi doanh số giao dịch liên ngân hàng
tháng 9 giảm 60%.
- Tháng 10, mặc dù đã vào giai đoạn sản xuất sôi nổi nhất trong năm, quí IV, và
các ngân hàng, doanh nghiệp phải cán đích kế hoạch năm, song tăng trưởng tín dụng
không được cải thiện, trong khi các ngân hàng vẫn duy trì tốc độ huy động vốn ổn định
khiến lượng vốn dư thừa tiếp tục cao trong các nhà băng, họ buộc phải trú ẩn vào trái
phiếu chính phủ, kênh an toàn nhất.
Tính đến ngày 25-10 NHNN đã phát hành thành công khoảng 14 nghìn tỷ đồng
với lãi suất trúng thầu dao động khoảng 4 đến 7%. Ngoài ra, theo công bố của NHNN,
tăng trưởng huy động vốn của các tổ chức tín dụng đến ngày 19-10 đạt 14,02%, tăng
gấp hơn năm lần so mức tăng trưởng tín dụng 2,77%. Đây là những dấu hiệu cho thấy

xu hướng tích cực của thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Do đó, nhiều ý kiến cho
rằng, vấn đề căng thẳng thanh khoản - vốn được coi là "căn bệnh mãn tính" của hệ
thống ngân hàng trong nhiều năm trước đây sẽ khó có cơ hội bùng phát trở lại trong
năm nay.
Với những gì đạt được tính đến thời điểm này có thể nói vấn đề thanh khoản đã
được nhà nước ta xử lí rất thành công. Mức lãi suất điều hành được giảm nhanh, phù
hợp với diễn biến lạm phát, kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ. Công cụ nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện linh hoạt, khi các TCTD khó khăn thanh khoản thì tăng
cường hỗ trợ, khi cung tiền mạnh thì kịp thời phát hành tín phiếu NHNN với khối
lượng và lãi suất hợp lý, đảm bảo kiểm soát tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý.
2. Thị trường OMO
2.1.Hoạt động thông qua hợp đồng mua kì hạn

9
Trong năm 2012, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã thực hiện việc bơm rút vốn
một cách linh hoạt thông qua việc tiến thành đấu thầu các hợp đồng mua kì hạn Repos
để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và hỗ trợ các ngân hàng đáp ứng yêu cầu
thanh khoản. Lượng vốn bơm hút ròng trên thị trường mở là một nhân tố quan trọng
phản ánh tình trạng thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Thông thường, khi ngân
hàng đang thiếu hụt tiền để đáp ứng yêu cầu rút tiền, cấp tín dụng cho khách hàng
cũng như yêu cầu về dự trữ bắt buộc, tùy vào mức lãi suất, điều kiện tiếp cận vốn mà
các ngân hàng sẽ đi vay trên thị trường mở hoặc trên thị trường liên ngân hàng để bù
đắp sự thiếu hụt đó. Lãi suất liên ngân hàng dựa trên cung, cầu về vốn trên thị trường.
Do đó, nếu thanh khoản của hệ thống rơi vào tình trạng kém, khan hiếm vốn sẽ dẫn tới
cầu về vốn vay tăng và lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh. Điều này sẽ làm các ngân

hàng phải tiếp cận với chi phí vốn vay cao và có thể gây ra sự xáo trộn về măt bằng
các loại lãi suất khác. Trong trường hợp này, ngân hàng nhà nước sẽ bơm vốn mạnh
trên thị trường với một mức lãi suất ưu đãi để hỗ trợ các ngân hàng vượt qua rủi ro
thanh khoản và ổn định nền kinh tế quốc gia.
Dưới đây, nhóm chúng em đã tổng kết lượng vốn bơm hút ròng trên thị trường
OMO thông qua hợp đồng mua kì hạn từ đầu năm tới nay, từ đó xây dựng nên đồ thị
để có thể đưa ra cái nhìn rõ ràng nhất về vấn đề này:
10
Giai đoạn
Lượng vốn
bơm hút ròng
(tỷ đồng)

Giai đoạn
Lượng vốn
bơm hút ròng
(tỷ đồng)
Giai đoạn
Lượng vốn
bơm hút ròng
(tỷ đồng)
02/01 - 06/01 6374 07/05 - 11/05 -141 20/08 - 24/08 23332
09/01 - 13/01 44649 14/05 - 18/05 -99 27/08 - 31/08 -12405
31/01 - 03/02 -56822 21/05 - 25/05 503 03/09 - 07/09 841
06/02 - 10/02 -55356 28/05 - 01/06 30 10/09 - 14/09 -2907

13/02 - 17/02 -21294 04/06 - 08/06 -713 17/09 - 21/09 -592
20/02 - 24/02 3443 11/06 - 15/06 993 24/09 - 28/09 -2860
27/02 - 02/03 -3043 18/06 - 22/06 -944 01/10 - 05/10 -2016
05/03 - 09/03 127 25/06 - 29/06 214 08/10 - 12/10 -1292
12/03 - 16/03 -3665 02/07 - 06/07 -319 15/10 - 19/10 -1724
19/03 - 23/03 -3172 09/07 - 13/07 437 22/10 - 26/10 -655
26/03 - 30/03 -650 16/07 - 20/07 -1194 29/10 - 02/11 3915
02/04 - 06/04 -500 23/07 - 27/07 0 05/11 - 09/11 -4950
09/04 - 13/04 -2187 31/07 - 03/08 32 12/11 - 16/11 -313
16/04 - 20/04 -346 06/08 - 10/08 -32 19/11 - 23/11 -325
23/04 - 20/04 -184 13/08 - 17/08 14 26/11 - 30/11 408
03/12 -06/12 80

Bảng tổng kết số liệu bơm hút vốn ròng trên thị trường mở từ đầu năm 2012
tới 06/12/2012.
(Nguồn số liệu: Website ngân hàng nhà nước Việt Nam www.sbv.com.vn và công
ty chứng khoán Bảo Việt www.bvsc.com.vn)
11
Từ đồ thị và bảng số liệu ta có thể thấy, các thời điểm mà lượng vốn bơm ròng ra
biến động mạnh nhất là giai đoạn tháng 1,2 đầu năm và nửa cuối tháng 8. Trong 2 tuần
đầu tháng 1, lượng vốn bơm ròng tăng một lượng vô cùng lớn, báo hiệu tình trạng
thanh khoản của các ngân hàng đang có vấn đề. Tuy nhiên, đây là một vấn đề mang
tính mùa vụ bởi cứ thời gian này của các năm, ngân hàng nhà nước lại phải bơm vốn
lớn để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng trước nhu cầu rút tiền cũng như thanh
toán của khách hàng vào thời điểm trước Tết Nguyên Đán. Từ đó, chúng ta có thể hiểu

được lý do vì sao ngân hàng trung ương lại hút vốn mạnh trong 3 tuần đầu tháng 2.
Đây chính là thời điểm sau Tết, thanh khoản của các ngân hàng đã được cải thiện,
ngân hàng nhà nước đã hút vốn lớn liên tục trong 3 tuần về để bù cho lượng cung vốn
trong giai đoạn cuối tháng 12 năm 2011 và nửa đầu tháng 1 năm 2012 để tránh gây ra
hiện tượng lạm phát, ổn định nền kinh tế.
Thời điểm cần phải nhắc đến thứ 2 khi xét tới tính thanh khoản ngân hàng thông
qua hoạt động mua kì hạn trên thị trường mở đó là tuần từ 20/08 – 24/08/2012. Ngân
hàng nhà nước đã bơm ròng đột biến 23332 tỷ đồng, cao nhất từ cuối tháng 1 năm
2012. Đây là phản ứng của ngân hàng nhà nước sau khi ngân hàng ACB lâm vào tình
thế khó khăn sau những thông tin tiêu cực từ việc phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ông
Nguyễn Đức Kiên và Nguyên Tổng giám đốc ông Lý Xuân Hải bị bắt. Sự kiện này
12

không những đã gây áp lực lên thanh khoản của ngân hàng ACB mà còn gây áp lực
lên thị trường liên ngân hàng do ngân hàng này có thị phần tương đối lớn trên thị
trường này. Thanh khoản toàn hệ thống ngân hàng đều bị suy yếu và ngân hàng nhà
nước đã phải bơm tiền ra để hỗ trợ và đưa hệ thống về ổn định. Tuy nhiên, sang tới
tuần tiếp theo, ngân hàng nhà nước bắt đầu tiến hành hút ròng vốn do nhận thấy thanh
khoản đã dần ổn định sau khi sự kiện ACB lắng xuống. Sau 8 tuần hút vốn ròng, ngân
hàng trung ương lại chuyển về việc bơm vốn ròng trong tuần từ 29/10 tới 02/11để hỗ
trợ thanh khoản bởi thông thường mặt bằng lãi suất liên ngân hàng có xu hướng tăng
vào đầu tháng. Ngay tuần sau, ngân hàng lại hút vốn ra do thị trường tiền tệ đã ổn
định, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng thấp, thanh khoản ngân hàng dồi dào, nhu cầu
vốn ít. Ở thời gian sau đó, việc bơm hút vốn đã trở về đều đặn chứng tỏ tính đến thời
điểm 6/12, thanh khoản hệ thống ngân hàng Việt Nam coi như đã ổn định.

2.2.Hoạt động thông qua việc phát hành tín phiếu
Ngoài hoạt động bơm rút vốn bằng hợp đồng mua kì hạn, một loại hình khác
được ngân hàng áp dụng trên thị trường OMO đó là việc phát hành tín phiếu. Hoạt
động này cũng nhằm mục đích điều hòa dòng vốn trong nền kinh tế. Khi ngân hàng
nhà nước phát hành tín phiếu nhằm hút vốn trên thị trường và tới khi đáo hạn sẽ lại
bơm tiền ra thị trường. Lượng tín phiếu thắng thầu tại các thời điểm sẽ phản ánh được
mức độ dư thừa vốn cũng như tính thanh khoản của ngân hàng bởi nó phản ánh lượng
tiền mà các ngân hàng dư thừa, sẵn sàng bị hút ra khỏi thị trường
Trong năm 2012, tín phiếu kho bạc bắt đầu được giao dịch trên thị trường mở
bắt đầu từ ngày 15/3 với số lượng trúng thầu là 1764 tỷ đồng cho cả kì hạn 28, 91 và
182 ngày. Việc phát hành tín phiếu kết hợp với việc hút ròng thông qua hợp đồng
Repos đã cho thấy mức độ dồi dào của thanh khoản ngân hàng sau thời điểm Tết

Nguyên Đán. Trong vòng chưa đầy 1 tháng, từ ngày 15/3 tới ngày 6/4/2012, tổng
lượng tiền hút vào nhờ hoạt động phát hành tín phiếu kho bạc lên tới 39075 tỷ đồng.
Bắt đầu từ ngày 9/4, sau quyết định hạ trần lãi suất, lãi suất của tín phiếu kho
bạc bắt đầu giảm xuống. Vào ngày 15/3/2012, lãi suất trúng thầu cho các kì hạn 28, 91
và 182 ngày lần lượt là 11.5%, 12% và 12.5%. Tuy nhiên, tới ngày 6/6/2012, mức lãi
13
suất này chỉ còn tương ứng là 3.8%, 5.7% và 7.45%. Mặc dù lãi suất giảm mạnh
nhưng khối lượng tín phiếu trúng thầu lại không hề giảm xuống. Điều này được lý giải
bởi trong năm tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng âm và lãi suất liên ngân hàng
xuống thấp kỉ lục khiến các ngân hàng thương mại đẩy mạnh vốn vào tín phiếu, một
kênh đầu tư an toàn nhất, lại có thể mang lại nguồn thu cho ngân hàng trong bối cảnh
thừa thanh khoản.

Vào thời điểm giữa tháng 6, lãi suất tín phiếu bắt đầu tăng nhẹ lên mức 4.5%
cho kì hạn 28 ngày nhưng khối lượng trúng thầu chỉ đạt 59 tỷ đồng. Điều này cho thấy
các ngân hàng bắt đầu giảm việc mua vào trái phiếu, kì vọng vào tăng trưởng tín dụng
vào 2 quý cuối năm sau khi các điều kiện cho vay đã giảm đáng kể so với năm 2011
nhằm đem lại lợi ích cho ngân hàng. Phiên giao dịch vào ngày 13/06/2012 cũng là
phiên giao dịch cuối cùng của 2 quý đầu năm và 16 tuần sau, hoạt động này mới được
giao dịch trở lại.
10/10/2012, sau 16 tuần tạm ngưng, NHNN tiếp tục quay trở lại phát hành tín
phiếu chủ yếu ở kì hạn ngắn là 56 ngày và 91 ngày. Lãi suất trúng thầu khá ổn định,
trung bình là 6% cho kì hạn 56 ngày và 6.8% cho kì hạn 91 ngày. Điều này cho thấy
nguồn vốn ngân hàng khá ổn định trong khoảng thời gian trên, tức từ 10/10 cho tới
7/12 năm 2012 và NHNN có thể bơm rút vốn một cách đều đặn trên thị trường.

3. Các ngân hàng thương mại:
Các ngân hàng thương mại luôn gặp vấn đề thanh khoản đối với các khoản tiền
gửi và cho vay, khi mà tình trạng nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng và dài hạn giảm,
tạo ra sự mất cân đối kì hạn đối với vốn cho vay dài hạn. Năm 2012 chứng kiến một
năm khó khăn của các ngân hàng thương mại khi liên tục phải áp dụng các qui định
giảm trần lãi suất của ngân hàng nhà nước. Tính đến nay, lãi suất huy động đã giảm
trần từ 15%/năm xuống còn 9%/năm đối với tiền gửi dưới 1 năm, đồng thời bỏ trần lãi
suất tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng (Thông tư 19/2012/TT-NHNN) sau 4 lần điều
chỉnh giảm, và lãi suất cho vay tối đa là 15%/năm được áp dụng kể từ ngày 04/05
(Thông tư 14/2012/TT-NHNN). Sự điều chỉnh giảm lãi suất này của ngân hàng nhà
nước nhằm mục tiêu giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng hơn, song,
14

mặt khác lại đẩy các ngân hàng thương mại vào tình trạng tăng trưởng tín dụng thấp và
nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao trong năm 2012.
3.1. Tăng trưởng tín dụng:
Dưới đây, nhóm chúng em xin đưa ra đồ thị thể hiện thực trạng về tăng trưởng
tín dụng của các ngân hàng thương mại trong 11 tháng đầu năm 2012 và những
nguyên nhân cùng hậu quả thực trạng này mang lại.
(Nguồn: SBV, Vietinbank Captital tổng hợp)
Dễ dàng nhận thấy, 5 tháng đầu năm 2012, mức tăng trưởng luôn ở mức âm so
với năm trước (2011) đặc biệt vào quí I/2012 - trước thời điểm ngân hàng nhà nước có
qui định giảm trần lãi suất. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ lụy từ năm 2011 – một năm
đóng băng của thị trường bất động sản đã khiến nhiều doanh nghiệp đã không còn khả
năng tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng với lãi suất cao (22-25%/năm), cầu về vốn

vay giảm đã khiến tăng trưởng tín dụng xuống giảm xuống mức âm. Trước tình hình
đó, ngân hàng nhà nước đã có điều chỉnh lãi suất huy động xuống còn 13%/năm vào
ngày 13/03 và lãi suất cho vay tối đa 15% vào ngày 04/05 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp.
Tuy nhiên, giảm lãi suất huy động giúp giảm chi phí vốn cho ngân hàng nhưng
đồng thời khiến khoản tiền gửi trở nên kém hấp dẫn đối với người gửi tiền, dẫn tới
15
lượng tiền gửi có nguy cơ giảm xuống. Ngân hàng dễ gặp phải rủi ro thanh khoản và
thiếu vốn khi tăng trưởng tín dụng trở lại, lợi nhuận giảm sút. Chính điều đó đã tạo nên
một cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng thương mại trong năm 2012.
Các ngân hàng thương mại có xu hướng phục hồi tăng trưởng tín dụng vào 6
tháng cuối năm 2012. Cụ thể, cuối tháng 06/2012, mức tăng trưởng đạt 0,76% so với
năm 2011 và đã có dấu hiệu tăng nhẹ trong các tháng tiếp theo, tuy nhiên tăng trưởng

tín dụng của toàn hệ thống cho đến ngày 20/11 chỉ đạt mức 4,15%, dưới 5%. Theo
nhận định của các chuyên gia, nguyên nhân chính là do năng lực hấp thụ vốn của
doanh nghiệp rất thấp, phần lớn tín dụng bơm ra trong thời gian qua chủ yếu để trả nợ
cũ hoặc đảo nợ do cần phải phóng hàng tồn kho trước khi tính đến việc mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính sự ảm đạm trong tăng trưởng tín dụng đã khiến cho
nhiều ngân hàng thương mại sử dụng một phần nguồn vốn huy động và vốn tự có để
mua trái phiếu chính phủ, đây được xem như một hình thức “cho vay” an toàn, giúp
đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng lại không góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vĩ mô hay nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp.
3.2. Nợ xấu:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu từ năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả gốc và lãi

đối với các khoản vay từ trước đó, dẫn đến thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng
có xu hướng tăng cao. Theo thống kê của ngân hàng nhà nước, nợ xấu của toàn hệ
thống chiếm 8,86% tổng dư nợ tín dụng (khoảng 252.000 tỷ đồng) tính tới thời điểm
30/9/2012, chỉ trong vòng 9 tháng đầu năm 2012, nợ xấu đã tăng 66%. Nguyên nhân
chủ yếu là do các tổ chức tín dụng đã đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro
như bất động sản, không đa dạng hóa danh mục đầu tư. Do đó, khi thị trường bất
động sản đóng băng, giá bất động sản giảm kéo theo nợ xấu cho vay trong lĩnh vực
này tăng và hệ lụy của nó vẫn ảnh hưởng đến năm 2012.
III. Giải pháp tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng
1. Các chính sách của ngân hàng nhà nước
Năm 2012, NHNN đã đưa ra hàng loạt các chính sách, trong đó nhiều chính sách có
tác động tích cực đến toàn hệ thống, một số chưa được thực hiện triệt để. Trong năm

16
tới 2013, NHNN cần tiếp tục triển khai những chính sách mang lại hiệu quả, đồng thời
đưa ra các giải pháp mới tùy theo diễn biến kinh tế từng thời kì.
Thứ nhất, NHNN cần duy trì việc điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ
động, linh hoạt và có hiệu quả, hỗ trợ kịp thời vốn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Năm 2012 vừa qua, NHNN đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát thông qua
việc kiểm soát cung tiền và kiểm soát chặt đối với thị trường LNH thông qua Thông
tư 21/2012/TT – NHNN (NHNN đã đưa ra các qui định như các NHTM có nợ liên
NH quá 10 ngày không được giao dịch tiếp, do nhiều ngân hàng đã sử dụng thị
trường này là công cụ kiếm lời từ các khoản cho vay). Theo đó, NHNN cần tiếp tục
triển khai có hiệu quả chính sách tiền tệ trong năm tới.
Thứ hai, NHNN cần tập trung lành mạnh hóa tài chính của các TCTD, bao gồm

xử lý nợ xấu và tăng vốn điều lệ. Năm 2012 vừa qua, để giải quyết vấn đề nợ xấu,
NHNN đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách như cơ cấu lại các khoản nợ, xóa nợ;
VB 2871 NHNN – TD (NHNN cho phép 14 ngân hàng thương mại lớn nhất hệ thống
mua bán nợ của nhau và của cả hệ thống (16/05/2012); đề xuất thành lập “công ty mua
bán nợ” với chuyên môn tập trung giải quyết các khoản nợ xấu của ngân hàng dưới sự
quản lí của NHNN;… Trong đó, chính sách “mua bán nợ” giữa các NH chưa được
thực hiện triệt để. Sang năm tới, NHNN cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra,
giám sát và yêu cầu TCTD thực hiện hiện phân loại nợ xấu theo qui định.
Thứ ba, NHNN tiếp tục tái cơ cấu ngân hàng. Để có những tổ chức tài chính qui
mô và lành mạnh hơn, NHNN đã tiến hành hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Việt Nam Tín
Nghĩa, Đệ Nhất (năm 2011) và sáp nhập Habubank vào SHB (năm 2012). Việc sáp
nhập và hợp nhất đã mang lại những tín hiệu khả quan cho NH mới ra đời mặc dù phải

gánh vác những khó khăn khá lớn. Nhưng bằng những giải pháp từ bên trong các NH
này, tính thanh khoản được nâng cao rõ rệt. Theo đó, trong năm tới, NHNN sẽ tiếp tục
thực hiện việc tái cơ cấu để duy trì sự an toàn, ổn định, đảm bảo sự lành mạnh cho
toàn hệ thống.
2. Chiến lược quản trị rủi ro của các NHTM:
Quản lý rủi ro thanh khoản không đơn thuần chỉ là vấn đề từ các chính sách của
NHNN mà nó là bài toán khó cho toàn hệ thống nói chung và các NHTM nói riêng Vì
vậy, để nâng cao tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, bản thân các ngân hàng
17
phải có những giải pháp phù hợp nhằm hướng đến mục tiêu chung của hệ thống. Do
đó chúng em xin được đưa ra những giải pháp sau:
Thứ nhất, các NHTM cần tăng cường hoạt động phân tích và dự báo về vấn đề

thanh khoản. Nghiên cứu các nguyên nhân gây rủi ro thanh khoản đồng thời hạn chế
các rủi ro khác như rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng… bởi các rủi ro này
có mối tương quan với nhau và là nguyên nhân sâu xa và căn bản dẫn đến rủi ro thanh
khoản. Xây dựng các mô hình nghiên cứu có tính khoa học cao để phục vụ cho việc
quản trị rủi ro thanh khoản, dự đoán các thay đổi về dòng tiền trong tương lai dưới tác
độngc ủa các nhân tố như lãi suất, lạm phát, thất nghiệp, chu kỳ kinh tế…
Thứ hai, thực hiện cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp nghĩa là cơ cấu
lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường I (huy động tiền gửi từ các tổ chức
và dân cư); cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung, dài hạn, giữa nguồn
huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn nhằm hạn chế những rủi ro có thể
xảy ra như rủi ro tái đầu tư, rủi ro tái cấp vốn… Thêm vào đó, đa dạng hoá các nguồn
tiền nhằm giảm sự phụ thuộc của NHTM vào một nhóm khách hàng cố định và nắm

giữ các tài sản thanh khoản cao như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc
Thứ ba, các ngân hàng đều phải duy trì một tỉ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định
của NHNN bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại các NHTW và các tài sản
có tính thanh khoản cao khác của ngân hàng, đồng thời phải duy trì hoạt động đầu tư
và tài trợ cho các doanh nghiệp hoạt động. Do đó mỗi NHTM nên thực hiện việc phát
hành các giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu huy động vốn giữa thị trường I và thị trường
II (thị trường liên ngân hàng); điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và
rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Giải pháp này kết hợp giữa dự
trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp, giúp cho ngân hàng chủ động trong việc đối phó với rủi
ro thanh khoản đồng thời vẫn có được nguồn thu hợp lí để duy trì hoạt động.
Thứ tư, hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng
đến hạn không trả nợ vay ngay mà đánh đổi chi phí cơ hội của việc tiếp tục vay lại tiền

của ngân hàng bằng số tiền phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng. Thực trạng này
đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, do đó các ngân hàng
18
cần thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất, tránh các khe hở lãi suất và hoàn thiện các quy
định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn)
theo lãi suất thị trường.
Thứ năm, sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng
là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản trong thời gian
qua. Vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn với tỷ trọng lớn hoặc
cùng là ngắn hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau (ví dụ như huy
động trung, dài hạn hai năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng làm cho ngân
hàng khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền vào của mình. Vây nên

các ngân hàng cần ý thức về vấn đề quản trị rủi ro kì hạn bằng việc sử dụng các công
cụ tài chính phái sinh, đặc biệt là hợp đồng hoán đổi lãi suất swap.
Cuối cùng, thành lập các phòng ban chuyên trách, đồng thời đào tạo đội ngũ cán
bộ công nhân viên có chuyên môn, và kinh nghiệm để xây dựng các chính sách về vấn
đề quản trị rủi ro thanh khoản.
19
C. KẾT LUẬN
Qua những nội dung phân tích trên đây, chúng ta có thể thấy được tầm quan
trọng của vấn đề thanh khoản đối với hoạt động ngân hàng nói riêng cũng như các
ngành khác nói chung. Nó giống như sự lưu thông huyết mạch của toàn bộ nền kinh tế
- sản xuất vậy. Đặc biệt, trước bối cảnh bất ổn của thị trường tiền tệ trong nước và thế
giới đầu năm 2012, thanh khoản đã được nhìn nhận là điểm mấu chốt tháo gỡ hàng

loạt các vấn đề về hạ lãi suất, phục hổi thị trường tài sản (chứng khoán, bất động sản)
và thực hiện thành công chương trình tái cấu trúc Chính phủ đưa ra.
Với sự nỗ lực không ngừng, ngành ngân hàng đã thực hiện nhiều giải pháp điều
hành tiền tệ linh hoạt, thận trọng, giữ ổn định thị trường tiền tệ, hỗ trợ tháo gỡ khó
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Và kết
quả đạt được là rất đáng ghi nhận. Các mức lãi suất điều hành đều giảm phù hợp với
diễn biến lạm phát, mức trần huy động về cơ bản không vượt quá 14%, lãi suất liên
ngân hàng giảm mạnh 8-9% so với đầu năm phản ánh thị trường tiền tệ ổn hơn rất
nhiều so với năm 2011. Thanh khoản của toàn hệ thống được đảm bảo và hoàn toàn
không gây áp lực cho nền kinh tế như những kịch bản bê bối dự đoán hồi đầu năm.
Thậm chí đến nay, thanh khoản còn được cho là dư thừa. Thành công này có được là
nhờ sự sử dụng linh hoạt công cụ nghiệp vụ thị trường mở, khi các TCTD khó khăn

thanh khoản thì tăng cường hỗ trợ, khi cung tiền mạnh qua kênh mua ngoại tệ thì kịp
thời phát hành tín phiếu NHNN với khối lượng và lãi suất hợp lý, đảm bảo kiểm soát
tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý.Tuy nhiên, khi thanh khoản không còn là
nỗi lo, lãi suất mặt bằng chung đã giảm nhưng các mục tiêu liên quan vẫn chưa có
chuyển biến thực sự tích cực. Điển hình như vấn đề tăng trưởng tín dụng, thậm chí đã
được coi là mục tiêu cho 6 tháng cuối năm 2012. Điều này khẳng định để thúc đẩy
tăng trưởng tín dụng hay nói đơn giản là giúp doanh nghiệp thực sự tiếp cận được
nguồn vốn, cải thiện sản xuất, lưu thông và phục hồi nền kinh tế thì phải có sự đồng bộ
các giải pháp từ các chính sách kinh tế vĩ mô hơn nữa.
20
Như vậy, sau một năm quyết liêt triển khai hàng loạt các biện pháp, chính sách
dưới sự điểu hành, giám sát chặt chẽ của NHNN, hoạt động các TCTD về cơ bản bình

ổn, an toàn, hoạt động lành mạnh, trật tự kỉ cương thị trường đã được khôi phục lai và
được duy trì ổn định. Riêng vấn đề thanh khoản, dù hiện tại đã không còn là mục tiêu
hàng đầu nhưng vẫn luôn cần được quan tâm, giám sát, dự báo sát với diễn biến thị
trường để kịp thời giải quyết nhằm điều hành tốt các mục tiêu liên quan về lãi suất, tỉ
giá, cân đối vĩ mô…
21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Principle of banking, G. Jay Francis, Susan M.Siege, American Bankers
Association, 7
th
edition
2. The economics of Money, Banking and Financial markets, Frederic

S.Mishkin, 7
th
edition
3. Bài viết “Khủng hoảng ngân hàng Northern Rock, bài học không chỉ của xứ
sương mù” trên website bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: />tabid=121&News=526&CategoryID=2
4. Hệ thống báo cáo kết quả đầu thầu thị trường mở OMO của ngân hàng nhà
nước Việt Nam trên website: />ut/p/c5/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3hnd0cPE3MfAwN3r0BnA093r2ALE
ydDAwMLM_1wkA7cKgxMIfIGOICjgb6fR35uqn5Bdnaao6OiIgCws9R4/dl3/d3/L3d
Db0EvUU5RTGtBISEvWUZSdndBISEvNl9GMkE2MkZIMjA4NDAzMEk0RTlRT0
dWSlI3Ng!!/
5. Bản tin trái phiếu các tuần của công ty chứng khoản Bảo Việt năm 2012
6.

cuoi-nam/ct-538238
7.
bao-thanh-khoan-cuoi-nam-2184800/
8.
%C4%91%E1%BA%BFn-r%E1%BB%A7i-ro-thanh-kho%E1%BA%A3n
9.
%C3%ADnh%29
10.
ngan-hang-dang-kha-doi-dao.aspx
11.
thong-ngan-hang-van-thieu-on-dinh
12.Thông cáo chi về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng6 tháng

đầu năm và giải pháp cho 6 tháng cuôi năm
Bản đánh giá kết quả làm việc của các thành viên trong nhóm:
1. Nguyễn Thị Phương Anh:
- Tính cấp thiết của đề tài
- Thực trạng tính thanh khoản thể hiện qua nghiệp vụ thị trường mở OMO
22
- Tổng hợp, hoàn thiện đề cương
- Thuyết trình
2. Nguyễn Minh Huệ
- Thực trạng tính thanh khoản qua thị trường Liên ngân hàng
- Kết luận
- Thuyết trình

3. Trần Trang Anh
- Mục đích nghiên cứu
- Chiến lược quản trị rủi ro của NHTM (Giải pháp tăng tính thanh khoản cho
ngân hàng thương mại)
- Thuyết trình
4. Chu Minh Châu
- Hoàn thiện đề cương chi tiết
- Thực trạng tính thanh khoản qua tình hình các ngân hàng thương mại
- Các chính sách của NHNN để tăng tính thanh khoản cho ngân hàng thương
mại
- Hoàn thiện powerpoint cho bài thuyết trình
5. Vũ Quỳnh Liên

- Các lý thuyết liên quan tới thanh khoản và rủi ro thanh khoản
- Tổng hợp đề cương
- Thuyết trình
23

×