Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tiểu luận: Chính sách ngoại thương Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.1 KB, 33 trang )






Tiểu luận
Chính sách ngoại thương Trung Quốc


MỤC LỤC
1.

Tổng quan về quốc gia Trung Quốc 1

1.1.

Vị trí địa lý 1

1.2.

Đôi nét về lịch sử Trung Quốc: 2

2.

Phân tích chính trị 2

3.

Phân tích kinh tế: 3

3.1.



Tổng quan nền kinh tế Trung Quốc 3

3.2.

M ột số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Trung Quốc 5

3.3.

Phân tích GDP và lực lượng lao động 7

3.3.1

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): 7

3.3.2

Lực lượng lao động 8

3.3.3

Lạm phát 9

3.3.4

Tỉ giá Đồng Nhân dân Tệ 11

3.3.5

Tăng trưởng GDP 13


3.3.6

Ngoại thương Trung Quốc 16

3.3.7

Cán cân thanh toán (BOP) 21

4.

Phân tích rủi ro: 25

4.1.

Rủi ro chính trị 25

4.2.

Rủi ro kinh tế 25

4.2.1

Rủi ro hạ cánh cứng của Trung Quốc 25

4.2.2

Kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu: 27

4.2.3


Nguy cơ chiến tranh thương mại: 28

4.2.4

Chất lượng hàng hóa: 28

4.3.

Rủi ro tài chính 29


Trang 1

1. Tổng quan về quốc gia Trung Quốc
1.1. Vị trí địa lý
 Vị trí: Đông Á, biên giới giáp với biển Đông Trung Quốc, vịnh Hàn Quốc,
Hoàng Hải, và Nam Hải, giữa Bắc Triều Tiên và Việt Nam.
 Diện tích: 9.596.960 km2
 Lãnh thổ: t ổng cộng 22.117 km.
 Các quốc gia giáp ranh: Afghanistan 76 km, Bhutan 470 km, Burma 2,185 km,
Ấn Độ 3,380 km, Kazakhstan 1,533 km, Bắc Triều Tiên 1,416 km, Kyrgyzstan 858 km,
Lào 423 km, Mông Cổ 4,677 km, Nepal 1,236 km, Pakistan 523 km, Nga (Đông bắc)
3,605 km, Nga (Tây bắc) 40 km, Tajikistan 414 km, Việt Nam 1,281 km.
 Biên giới nội địa: Hồng Kông 30 km, M acau 0.34 km
 Tài nguyên thiên nhiên: Than, sắt, dầu, khí đốt, thủy ngân, thiếc, vonfram,
mangan, vanadi, nhôm, chì, urani…
 Diện tích đất sử dụng:
 Đất canh tác: 15,4%
 Vụ mùa chính: 1,25%

 Khác: 83,35%
 Ruộng nước : 525.800 km2
 Thiên tai: Thường xuyên có bão (khoảng 5 lần trong năm ở biển phía Đông và
Nam), lũ lụt, sóng thần, động đất, hạn hán, đất sụt lún.
 Dân số: 1,348 tỷ
 Dân tộc: Người Hán chiếm 91,9%, người Zhuang, Uygủ, Hui, Yi, M iêu, M ãn
Châu, M ông cổ, Buyi, Hàn Quốc và các dân tộc khác chiếm 8,1%.
 Tôn giáo: Đạo giáo, Phật giáo, Hồi giáo chiếm 1-2%, Thiên chúa giáo chiếm 3-
4%
 Ngôn ngữ: Tiếng phổ thông (tiếng Bắc Kinh), t iếng Quảng Đông, Thượng Hải,
 Phổ cập giáo dục: 90,9% tổng dân số
Bảng 1: Một vài chỉ số cơ bản tại Trung Quốc
Chỉ số cơ bản Trung Quốc Đông Á Thái Bình Dương
Dân số (triệu dân) 1,348 1,838
Dân số thành thị 38% 38%
Tốc độ tăng dân số 0,8% 1,0%
Tỷ lệ tử vong trẻ em 30 (trên 1,000 ca sinh) 33 (trên 1,000 ca sinh)
Tỷ lệ mù chữ (15 tuổi trở lên) 14% 13%
Trang 2

Tuổi thọ trung bình 71 năm 69 năm
Tỷ lệ sử dụng nước sạch 75% 76%
Chỉ số Gini (thể hiện sự bất
bình đẳng về phân phối thu
nhập)
40,3
Nhật 24,9 Hàn Quốc 31,6 Malaysia 38,4
Việt Nam 36,1 Thái Lan 41,4 Mông Cổ 33,2
Nguồn: World Bank
1.2. Đôi nét về lịch sử Trung Quốc:

Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc là nền văn minh đứng đầu thế giới về nghệ thuật
và khoa học, nhưng trong thế kỷ 19 và đầu thể kỷ 20, Trung Quốc bị bao vây bởi sự bất
ổn về dân sự, nạn đói nghiêm trọng, thất bại quân sự và bị nước ngoài chiếm đóng. Sau
chiến tranh Thế giới thứ 2, Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông thành lập chế độ
chuyên quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo chủ quyền của Trung Quốc và đã kiểm
soát chặt chẽ cuộc sống hàng ngày cũng như chi phí sinh hoạt của hơn 10 triệu người dân.
Sau năm 1978, người nối nghiệp của ông ta, Đặng Tiểu Bình, và các nhà lãnh đạo
khác tập trung cho phát triển kinh tế thị trường và đến năm 2000 sản xuất đã tăng lên gấp
4 lần. Đối với phần lớn dân số, chất lượng cuộc s ống đã được cải thiện đáng kể và tự do
cá nhân cũng được tự do phát triển hơn, nhưng kiểm soát chính trị vẫn bị thắt chặt.
Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa từ 2002 đến nay: Cuộc khủng hoảng lớn nhất
tầng lớp lãnh đạo mới của Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào lãnh đạo phải đối mặt trong thế
kỷ 21 là vấn đề về sức khỏe cộng đồng với đại dịch SARS. Lập trường của Trung Quốc
trong cuộc chiến chống khủng bố khiến nước này trở nên gần gũi hơn với Hoa Kỳ, nhưng
đã bị chỉ trích khi đàn áp những người theo chủ nghĩa ly khai tại Tân Cương. Kinh tế tiếp
tục tăng trưởng ở mức hai con số và sự phát triển tại các vùng nông thôn đã trở thành
mục tiêu quan trọng của chính phủ. Với 1.3 tỷ dân, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã trở
thành một nhân tố quan trọng trong tương lai thế giới.
2. Phân tích chính trị
 Tên chính thức: Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc
 Loại hình nhà nước: Cộng Sản
 Thủ đô: Bắc Kinh
 Hiến pháp: hầu hết được công bố vào tháng 12 năm 1982
 Hệ thống pháp luật: là sự kết hợp phức tạp giữa phong tục và luật pháp, luật
hình sự, luật dân sự thô sơ có hiệu lực từ 01/01/1987; những bộ luật mới có hiệu lực từ
Trang 3

năm 1980; Trung Quốc đang nỗ lực để cải thiện luật dân sự, hình sự, thương mại và quản
lý.
 Người đứng đầu nhà nước:

 Chủ tịch: Hồ Cẩm Đào
 Phó chủ tịch: T ập Cận Bình
 Người đứng đầu chính phủ:
 Thủ tướng: Ôn Gia Bảo
 Chính phủ: hội đồng nhà nước được bầu chọn bởi Quốc hội
 Bầu cử: Chủ tịch và phó chủ tịch được Quốc hội bầu chọn 5 năm một lần; kỳ
bầu cử trước đó diễn ra vào tháng 3 năm 2008; Thủ tướng được Chủ tịch đề cử và được
Quốc hội thông qua.
 Lập Pháp: Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (2.985 ghế, nhiệm kỳ 5 năm)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là nhà nước cộng sản trong suốt thế kỷ 20 và vẫn
được công nhận là nhà nước cộng sản bởi các chuyên gia chính trị. Trong 2.000 năm, đến
trước năm 1949, nhà nước bị nắm giữ bởi các tập đoàn phong kiến với sự ảnh hưởng sâu
rộng của đạo Khổng đến cấu trúc chính trị và xã hội hiện nay.
Chế độ chính trị của Trung Quốc được mô tả rộng rãi là: chuyên chế, chủ nghĩa
cộng sản, chủ nghĩa xã hội và những hình thức hỗn hợp của các chế độ đó.
Chính quyền Trung Quốc bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc chi phối. Có một vài
đảng phái khác ở đây nhưng hầu hết đều có mối liên hệ hay là phụ thuộc vào đảng Cộng
Sản. Ảnh hưởng của các đảng phái này với chính quyền rất nhỏ bé.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc có những chính sách để đàn áp và bắt giữ những tổ
chức và cá nhân bị cho là gây nguy hại đến sức mạnh của Đảng, Những phát ngôn về
chính trị bị kiểm soát chặt chẽ, có thể lấy sự kiện vụ biểu tình ờ Thiên An Môn làm ví dụ.
Sự ủng hộ dành cho Đảng Cộng sản Trung Quốc của toàn dân là không rõ ràng vì
không có các cuộc bầu cử toàn dân. Những nhà chính trị lo ngại về sự phân hóa giàu
nghèo và sự tăng trưởng không ổn định cũng như nạn tham nhũng trong giai cấp lãnh đạo
Trung Quốc.
3. Phân tích kinh tế:
3.1. Tổng quan nền kinh tế Trung Quốc
Kể từ năm 1978 chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã cải cách nền
kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo mô hình Liên Xô sang một nền
kinh tế theo định hướng thị trường trong khi vẫn duy trì thể chế chính trị do Đảng Cộng

Trang 4

sản Trung Quốc lãnh đạo. Chế độ này được gọi bằng tên "Chủ nghĩa Xã hội mang màu
sắc Trung Quốc", là một loại kinh tế hỗn hợp.
Theo đó, chính quyền đã chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã sang chế độ khoán đến
từng hộ gia đình trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng quyền tự chủ của các quan chức địa
phương và các thủ trưởng nhà máy, cho phép sự phát triển đa dạng của doanh nghiệp nhỏ
trong lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp nhẹ và m ở cửa nền kinh tế để tăng ngoại hối và
đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã tập trung vào việc gia tăng thu nhập, sức tiêu thụ và đã
áp dụng nhiều hệ thống quản lý để giúp tăng năng suất. Chính phủ cũng đã t ập trung vào
ngoại thương như một đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Trong thập niên 1980, các cải cách này đã giúp cho sản lượng nông nghiệp và
công nghiệp hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng lên tới 10% hay hơn. Thu nhập thực tế bình
quân đầu người ở nông thôn đã tăng gấp đôi. Ngành công nghiệp đã đạt được thành tựu
lớn đặc biệt ở các khu vực duyên hải gần Hồng Kông và khu vực đối diện với eo biển Đài
Loan, những nơi mà vốn đầu tư nước ngoài đã giúp thúc đẩy sản lượng của cả hàng hóa
nội địa và hàng xuất khẩu. Trung Quốc đã trở thành một nước tự túc được về ngũ cốc;
các ngành công nghiệp ở nông thôn đã chiếm 23% sản lượng nông nghiệp, giúp thu hút
lực lượng lao động ở vùng quê. Lượng hàng tiêu dùng và công nghiệp nhẹ đã tăng lên.
Các cuộc cải cách đã được bắt đầu trong các hệ thống tài chính công, tài chính, ngân
hàng, định giá và lao động. Các cải cách quyết liệt từ những năm 1978 đã giúp hàng triệu
người thoát nghèo, đưa tỷ lệ nghèo từ 53% dân số năm 1981 xuống còn 8% vào năm
2001.
Về mặt trái của nền kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc, sự lãnh
đạo theo chế độ hỗn hợp đã khiến nền kinh tế phải hứng chịu những kết quả tồi tệ nhất do
các hạn chế của mô hình xã hội chủ nghĩa (sự quan liêu, mệt mỏi, tha hóa chính trị,
không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân) và các mặt trái của chủ nghĩa tư bản (thu nhập bất
thường, phân hóa giàu nghèo, lạm phát tăng cao) gây ra. Do đó, Trung Quốc đã quay về
đường lối cũ, tái thắt chặt kiểm soát của Trung ương trong những khoảng t hời gian nhất
định.

Chính phủ đã nỗ lực để:
 Duy trì tăng trưởng đầy đủ công ăn việc làm cho hàng chục triệu công nhân bị
sa thải từ doanh nghiệp nhà nư ớc, người di cư, và những người mới tham gia vào lực
lượng lao động.
 Làm giảm tham nhũng và tội phạm kinh tế khác.

Trang 5

 Giữ lại các doanh nghiệp nhà nước quy mô hiện tại, nhiều doanh nghiệp trong
số đó đã được bảo vệ khỏi cạnh tranh bằng cách trợ cấp trong khi đã mất khả năng chi trả
đầy đủ tiền lương và lương hưu.
Từ năm 1993, sản lượng của cải vật chất tăng nhanh và giá cả leo thang, đầu tư
bên ngoài ngân sách Nhà nước tăng vọt cùng với sự mở mang kinh tế đã được kích thích
từ việc thành lập các đặc khu kinh tế, chúng cũng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế do có dòng chảy lớn của vốn đầu tư nước ngoài vào các đặc khu kinh tế
này. Chính phủ Trung Quốc đã phê chuẩn thêm những cải tổ dài hạn với mục tiêu để cho
các thể chế định hướng thị trường có nhiều vai trò hơn đối với nền kinh tế và mục tiêu
tăng cường kiểm soát hệ thống tài chính; các doanh nghiệp quốc doanh sẽ tiếp tục đóng
vai trò chủ đạo trong nhiều ngành then chốt, theo một mô hình được gọi là một nền "kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa".
Đến nay Trung Quốc đã đạt được sự tăng trưởng đáng kể và ổn định trong
tiêu dùng, đầu tư, mức sống và nhiều thành tựu vượt bậc. Nền kinh tế Trung Quốc
được xem là nền kinh tế lớn đứng thứ hai thế giới về GDP danh nghĩa, chỉ sau Mỹ, được
xem là nền kinh tế phát triển nhanh nhất của thế giới, với tốc độ tăng trưởng trung bình
trên 10% qua 30 năm. Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới. Trên
cơ sở thu nhập bình quân đầu người, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Trung Quốc đứng
thứ 90 trong năm 2011. Nhìn chung các tỉnh trong khu vực ven biển của Trung Quốc có
xu hướng công nghiệp hóa hơn các khu vực nội địa. Như một nền kinh tế m ới nổi và
đang phát triển có nguồn gốc chủ yếu là từ các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu, nền
kinh tế Trung Quốc hiện nay được quản lý bởi chỉ số tổng hợp tình hình sản xuất (PMI -

Purchasing Managers Index).
3.2. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Bảng 2 : M ột số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Trung Quốc qua các năm
Chỉ tiêu - Tỷ USD 2008 2009 2010 2011
Ước tính

2012
GDP danh nghĩa 4,521

4,991 5,930

7,298


GDP-tính theo PPP 8,219

9,057 10,086

11,290


GDP bình quân đầu người (danh
nghĩa)
3,413

3,748 4,432

5,449



GDP bình quân đầu người (tính
theo PPP)
6,189

6,786 7,519

8,382


Tăng trưởng GDP thực (%) 9.60%

9.20% 10.40%

9.20%

8.20%

Lạm phát (%) 5.90%

-0.70% 3.30%

5.40%

3.30%

Nợ công (% tổng nợ chính phủ
trên GDP)
17.00%

17.70% 33.50%


25.80%

22.00%

Trang 6

Thâm hụt ngân sách công (%) -0.40%

-3.10% -2.30%

-1.20%

-1.30%

Dân số (triệu người) 1,324

1,331 1,337

1,348


Tỷ lệ thất nghiệp (%) 4.00%

4.30% 4.10%

4.10%

4.00%


Xuất khẩu 1,432

1,202 1,506

1,904


Nhập khẩu 1,151

1,006 1,156

1,743


Nguồn: Worl d Bank
 Năm 2011 xếp hạng thứ 2 về GDP (danh nghĩa) và hạng thứ hai về GDP (PPP)
trên thế giới (chỉ sau Mỹ).
 Tiền tệ: Đồng nhân dân tệ (CNY)
 Tỷ giá hối đoái cố định U SD = 6.458843 CNY (Trung bình trong năm 2011)
 Các tổ chức thương mại: WTO , APEC , G-20 và một số tổ chức khác
 Hàng hóa xuất khẩu: Điện và các máy móc thiết bị, bao gồm cả thiết bị xử lý
dữ liệu, may mặc, dệt may, sắt thép, quang học và thiết bị y tế.
Tăng trưởng xuất khẩu vẫn tiếp tục là một thành phần quan trọng hỗ trợ t ăng
trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc - nước có xuất khẩu tạo ra tới 25% GDP và
200 triệu việc làm. Xuất khẩu ở mức thấp làm tăng lo ngại về sự s uy giảm của kinh tế
Trung Quốc. Các đối tác xuất khẩu chính: Hoa Kỳ 17,1%, Hồng Kông 14,1%, Nhật Bản
7,8%, Hàn Quốc 4,4%, Đức 4% (2011).
 Hàng hóa nhập khẩu: Điện và các m áy móc, dầu và khoáng sản nhiên liệu,
quang học và thiết bị y tế, quặng kim loại, nhựa, hóa chất hữu cơ. Các đối tác nhập khẩu
chính Nhật Bản 11,2%,% Hàn Quốc 9.3, Mỹ 6,8%, Đức 5,3%, Úc 4,6% (2011).

 Các lĩnh vực kinh tế:
 Nông nghiệp
Các sản phẩm nông nghiệp chính: lúa, lúa mỳ, khoai tây, lúa miến, lạc, chè, kê,
lúa mạch, bông vải, hạt dầu, thịt lợn, cá.
 Công nghiệp
Các ngành chính: sắt thép, than đá, máy móc, vũ khí, may mặc, dầu mỏ, xi măng,
hóa chất, giày dép, đồ chơi, chế biến thực phẩm, ô tô, điện tử t iêu dùng, viễn thông, công
nghệ thông tin.
Các ngành công nghiệp quốc doanh lớn có thể kể đến: sắt, thép, chế tạo máy, các
sản phẩm công nghiệp nhẹ, vũ khí và hàng dệt may. Các ngành này đã trải qua một thập
kỷ cải cách (1979-1989) song không có thay đổi phương thức quản lý nào đáng kể. Các
sản phẩm máy móc và điện tử đã trở thành các mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc.
Trang 7

 Dịch vụ: Trung Quốc xếp thứ 9 thế giới về giá trị sản lượng dịch vụ. Tỷ trọng
điện năng và viễn thông cao đảm bảo xu thế tăng trưởng nhanh dài hạn trong lĩnh vực
dịch vụ
3.3. Phân tích GD P và lực lượng lao động
3.3.1 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP):
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở Trung
Quốc đạt giá trị 7298,10 tỷ đô la Mỹ trong năm 2011. Giá trị gia tăng GDP của Trung
Quốc tương đương với 11,77% của nền kinh tế thế giới. Trong lịch sử, từ năm 1960 đến
năm 2011, GDP của Trung Quốc trung bình đạt 963,6 tỷ đô la, cao nhất đạt 7298,1 tỷ đô
la vào tháng 12/2011 và thấp nhất đạt 46,5 tỷ đô la vào tháng 12/1962.
Bảng 3: Tổng sản phẩm quốc nội (GD P) qua các năm

Bảng 4: Cơ cấu % GDP (danh nghĩa) phân theo lĩnh vực qua các năm
Cơ cấu GDP danh nghĩa qua các năm
0.0%
10.0%

20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%

1
,
9
9
1




1
,
9
9
3




1
,
9
9
5





1
,
9
9
7




1
,
9
9
9




2
,
0
0
1





2
,
0
0
3




2
,
0
0
5




2
,
0
0
7




2
,
0

0
9




2
,
0
1
1



%
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ

Nguồn:World Bank
Trang 8

Qua biểu đồ nhận thấy hai lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế có truyền
thống là nông nghiệp và công nghiệp, cùng sử dụng hơn 70% lực lượng lao động và sản
xuất hơn 60% GDP. Hai lĩnh vực khác nhau ở nhiều khía cạnh. Công nghệ, năng suất lao
động và thu nhập đã được cải tiến nhanh chóng trong ngành công nghiệp hơn trong lĩnh
vực nông nghiệp. Sản lượng nông nghiệp dễ bị tổn thương với các tác động của thời tiết,
trong khi ngành công nghiệp ảnh hưởng trực tiếp bởi chính phủ. Sự chênh lệch giữa hai
khu vực này đã kết hợp để tạo thành một khoảng cách kinh tế - văn hóa - xã hội giữa các
vùng nông thôn và thành thị.

3.3.2 Lực lượng lao động
Trước đây, Trung Quốc là đất nước dư thừa lao động, một yếu tố giúp nước này có
lợi thế lớn trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên đến năm 2005, nền kinh tế mở rộng gấp 20
lần, hơn phân nửa dân số sống ở các đô thị, Trung Quốc đã xuất hiện các dấu hiệu cầu về
lao động lớn hơn, với việc người lao động có thể chọn công việc được trả lương cao hơn
và các điều kiện làm việc tốt hơn, giúp cho cho nhiều người lao động có thể từ bỏ cuộc
sống cư xá tù túng và công việc nhà máy buồn tẻ là đặc trưng của các ngành xuất khẩu ở
Quảng Đông và Phúc Kiến. Lương tối thiểu bắt đầu tăng lên đến mức tương đương 100
đô la Mỹ một tháng trong khi nhiều công ty tranh giành lao động có thể trả 150 USD mỗi
tháng.
Sự chuyển biến cơ cấu dân số là hệ quả của chính sách một con tiếp tục làm giảm
nguồn cung lao động những người trong độ tuổi lao động. Theo số liệu thống kê dân số
của Cục Thống Kê Trung Quốc, trong năm 2010 tỷ lệ dân số nằm trong độ tuổi 0-14
giảm xuống còn 16,6% thay vì mức 22,9% của năm 2000. Trong khi đó, dân số trên 60
tuổi tăng lên 13,3% so với mức cũ là 10,3%. N gân hàng Phát triển Châu Á (ADB) dự
đoán tỷ lệ dân số trên 60 tuổi của Trung Quốc sẽ tăng lên mức 33% vào năm 2050.
Từ đó dẫn đến chi phí lao động tiếp tục tăng và sự thiếu hụt lao động không có tay
nghề cao với hơn một triệu lao động đang được tìm kiếm, tạo sức ép lợi nhuận đối với
các nhà sản xuất có giá trị gia tăng thấp.
Với tình trạng khan hiếm lao động ngày càng trầm trọng, cùng với sự tiếp tục nỗ
lực thúc đẩy việc làm trong năm, đưa ra các chính sách thuế ưu đãi và hỗ trợ tài chính,
năm 2011 tỷ lệ thất nghiệp ở Trung Quốc vẫn giữ nguyên là 4,1% so với năm 2010 và đã
giảm mức kỷ lục 3,9% trong tháng 9/2012.



Trang 9

Bảng 4: Thống kê tỷ lệ thất nghiệp tại Trung Quốc (%)


Thống kê từ năm 2002 đến năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp trung bình tại Trung Quốc
đạt 4,2%.
3.3.3 Lạm phát







Bảng
5: Tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc qua các năm (%)
Nguồn: IMF
Thống kê cho thấy tỷ lệ lạm phát trung bình ở Trung Quốc từ 2002 đến 2012. Tỷ
lệ lạm phát được t ính bằng cách sử dụng việc tăng giá của một rổ hàng hóa xác định. Giỏ
sản phẩm có chứa các sản phẩm và dịch vụ, mà người tiêu dùng trung bình dành tiền
trong suốt cả năm. Chúng bao gồm các chi phí cho các cửa hàng tạp hóa, quần áo, tiền
Trang 10

thuê nhà, điện, viễn thông, các hoạt động giải trí và nguyên liệu (ví dụ như dầu, khí đốt),
cũng như lệ phí và các loại thuế liên bang. Trong năm 2011, tỷ lệ lạm phát trung bình ở
Trung Quốc là khoảng 5,4% so với năm trước.
Lạm phát ở Trung Quốc là hệ quả tổng hòa của các nhân tố tiền tệ, chi phí đẩy,
ngoại nhập, cầu kéo và thiên tai, cùng các nhân tố khác, như đầu cơ, tâm lý và những hạn
chế trong cơ cấu kinh tế của bản thân mô thức phát triển của Trung Quốc Trong đó, có
sự mất cân đối cung-cầu và tăng giá lương thực, thực phẩm, nhất là nông sản gắn với
thiên tai và hiện tượng đầu cơ trong lưu thông; do tăng lương và giá tài sản, nhất là bất
động sản; nhưng chủ yếu là do chính sách tài chính - tiền tệ nới lỏng quá mức
Theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, trong 30 năm qua, Trung
Quốc ba lần đối diện sức ép lạm phát cao vào các năm 1985; 1988-1989 và 1992-1996.

Trong đó, mức lạm phát (thể hiện qua chỉ số CPI) trung bình đạt tới 14,11% trong giai
đoạn 1992-1996, thậm chí cuối năm 1994, tỷ lệ lạm phát ở Trung Quốc đã gần chạm đỉnh
30%. Từ năm 1994 đến năm 2010, tốc độ lạm phát trung bình mỗi năm là 4,3%. Năm
2011, lạm phát có xu hướng tăng nhanh: so với cùng kỳ năm ngoái, CPI tháng 1 và tháng
2 vừa qua tăng 4,9% (giá lương thực và thực phẩm tăng tới 10,3%, trong đó giá lương
thực tăng 15,1%, còn giá rau quả tươi tăng gần 35%); CPI tháng 3 tăng 5,4% (trong đó
giá lương thực tăng 11,7%) và tháng 4 là 5,3%. Tuy nhiên, đến tháng 5, CPI lại tăng lên
mức 5,5% và trong tháng 6 là 6,1%. Ðây là mức tăng nhanh nhất trong vòng 35 tháng
qua.
Tuy nhiên trong suốt năm 2011, Chính phủ Trung Quốc đã thiết lập như là ưu tiên
hàng đầu đưa lạm phát trong tầm kiểm soát. Thành công này đã được công nhận rộng rãi
khi tháng 10/2011 giá tiêu dùng (CPI) đã giảm xuống còn 5,5% so với đỉnh cao tháng
7/2012 là 6,5%.
Trung Quốc đã kiểm soát khá tốt lạm phát bằng cách đưa ra các gói hỗ trợ hiệu
quả. Việc so sánh sự tăng trưởng kinh tế nhờ các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc
đem lại kết quả ấn tượng. Lý tưởng nhất là một so sánh của tăng trưởng kinh tế sẽ được
thực hiện giữa quý 4 năm 2007, đỉnh cao của chu kỳ kinh doanh trước đây của Hoa Kỳ.
Giữa quý 3 năm 2007 và quý thứ 3 của năm 2011, nền kinh tế của Trung Quốc tăng
42,2%. Trong khi nền kinh tế M ỹ đã tăng trưởng chỉ có 0,6%. Như vậy, tăng trưởng kinh
tế của Trung Quốc trong thời gian này nhanh hơn 70 lần ở Mỹ. So với sự thất bại của các
gói kích thích kinh tế ở những trung t âm kinh tế lớn khác, gói kích thích kinh tế vào năm
2008 của Trung Quốc được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất của quản lý
kinh tế vĩ mô trong lịch sử kinh tế.
Do đặc t hù của nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu nên nền kinh tế Trung Quốc
chịu ảnh hưởng không nhỏ vào mức tiêu thụ của cầu quốc tế
Trang 11

Nhưng các dữ liệu cho thấy rõ ràng cho thấy một mối tương quan chặt chẽ giữa
chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc và giá cả hàng hóa thế giới. Điều này được minh
họa trong Hình 1, trong đó cho thấy những thay đổi hàng năm trong chỉ số giá tiêu dùng

của Trung Quốc và chỉ số giá cả hàng hóa quốc tế của IM F. Sự chuyển động song song
lên xuống của giá cả hàng hóa thế giới và chỉ số CPI của Trung Quốc là hiển nhiên.

Bảng 6:

Chỉ số CPI của Trung Quốc không phải là một y ếu tố đủ lớn trong nền kinh tế thế
giới để xác định giá cả hàng hóa thế giới. Do đó, hoặc là giá cả hàng hóa thế giới gây ra
những thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc hoặc một yếu tố thứ ba, ví dụ
như yếu tố cung và cầu quốc tế, gây ra những thay đổi song song trong cả hai. Đương
nhiên không phải tất cả các tin tức là tốt. Lý do giá cả hàng hóa đang giảm nhanh như
vậy là do suy thoái kinh tế quốc tế - trong đó có hậu quả tiêu cực đối với hàng xuất khẩu
của Trung Quốc.
3.3.4 Tỉ giá Đồng Nhân dân Tệ
Trung Quốc đã sử dụng chính sách kìm hãm tỷ giá trong nhiều năm. Chính sách
này của Trung Quốc có thể là để cạnh tranh ráo riết với các nhà xuất khẩu khác trong
nhóm các nước đang phát triển, chứ không phải đơn giản là để làm cho hàng Trung Quốc
rẻ hơn khi nhập khẩu vào Mỹ, và hàng Mỹ đắt hơn khi vào Trung Quốc. Nếu Trung Quốc
giữ giá nhân dân t ệ thấp hơn giá trị thực khi so với USD, hàng hoá Trung Quốc sẽ có giá
cả cạnh tranh hơn hàng hoá của các nước khác khi nhập khẩu vào Mỹ.
Trang 12

Biểu đồ bên dưới cho thấy, sự gia t ăng của đồng đôla Mỹ trong những năm 1980
không làm gia t ăng lượng hàng nhập khẩu cho đên khi xuất hiện sự mất giá lớn của đồng
Nhân D ân Tệ trong tháng 1 năm 1994 từ 5,8210 - 8,7219 tạo ra một môi trường tỷ giá hối
đoái thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc. Việc đánh giá đồng Nhân dân tệ
bắt đầu từ năm 2005 đã không tác động thực sự vào sự tăng trưởng nhập khẩu từ Trung
Quốc. Có lẽ vết lõm lớn nhất trong xu hướng tỷ giá đồng nhân dân tệ là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008- 2009 ảnh hưởng lớn đến cầu tiêu dùng M ỹ.

Bả

ng 7:










Một báo cáo được ngân hàng Thế giới công bố cho thấy việc nhân dân tệ tăng giá
10% so với USD sẽ làm tăng trung bình khoảng 1,5 - 2% lượng xuất khẩu một số mặt
hàng từ các nước đang phát triển vào Mỹ. Trong một số trường hợp, mức tăng có thể lên
đến 6% cho mỗi biên độ tăng 10% của nhân dân tệ so với U SD.
Ba nhà kinh tế đã phát hiện rằng cách thức Trung Quốc định giá nhân dân tệ ảnh
hưởng lớn đến các nư ớc đang phát triển xuất khẩu hàng sang Mỹ hơn là với chính nước
Mỹ.
Nếu Trung Quốc giữ giá nhân dân tệ thấp hơn giá trị thực khi so với USD, hàng
hoá Trung Quốc sẽ có giá cả cạnh tranh hơn hàng hoá của các nước khác khi nhập khẩu
vào Mỹ.
Báo cáo trên có thể sẽ biến các tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc về định giá
nhân dân tệ trở thành một vấn đề đa phương hơn. Khi các quốc gia đang phát triển khác
Trang 13

nhận thấy lợi ích của chính mình trong việc làm tăng giá nhân dân tệ, việc gây sức ép để
Trung Quốc phải nâng giá nhân dân tệ sẽ không chỉ đến từ Mỹ, mà còn đến từ các nước
đang phát triển có hàng nhập khẩu vào Mỹ.
Việc duy trì đồng nhân dân tệ thấp hơn giá trị thực của nó và ảnh hưởng nhiều đến
các quốc gia, trong đó có M ỹ. Điều này đã dẫn đến việc hạ viện Mỹ đã thông qua điều

luật cho phép trừng phạt Trung Quốc nếu quốc gia này tiếp tục duy trì đồng nhân tệ yếu,
gây bất lợi cho Mỹ. M ỹ cho rằng đây là nguyên nhân khiến nhiều người Mỹ mất việc làm.
Tỷ lệ bỏ phiếu 348/29 cho thấy sự ủng hộ cao đáng ngạc nhiên của Hạ viện đối với một
điều luật chống lại Trung Quốc trong nhiều năm qua. Vài tiếng đồng hồ trước khi bỏ
phiếu thông qua điều luật, Tổng thống Mỹ Obama nhấn mạnh: "Đồng nhân dân tệ bị kìm
giá là nguy ên nhân gây thâm hụt thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc".
Như vậy, việc kìm hãm tỷ giá đồng nhân dân tệ đã giúp cho Trung Quốc gia tăng
lượng hàng xuất khẩu đáng kể, tuy nhiên đây cũng là lý do khiến các quốc gia “phẫn nộ”
và tạo sức ép buộc Trung Quốc phải định giá lại đồng tiền của mình. Đây là cuộc chiến
qua nhiêu năm để đòi lại sự công bằng trên thương trường quốc tế. Trước sức ép của
cộng đồng quốc tế, nhất là Mỹ, Trung Quốc đã tuyên bố mở rộng tính linh hoạt trong
biên độ tỷ giá, nhưng sẽ tiến hành dần dần, tùy thuộc năng lực hấp thụ của các doanh
nghiệp, cũng như việc làm, vì mục tiêu duy trì sự ổn định của toàn xã hội.
3.3.5 Tăng trưởng GDP
Việc tăng phân cấp cho các lãnh đạo chính quyền khu vực và quản lý các nhà máy
trong khu công nghiệp kể từ cuộc cải cách kinh tế năm 1978, cho phép hoạt động một
loạt các công ty vừa và nhỏ trong lĩnh vực dịch vụ; mở cửa nền kinh tế để tăng đầu tư và
thương mại nước ngoài vào, kết quả là GDP của Trung Quốc đã có những bước tăng
trưởng ngoạn mục đặc biệt là trong 2 thập kỷ trở lại đây, đỉnh điểm là năm 1992 nền kinh
tế tăng trưởng 14,2%. Các năm tiếp theo nền kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng
ấn tượng 2 con số, chỉ trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế châu Á nổ ra vào cuối thế kỷ
20, nền kinh tế Trung Quốc phát triển một con số. Tuy vậy, thời gian này tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc cũng rất ấn tượng, trong những năm này, nền kinh tế Trung Quốc
tăng trưởng thấp nhất là 7,6% vào năm 1999 và sau đó từ năm 2003 đến 2007 Trung
Quốc trở lại t ăng trưởng với 2 con số. Khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra nền kinh
tế Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng, nhưng phát triển “ấn tượng”. Năm tăng trưởng thấp
nhất của nền kinh tế Trung Quốc thời kỳ này là 9,2% vào năm 2011.
Sau 3 thập kỷ tăng trưởng ngoạn mục, vào quý II năm 2010 nền kinh tế Trung
Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới. Theo số liệu
của Ngân hàng thế giới trong năm 2010, GDP của Trung Quốc đạt 5.930 tỷ USD, trong

Trang 14

khi GDP của Nhật Bản chỉ đạt 5.488 USD. Các dự báo trước đây cho thấy rằng Trung
Quốc vào năm 2020 sẽ vượt nền kinh tế Nhật Bản để trở thành nền kinh t ế thứ hai thế
giới, tuy nhiên với tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ, khoảng 10%/năm, vào quý II/2010
nền kinh tế Trung Quốc đã chiếm vị chí thứ 2 của Nhật Bản. Dự báo sớm nhất năm 2030
kinh tế Trung Quốc có thể vượt Mỹ trở thành nền kinh tế số 1 thế giới.
Dưới đây là bảng số liệu về tăng trưởng GDP, GDP bình quân, tỷ lệ tăng trưởng
hàng năm và Lạm phát hàng năm của Trung Quốc từ năm 1991 đến 2011 (số liệu theo
nguồn của World bank).
Bảng 8: Số liệu về tăng trưởng GD P, GDP bình quân, tỷ lệ tăng trưởng hàng
năm và Lạm phát hàng năm của Trung Quốc từ năm 1991 đến 2011

Indicator Name 1991 1992 1993 1994 1995
GDP (billion US$) 379,47 422,66 440,50 559,22 728,01
GDP growth (annual %) 9,2 14,2 14 13,1 10,9
Inflation, GDP deflator (annual
%) 6,85 8,24 15,12 20,61 13,74
GDP per capita (US $) 329,75 362,81 373,80 469,21 604,23

Indicator Name 1996 1997 1998 1999 2000
GDP (billion US$) 856,08 952,65 1.019,46

1.083,28

1.198,47

GDP growth (annual %) 10 9,3 7,8 7,6 8,4
Inflation, GDP deflator (annual
%) 6,44 1,51 (0,86) (1,25) 2,06

GDP per capita (US $) 703,12 774,47 820,86 864,73 949,18

Indicator Name 2001 2002 2003 2004 2005
GDP (billion US$) 1.324,81

1.453,83

1.640,96

1.931,64

2.256,90
GDP growth (annual %) 8,3 9,1 10 10,1 11,3
Inflation, GDP deflator (annual
%) 2,05 0,58 2,61 6,91 3,93
GDP per capita (US $) 1.041,64

1.135,45

1.273,64

1.490,38

1.731,13

Indicator Name 2006 2007 2008 2009 2010 2011
GDP (billion US$) 2.712,95

3.494,06


4.521,83

4.991,26

5.930,53

7.298,10

GDP growth (annual
%)
12,7 14,2 9,6 9,2 10,4 9,2
Trang 15

Inflation, GDP
deflator
(annual %)
3,79 7,60 7,80 (0,59) 6,68 5,40
GDP per capita (US $) 2.069,34

2.651,26

3.413,59

3.748,93

4.432,96

5.449,71




Biểu đồ:
(1.000)
-
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
7.000
8.000
1
9
9
1
1
9
9
2
1
9
9
3
1
9
9
4
1
9

9
5
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2

2
0
0
3
2
0
0
4
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0

1
0
2
0
1
1
-3
0
3
6
9
12
15
18
21
24
%
GDP (trillion USD) GDP per capita (USD) GDP growth (%) Inflation, GDP deflator (%)

Tuy là nước khổng lồ của kinh tế thế giới với vị trí thứ 2 từ năm 2010, nhưng
Trung Quốc vẫn là quốc gia thấp về thu nhập bình quân đầu người. Theo IM F, năm 2011
Trung Quốc đứng vị trí thứ 90 về GDP bình quân đầu người, trong khi nền kinh tế hàng
đầu thế giới là Mỹ đứng ở vị trí thứ 14 với 48.387 USD, và GDP đầu người của Nhật Bản
đứng thứ 18 thế giới với 45.920 USD.
Mặt khác, với tốc độ phát triển nhanh chóng, nền kinh tế Trung Quốc có nguy cơ
rơi vào rủi ro tăng trưởng nóng. Rủi ro khi nền kinh tế rơi vào tăng trưởng nóng:
 Rủi ro bùng nổ phá sản: dấu hiệu sớm nhất của áp lực phát triển quá nóng và
quá mức là việc phá sản hàng loạt các công ty.
 Lạm phát gia tăng: Rõ ràng ở đây khi nền kinh tế phát triển quá nóng thì lạm
phát cũng gia tăng theo. Sự lý giải cho việc lạm phát gia tăng ở chỗ khi nền kinh t ế phát

triển quá nóng thì cầu hàng hóa dịch vụ rất lớn, tuy nhiên thì cung lại không đáp ứng
được nó, chính vì cung cầu không gặp nhau được dẫn đến giá cả hàng hóa gia tăng để bù
đắp cho sự thiếu hụt nguồn cung này. Trong nền kinh tế nóng thì sự tăng giá của ngành
Trang 16

này rất dễ lan tỏa sang các ngành khác và ra toàn bộ nền kinh tế. Sự tăng giá về lương
thực thực phẩm, điện, nước, sẽ làm tầng lớp người lao động dễ bị tổn thương nhất. Đây
có thể là nhân tố gây bất ổn chính trị nhất mà nhà nước không bao giờ muốn xẩy ra.

Tăng trưởng tín dụng: trong nền kinh tế nóng, tăng trưởng tín dụng luôn ở
mức cao. Nhiều công ty vay mượn bên ngoài tăng lên và giá tài sản được nhìn nhận như
những cái bong bóng. Hiện tượng bong bóng bất động sản và những hệ lụy của nó khi
bong bóng bất động sản đổ vỡ sẽ kéo theo sự đổ vỡ của hệ thống tài chính và các ngành
khác.

3.3.6 Ngoại thương Trung Quốc
BẢNG 9: FOREIGN TRADE (U.S. $ BILLION)

Nguồn : Tradingeconomics
Giai đoạn trước năm 2008 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK) Trung Quốc có
mức tăng trưởng tốt qua các năm. Theo số liệu thống kê ở trên, trong năm 2008 tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đạt 2.583,62 tỷ USD, tăng 20,9% so với năm 2007.
Trong đó, xuất khẩu đạt 1.432,14 tỷ USD, tăng 19,5%; nhập khẩu đạt 1.151,48 tỷ USD,
tăng 22,8%. Thặng dư thương mại đạt 280,66 tỷ USD, tăng 7,8%.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, trong năm 2008 kim
ngạch XNK mậu dịch thông thường đạt 1.235,26 tỷ USD, tăng 27,6%. Trong đó, xuất
khẩu đạt 662,58 tỷ USD, tăng 22,9%; nhập khẩu đạt 572,68 tỷ USD, tăng 33,6%. Cũng
trong năm 2008, kim ngạch XNK mậu dịch gia công đạt 1.053,59 tỷ USD, tăng 6,8%.
Trang 17


Trong đó, xuất khẩu đạt 675,18 tỷ USD, tăng 9,3%; nhập khẩu đạt 378,4 tỷ USD, tăng
2,7%.
Trong quan hệ với các bạn hàng chủ yếu, EU tiếp tục là bạn hàng lớn nhất của
Trung Quốc. Trong năm 2008, kim ngạch mậu dịch song phương đạt 425,58 tỷ USD,
tăng 19,5%, tốc độ tăng so với mậu dịch song phương giữa Trung Quốc – Mỹ, Trung
Quốc – Nhật Bản lần lượt là 9 và 6,5 điểm %. Trong năm 2008, M ỹ giữ vững vị trí là bạn
hàng lớn thứ hai của Trung Quốc với kim ngạch mậu dịch song phương đạt 333,74 tỷ
USD, tăng 10,5%. Nhật Bản vẫn là bạn hàng lớn thứ ba của Trung Quốc với kim ngạch
mậu dịch song phương đạt 266,78 tỷ U SD, tăng 13%. N goài ra, Ấn Độ là bạn hàng đứng
thứ mười trong tốp 10 bạn hàng chủ yếu của Trung Quốc với kim ngạch mậu dịch song
phương đạt 51,78 tỷ USD, tăng 34%.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu năm 2008:
 Xuất khẩu sản phẩm cơ điện đạt 822,93 tỷ USD, tăng 17,3%. Trong đó, xuất
khẩu sản phẩm điện khí, điện tử đạt 342,02 tỷ USD, tăng 13,9%;
 Xuất khẩu thiết bị máy móc đạt 268,63 tỷ USD, tăng 17,5%;
 Xuất khẩu sản phẩm kỹ thuật cao đạt 415,61 tỷ USD, tăng 13,1%.
 Xuất khẩu hàng may mặc và phụ kiện đạt 119,79 tỷ USD, tăng 4,1%;
 Xuất khẩu sợi, hàng dệt đạt 65,37 tỷ USD, tăng 16,6%, tốc độ tăng 1,6 điểm % ;
 Xuất khẩu các loại dày dép đạt 29,66 tỷ USD, tăng 17,2%, tốc độ tăng 1,2
điểm%;
 Xuất khẩu dụng cụ gia đình đạt 26,91 tỷ USD, tăng 21,5%;
 Xuất khẩu mặt hàng nhựa đạt 15,83 tỷ USD, tăng 9,4%, tốc độ tăng nhẹ 0,6
điểm %.
Bảng 10: Cơ cấu m ặt hàng xuất khẩu năm 2008:


Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu năm 2008:
Trang 18

 Nhập khẩu sản phẩm sơ cấp đạt 362,78 tỷ USD, tăng 49,2%, chiếm 32% tổng

giá trị nhập khẩu của cả năm, tốc độ tăng 6,6 điểm % so với năm 2007.
 Nhập khẩu hàng công nghiệp đạt 770,31 tỷ USD, tăng 8,1%, chiếm 68% tổng
giá trị nhập khẩu của cả năm. Trong đó, nhập khẩu sản phẩm hóa chất và các sản phẩm
có liên quan đạt 119,19 tỷ USD, tăng 10,8%;
 Nhập khẩu ôtô đạt 408 nghìn chiếc, tăng 30,6%;
 Nhập khẩu vật liệu thép đạt 15,43 triệu tấn, giảm 8,6%.
Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế, ngoại thương của Trung
Quốc liên tục giảm mạnh từ tháng 11/2008 đến tháng 3/2009 mới bắt đầu hồi phục trở lại,
đến tháng 8/2009 xu hướng hồi phục được xác định về cơ bản, đến tháng 11/2009 kim
ngạch XNK bắt đầu tăng trư ởng so với cùng kỳ năm trước, đến tháng 12/2009 cả nhập
khẩu lẫn xuất khẩu đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước và t ăng mạnh so với tháng
11/2009, giá trị nhập khẩu trong tháng đạt mức cao kỷ lục, giá trị xuất khẩu trong tháng
đạt mức cao thứ 4 trong lịch sử, điều này chứng tỏ ngoại thương Trung Quốc đang tăng
tốc hồi phục. Đồng thời, việc nhập khẩu tăng mạnh, chứng tỏ hiệu quả của chính sách
kích thích kinh tế đã được thể hiện, điều này cũng có lợi cho việc thúc đẩy kinh tế thế
giới khôi phục.
Năm 2010 ngoại thương Trung Quốc đã khôi phục lại ở mức trước khi khủng
khoảng tài chính quốc tế. Ngoại thương p hát triển theo hướng cân bằng, thặng dư thương
mại có phần giảm; Có chuyên gia nhận định rằng, trong tương lai do chính sách nới lỏng
tiền tệ của các nước như Mỹ, Nhật sẽ làm cho giá của các mặt hàng có số lượng lớn tăng
lên, dẫn đến việc nhập khẩu của Trung Quốc vẫn tiếp tục giữ ở mức cao, kim ngạch xuất
nhập khẩu các doanh nghiệp dân doanh tăng trưởng với tốc độ nhanh. Xét theo phương
thức mậu dịch, đồng thời với việc XNK của mậu dịch gia công vẫn tiếp tục giữ được tăng
trưởng ổn định thì XNK của mậu dịch thông thường tăng tốc độ phát triển, thay thế mậu
dịch gia công, chiếm giữ một vị trí đáng kể. Ngoài ra, trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu,
xuất khẩu hàng hóa truyền thống chủ yếu có số lượng lớn trong năm 2010 có mức tăng
tốt, hơn nữa mức tăng xuất khẩu sản phẩm cơ điện có giá trị đi kèm cao đạt 30,9%, chiếm
đến gần 60% tổng giá trị xuất khẩu trong năm của Trung Quốc
Một đặc điểm khác của ngoại thương Trung Quốc trong năm 2010 là quan hệ với
các thị trường đang nổi phát triển với tốc độ nhanh chóng, việc đa dạng hóa thị trường trở

nên rõ nét hơn. Trong đó, kim ngạch thương mại song p hương với các nước ASEAN đạt
292,78 tỷ USD, tăng 37,5%, gần ngang bằng với kim ngạch thương mại song phương
Trung – Nhật là 297,77 tỷ USD.


Trang 19

Nguồn: Economywatch năm 2010
USA
7%
Japan
13%
South
Kor ea
10%
German
y
5%
khác
65%
China's import
partners


Theo thống kê của
Hải quan Trung Quốc, 6
tháng đầu năm nay, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu
của Trung Quốc đạt
1.839,8 tỷ USD, tăng

trưởng 8,0% so với cùng
kỳ; trong đó xuất khẩu đạt
954,3 tỷ USD, tăng 9,2%,
nhập khẩu đạt 885,4 tỷ
USD tăng 6,7%, thặng dư
thương mại đạt 68,9 tỷ USD. Nhìn lại số liệu luỹ kế qua các tháng có thể thấy, 6 tháng
đầu năm nay, ngoại thương Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng lần đầu tiên đạt mốc 8,0%
(luỹ kế các tháng từ đầu năm chỉ đạt trong khoảng từ 6,0% - 7,7%), kim ngạch nhập khẩu
vẫn duy trì ở mức 6,7% trong khi kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng trưởng khá hơn
9,2%.
6 tháng đầu năm 2012, các đối tác thương mại hàng đầu của Trung Q uốc theo thứ
tự là EU, Hoa Kỳ, ASEAN, Nhật Bản và Hồng Kông với kim ngạch song phương lần
lượt là 267,8 tỷ USD; 2311 tỷ USD; 187,8 tỷ USD; 161,9 tỷ USD và 147,4 tỷ USD. Tổng
kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc với 5 đối tác thương mại chính này đã đạt gần
1.000 tỷ USD, trong đó Hoa Kỳ có tốc độ tăng trưởng tốt nhất đạt 11,9%, EU chỉ đạt
0,7%, và Hồng Kông đạt 9,7%, ASEAN đạt 9,7% và Nhật Bản giảm 0,2%.
Trang 20

Đối tác xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc là Hoa Kỳ với kim ngạch xuất khẩu
đạt 165,3 tỷ USD, tiếp theo đó là EU đạt 163,0 tỷ USD, Hồng Kông đạt 139,3 tỷ USD,
ASEAN đạt 93,5 tỷ USD và Nhật Bản đạt 73,6 tỷ USD. Đối tác nhập khẩu lớn nhất của
Trung Quốc vẫn là EU với kim ngạch đạt 104,7 tỷ USD, tiếp theo đó là ASEAN đạt 94,3
tỷ USD, Nhật Bản đạt 88,3 tỷ USD và Hàn Quốc đạt 77,9 tỷ USD. Điều đáng chú ý là,
mặc dù Trung Quốc và Hồng Kông đã ký CEPA từ năm 2003, theo đó Trung Quốc ưu
đãi thuế nhập khẩu cho hầu hết hàng hoá có xuất xứ Hồng Kông nhập khẩu vào Trung
Quốc, tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu từ Hồng Kông vào Trung Quốc 6 tháng đầu năm
chỉ đạt 8,1 tỷ USD, trong khi đó kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Hồng Kông
lại đạt tới trên 139 tỷ USD và Hồng Kông là đối tác nhập khẩu lớn thứ 3 của Trung Quốc
sau Hoa Kỳ và EU.
Cũng theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, kim ngạch thương mại hai chiều

Việt Nam - Trung Quốc 6 tháng đầu năm 2012 đạt 22,2 tỷ USD, t ăng 23,0% so với cùng
kỳ và có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khối các nước A SEAN, trong đó Trung Quốc
xuất khẩu sang Việt Nam đạt 14,8 tỷ USD tăng 10,6% , Trung Quốc nhập khẩu từ Việt
Nam đạt 7,36 tỷ USD, tăng trưởng ấn tượng 58,6%, cũng là tốc độ tăng trưởng cao nhất
trong khối các nước A SEAN. Trong khi đó tăng trưởng ngoại thương của Trung Quốc
với cả khối ASEAN đạt là 9,7%, xuất khẩu tăng 16,8% và nhập khẩu tăng 3,5%, chỉ đạt
mức trung bình.
Tuy vậy, theo các chuyên gia kinh tế nhận định, ngoại thương Trung Quốc đang đứng
trước 7 thách thức lớn, đó là:
 Thứ 1: Nhu cầu thị trường thế giới suy giảm.
 Thứ 2: Cọ sát mậu dịch giữa các nước, nhất là giữa T rung Quốc với Mỹ và
Châu Âu ngày càng tăng.
 Thứ 3: Tỉ giá đồng Nhân dân tệ (RMB) so với đồng USD tăng lên.
 Thứ 4: Giá cả mặt hàng nguyên nhiên liệu tăng lên đáng kể làm chi phí đầu vào
tăng lên.
 Thứ 5: Tình trạng thiếu điện xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương.
 Thứ 6: Yếu tố giá cả đất đai, thuế môi trường và tiền vốn hiện đang là vấn đề
nổi bật.
 Thứ 7: Giá thuê nhân công ngày càng cao, nên việc thuê mướn nhân công gặp
nhiều khó khăn.
Tờ “Thương báo quốc tế” dẫn phát biểu của Tổng thư ký WTO Pascal Lamy cho biết
năm 2010 ngoại thương thế giới tăng trưởng là 13,8%, năm 2011 chỉ tăng có 5%, năm
2012 ngoại thương thế giới dự kiến chỉ tăng trưởng 3,7%, tới năm 2013 m ới có thể lạc
Trang 21

quan hơn và dự kiến ở mức xấp xỉ 5%. Trong tình hình này, ngoại thương Trung Quốc
cũng suy giảm theo, như năm 2010 tăng trưởng tới 28,4%, năm 2011 chỉ tăng trưởng có
9,3%, kém xa con số năm trước.
3.3.7 Cán cân thanh toán (BOP)
a. Chỉ số thanh khoản

Bảng 11:
Nguồn: Tradingeconomics

Chỉ số này thể hiện mức độ cạnh tranh của một quốc gia. Thông thường, các nước
có chỉ số này cao thì nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào doanh thu xuất khẩu, tỷ lệ tiết
kiệm cao khá cao và nhu cầu trong nước yếu. Ngược lại, các quốc gia ghi nhận mức thâm
hụt tài khoản vãng lai thì nền kinh tế thiên về nhập khẩu, tỷ lệ tiết kiệm thấp và tỷ lệ tiêu
dùng cá nhân cao.
Trong lịch sử, từ năm 1980 đến năm 2011,Tài khoản vãng lai so với GDP trung
bình 2,4% ; Tỷ lệ này cao nhất vào cuối năm 2007 ở mức 10,6% và tỷ lệ này thấp nhất
vào cuối 1985 ở mức -3.7 %. Cán cân thanh toán của Trung Quốc đã thay đổi chóng mặt
trong thời gian qua. Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2007, thặng dư tài
khoản vãng lai của nước này đã tăng từ 2,8% lên 10,6% GDP, nhưng sau đó, lại giảm còn
4,00% vào cuối năm 2011. Đóng góp của xuất khẩu và nhập khẩu vào GDP cũng lên
xuống tương tự.
Theo lý thuyết, mức thặng dư và thâm hụt tài khoản vãng lai phản ánh hành vi tiết
kiệm và đầu tư của nền kinh tế: các nước có thặng dư tiết kiệm, chẳng hạn như Trung
Quốc, sẽ xuất khẩu vốn, còn các nước thâm hụt thì nhận về luồng t iền này. Các nước
Trang 22

thặng dư được hưởng thu nhập nhiều hơn từ các khoản tiết kiệm, trong khi các nước thâm
hụt mất ít chi phí đầu tư hơn. Chỉ có điều, quan điểm lạc quan này không còn đáng tin
cậy sau hàng loạt những cú sốc lặp đi lặp lại ở thị trường tài chính quốc tế trong vòng 3
thập kỷ qua và đã lên đến đỉnh điểm với cuộc khủng hoảng ở các nước có thu nhập cao
năm 2008. Đặc biệt, Mỹ đã chứng tỏ sự bất lực trong việc sử dụng các dòng vốn sao cho
hiệu quả: nước này đã t ài trợ cho thâm hụt ngân sách. Dĩ nhiên, Mỹ và các nước nhập
khẩu vốn khác đã và đang bị chỉ trích về những hậu quả này.
Ngoài những điểm chung nói trên, nhiều vấn đề đặc thù cũng nổi lên xung quanh
sự bùng nổ thặng dư cán cân vãng lai của Trung Quốc. Đó phần nào là hậu quả của
những can thiệp vào thị trường ngoại hối và việc tích trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ của

Trung Quốc đã tăng từ mức 170 tỷ USD vào tháng 1/2001 lên tới 3.200 tỷ USD cuối năm
ngoái. Tất cả những chính sách kinh tế của Trung Quốc thuộc về chủ nghĩa trọng thương
– hướng về xuất khẩu. Hơn nữa, nếu một nước có sự bùng nổ về đầu tư và một vị thế
ngoại giao tốt, tiêu dùng thường phải được kiềm nén và tiết kiệm nên được khuy ến khích.
Đó là những gì đã xảy ra: tiêu dùng tư nhân của Trung Quốc đã giảm từ mức 46% GDP
năm 2000 xuống 36% năm 2007. Cùng thời gian, tổng tiêu dùng giảm từ 62% xuống
49% GDP, trong khi tổng tiết kiệm tăng từ 38% lên 51%. M ột phần đáng kể của khối
lượng tiết kiệm này được đầu tư ra nước ngoài.
Vì vậy, việc thặng dư cán cân t hanh toán giảm xuống sẽ có lợi cho cả Trung Quốc và
phần còn lại của thế giới.
Đầu tiên, việc Trung Quốc giảm thặng dư tài khoản vãng lai đồng nghĩa với sự
tăng lên về giá trị tài khoản này ở phần còn lại của thế giới. Năm 2008, thặng dư của
Trung Quốc là 9,6% GDP. Đến cuối năm 2011, thặng dư cán cân vãng lai của nước này
giảm còn một nửa so với năm 2008, chỉ bằng 4,00%GDP.
Thứ hai, đối lại với sự thay đổi của dự trữ bên ngoài, đầu tư trong nước cũng cao hơn. Từ
năm 2007 đến 2010, đầu tư trong nước đã tăng gần 7 điểm phần trăm. Trong mỗi năm kể
từ 2007, đầu tư bất động sản đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng của GDP. OECD đã nhấn
mạnh trường hợp Trung Quốc như sau: “Cầu nội địa hầu như phản ánh đầu tư cơ sở hạ
tầng công và được tài trợ bởi các nguồn ngoài ngân sách”.
Đáng tiếc, quá trình loại bỏ sự mất cần bằng - thặng dư tài khoản vãng lai - đã làm
tệ hại thêm những mất cân bằng trong nước - đầu tư cao bất thường. Giả định Trung
Quốc sẽ tăng trưởng với tốc độ 7% trong thập kỷ tới; đầu tư giảm từ 50% nhưng vẫn giữ
trên 40% và thặng dư cán cân vãng lãi vẫn chiếm 3% GDP. Để đạt được 7% tăng trưởng
GDP như kỳ vọng, tiêu dùng cần tăng 9%, trong khi đầu tư tăng 4,6%. Đây là điều không
thường, trừ khi có một sự thay đổi lớn trong việc phân bổ thu nhập theo hướng tăng phần
Trang 23

cho khu vực hộ gia đình, mà điều này lại cần đến những cải cách toàn diện trong hệ thống
tài chính, trong quản trị doanh nghiệp và thậm chí trong cơ cấu quyền lực của đất nước.
b. Chỉ số khả năng thanh toán

Bảng 12:











Tỷ lệ Nợ Chính phủ so với GDP dùng để đo lường khả năng một quốc gia thanh
toán nợ của nó trong tương lai, do đó nó ảnh hưởng đến chi phí vay của quốc gia đó và
lãi suất trái phiếu chính phủ. Trong lịch sử, từ năm 1984 đến năm 2011, nợ Chính phủ
Trung Quốc so với GDP trung bình 12,0% . Con số này được ghi nhận ở mức thấp nhất
là 1,0% vào năm 1984 và cao nhất vào năm 2010 là 33,5%. Đến thời điểm hiện tại đang
giữ ở mức 25.8% .
Trên giấy tờ, nợ của Trung Quốc chỉ ở mức 17.7% GDP vào năm 2010, khiến Bắc
Kinh trở thành một mẫu mực so với các chính phủ Phương Tây tiêu xài quá tay. Tuy
nhiên, nếu tính các khoản nợ của địa phương, chi phí tái cấp vốn cho các ngân hàng nhà
nước, trái phiếu do ngân hàng nhà nước phát hành và trái phiếu đường sắt, tổng nợ của
Trung Quốc có thể lên tới 70-80% GDP, gần bằng mức nợ công của Mỹ và Anh. Do hầu
hết các khoản nợ này được vay trong thập niên vừa qua, nên Trung Quốc đang trên quỹ
đạo không bền vững với tốc độ tích tụ nợ hiện nay, đặc biệt khi tăng trưởng kinh tế chậm
lại như đã được dự báo cho thập niên kế tiếp. Mặc dù Trung Quốc là nền kinh tế phát
triển nhanh nhất thế giới, có dự trữ ngoại hối và thặng dư thương mại khổng lồ, nhưng thị
trường vẫn lo ngại khoản nợ địa phương lớn có thể ảnh hưởng đến ổn định kinh tế quốc
gia.
Trả lời phỏng vấn CNBC, nhà phân tích thuộc Mizuho Securities Asia - Jim Antos

nói rằng, tính trên thang điểm từ 1 đến 10 về mức độ nguy hiểm của nợ nần, thì Trung

×